Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Khơ Mú
Showing posts with label ₪ Dân tộc Khơ Mú. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Khơ Mú. Show all posts

Sunday, April 2, 2017

Hương xuân núi rừng Sơn La (Ngọc Phương)

Biểu diễn xòe chá của đồng bào Thái Trắng (Ảnh: Ng.Phương)

Người Khơ Mú nghe chim hót véo von, nước chảy róc rách, và cất lên lời ca theo những giai điệu đó. Cứ thế truyền đời, những bài hát ấy trở thành điệu dân ca riêng của dân tộc. Xuân này, những câu hát ấy đã ngân nga theo chân tôi từ núi rừng Tây Bắc về Thủ đô. Bài hát xuất hiện từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết rằng từ bao đời nay người Khơ Mú vẫn truyền cho nhau những lời ca ngọt ngào, sâu lắng ấy. Cộng đồng dân tộc thiểu số này sinh sống ở núi rừng Tây Bắc
với đời sống tinh thần phong phú. Cùng làm nên Sắc thái Văn hóa Sơn La tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam những ngày đầu xuân Đinh Dậu, các nghệ nhân từ bản Thàn còn mang tới điệu múa truyền thống Vêlr guông với điệu lắc hông nhịp nhàng, uyển chuyển của các cô gái, nhịp điệu rộn ràng từ nhạc cụ bằng tre, nứa, trống... Nghệ nhân Hà Văn Châm cho biết, điệu múa thường được trình diễn trong lễ hội Mah grợ, lễ hội lớn nhất trong năm của người Khơ Mú có ý nghĩa tổng kết vụ mùa năm cũ, và khai mở vụ mới.


Ngoài câu hát, điệu múa của dân tộc Khơ Mú, bức tranh văn hóa đa sắc màu của Sơn La còn được đồng bào nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh mang đến Hà Nội. Trong tiếng nhạc trầm bổng, các chàng trai, cô gái nhảy múa xoay tròn quanh mâm lễ. Ông Vị Văn Phịnh, Đội trưởng đội Xòe chá, bản Áng 1, xã Đông Sang, Mộc Châu, Sơn La giới thiệu: Đây là điệu Xòe chá - một phần rất hấp dẫn trong lễ hội Hết Chá - sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng nổi bật của đồng bào Thái trắng ở Sơn La. Ngày xưa, không có thuốc men, trong bản có thầy cúng kết hợp chữa bệnh bằng tâm linh và thuốc nam, chữa cho nhiều người khỏi bệnh, và nhận họ làm con nuôi. Tết đến xuân về, các con nuôi đến cảm tạ công ơn chữa bệnh. Không chỉ vậy, đây cũng là dịp đồng bào Thái vui chơi sau những ngày dài lao động, là dịp để trai gái tìm hiểu. Hàng năm, lễ hội được tổ chức vào đầu tháng 2 âm lịch, khi hoa ban, hoa gạo nở khắp núi rừng.
Gần 30 năm gắn bó với các câu hát giao duyên tha thiết của dân tộc Thái - tộc người đông nhất trong số các dân tộc sinh sống ở Sơn La, nghệ nhân Lò Thị Ban mong muốn giúp nhiều người hiểu hơn về phong tục Thái, từ đó, giúp các điệu hát Thái được lưu giữ dài lâu. Cùng suy nghĩ ấy, anh Mùa A Lứ, đến từ thị trấn Nông trường Mộc Châu mang theo hơi thở của núi rừng Tây Bắc qua điệu múa khèn. “Tôi rất vui khi tiếng khèn và điệu nhảy có thể thay lời bày tỏ của đồng bào Mông. Tới nay, cây khèn vẫn là nhạc cụ gắn bó, không thể thiếu trong cuộc sống của người Mông, cả Mông Đen, Mông Trắng và Mông Hoa”.
Sơn La là vùng văn hóa đa dạng, phong phú và đậm bản sắc. Ông Trần Tân Phong, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La cho biết: “Xuân Đinh Dậu này, tỉnh giới thiệu tới cộng đồng các dân tộc và bạn bè quốc tế tại Thủ đô những nét văn hóa vẫn được lưu giữ rất đậm nét của đồng bào dân tộc Khơ Mú, Thái, Mông. Ngoài ra còn có trò chơi dân gian các dân tộc và ẩm thực dân tộc Thái với các món ăn đậm đà hương vị của núi rừng Tây Bắc. Qua đó, giúp đông đảo nhân dân Thủ đô cảm nhận được sắc thái văn hóa, hương xuân từ núi rừng Sơn La”. 

 “Ở Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng, có 12 dân tộc. Có dân tộc sinh sống hàng nghìn năm, có dân tộc mới đến sau đó, nhưng khi cùng sinh sống trên địa bàn có chung cảnh quan, địa hình, khí hậu, môi trường, họ có sự giao lưu, trao đổi, vay mượn các yếu tố văn hóa lẫn nhau. Ví dụ, trong văn hóa Thái có những yếu tố của văn hóa Mường. Việc giao lưu, vay mượn văn hóa ấy còn có thể nhận diện qua lễ hội truyền thống, lễ hội của một dân tộc thường có nhiều dân tộc khác tham dự”.

Saturday, July 16, 2016

Tục lấy nước đầu năm của dân tộc Khơ Mú (Lý Hải Ninh)

Tục lấy nước đầu năm mới của người Khơ Mú là một tập tục rất độc đáo mà cũng chứa đựng trong đó rất nhiều ý nghĩa nhân văn cao cả.
Đồng bào Khơ Mú ở xã Nghĩa Sơn, huyện Văn Chấn ăn Tết cổ truyền “Mạz chiêng” với rất nhiều phong tục, tập quán riêng biệt và mang nhiều giá trị văn hóa, nhân văn sâu sắc, trong đó độc đáo nhất chính là tục lấy nước đầu năm mới.

Nếu người Dao quan niệm lấy nước vào ngày Tết thì năm đó trời sẽ hạn hán, mất mùa thì với người Khơ Mú, tục lấy nước vào buổi sáng đầu năm mới là một tập quán quan trọng, thể hiện cách ứng xử của người dân với môi trường thiên nhiên và các quan niệm về vai trò của nước trong cuộc sống. Với họ lấy nước vào buổi sáng mồng một sẽ đem lại sự may mắn cho mọi người trong gia đình, bởi vậy sáng sớm ngày mồng Một tết, gia đình nào cũng phải dậy thật sớm (thường từ 4 giờ 30 phút đến trước khi trời sáng hẳn) để đi lấy nước mới đầu năm về. Trong gia đình thường chọn ra một người có sức khỏe (thường là thanh niên chưa có vợ, có chồng), nếu không thì chính bà chủ gia đình sẽ là người đi lấy nước đầu năm. Có lẽ, cũng do theo quan niệm của người Khơ Mú, người phụ nữ trong gia đình là người giữ vai trò quan trọng hơn cả, người hết mực thương yêu, chăm sóc cho gia đình, luôn cầu mong những điều tốt đẹp cho gia đình, hơn nữa người phụ nữ lại là người lo liệu và phụ trách việc bếp núc, cày cấy và gieo trồng, do vậy nước gắn chặt với công việc hàng ngày của người phụ nữ. Vì thế, người phụ nữ là người đi lấy nước mới trong ngày đầu năm cho toàn thể gia đình.
Người Khơ mú thường dùng dụng cụ lấy nước là ống nứa to, đẹp và mới. Nước được chọn để lấy nước đầu năm phải là khe nước đầu nguồn, chảy từ trên cao xuống. Vì vậy để có nguồn nước trong lành, sạch sẽ, từ ngày 25, 26 tết, già làng trưởng bản đã huy động người dân làm vệ sinh  từ đầu nguồn, thay máng nước mới.  Thông thường, đồng bào vào rất sâu, tới tận đầu nguồn để lấy được những giọt nước tinh khiết nhất trong ngày đầu năm mới. Người phụ nữ sẽ bè (gánh) nước mới về, sau đó rót nước mới cho các thành viên trong gia đình mỗi người uống một ngụm để lấy may và cầu mong một năm mới luôn được khoẻ mạnh. Theo quan niệm của đồng bào nước mới sẽ thanh lọc cơ thể con người và lấy đi hết mọi bệnh tật của năm cũ, giúp mọi người trong gia đình luôn được khoẻ mạnh. Họ tin rằng, sử dụng nước đầu tiên của khe nước trong năm mới sẽ tốt lành.


Nếu gia đình nào không đi lấy nước mới trong ngày đầu năm, người ta cho rằng cả năm đó gia đình ấy sẽ không gặp may mắn, năm mới làm ăn không tốt đẹp như năm cũ, mùa màng sẽ không tốt tươi bội thu, các thành viên trong gia đình sẽ không được khoẻ mạnh. Họ cũng cho rằng nếu như năm nào đi lấy nước mới, nguồn nước đục hoặc nước ít thì như điều báo hiệu cho một năm mới không suôn sẻ, không tốt... mọi người lấy nước về cầu xin thần thánh phù hộ và ban cho một năm mới gặp nhiều may mắn, hạnh phúc cho gia đình. Sau khi lấy được nước, người đi lấy nước sẽ thò tay xuống suối để mò một hòn đá (khi mò đá không được nhìn mà phải quay mặt đi chỗ khác) nếu mò được hòn đá mầu trắng thì đó là tín hiệu tốt lành cho một năm làm ăn may mắn phát đạt.
Tục lấy nước đầu năm mới của người Khơ Mú là một tập tục rất độc đáo mà cũng chứa đựng trong đó rất nhiều ý nghĩa nhân văn cao cả. Từ tập tục này đồng bào đã giáo dục cho con cháu phải biết  bảo vệ và giữ gìn nguồn nước trong sạch , đồng thời cũng phải có ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường thiên nhiên để phục vụ cho đời sống, cho sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà phong tục này đã được giữ gìn và lưu truyền qua rất nhiều thế hệ người Khơ Mú.
 Lý Hải Ninh (sưu tầm)

Giải mã "vũ điệu chọc lỗ" của dân tộc Khơ Mú (Nông Thị Hằng)

Không chỉ diễn tả động tác chọc lỗ tra hạt trên nương, vũ điệu tra hạt của người Khơ Mú Nghĩa Sơn (Văn Chấn, Yên Bái) thể hiện khát vọng sinh sôi, ấm no hạnh phúc của đồng bào thiểu số nơi này.
Những ai đã từng biết về nỗi khổ cực của người Khơ Mú trước cách mạng tháng tám, mới thấy hết sức sống mãnh liệt của một dân tộc qua “vũ điệu sinh sôi” này.
Thuở ấy, người Khơ Mú bị gọi miệt thị là “Xá cẩu” – tức Xá chó. Cuộc sống của họ rất cực khổ, suốt đời chỉ đi làm phu phen, nô dịch cho bọn phìa, tạo, thống lý của các dân tộc khác. Đồng bào sống chui lủi trong các căn lều tạm bợ ven con suối Nậm Tộc, khi mái lá úa vàng, họ lại dắt díu nhau đi dựng căn lều mới. Bởi vậy người ta còn gọi người Khơ Mú Nghĩa Sơn là Xá Toong đương  (tức Xá lá vàng).


Ngày ấy, mỗi khi nhà lang tạo có đám ma, người Khơ Mú phải ngồi dưới quan tài canh ma cà rồng, mặc cho nước hôi thối rỏ vào người, rồi còn phải thay nhau ngày đêm canh mả không cho ma cà rồng bới xác. Có lẽ do luôn phải sống trong sợ hãi mà ngày ấy mỗi khi gia đình có người qua đời, người Khơ Mú Nghĩa Sơn lại lặng lẽ đem ra rừng chôn rồi san đất cho bằng, không nhận ra dấu vết mộ để không bị kẻ ác đào xới…
Có thời điểm, người Khơ Mú chỉ còn 300 khẩu, sống lay lắt, chui lủi ở các bờ suối. Và rồi nhờ có cách mạng tháng tám thành công, người Khơ Mú được đổi đời. Họ được đứng ngang hàng với các dân tộc khác, được bảo vệ chăm lo và phát triển.

Vũ điệu tra hạt – niềm lạc quan bất tận của đồng bào

Thoát khỏi cuộc sống tối tăm, lệ thuộc vào các dân tộc khác, người Khơ Mú không ngừng sáng tạo trong đời sống và lao động của mình. Khi còn sống du canh du cư, họ làm nên chiếc gậy chọc lỗ tra hạt. Có lẽ cuộc sống muôn sắc màu, đầy những âm thanh tuyệt diệu của tự nhiên đã tạo cảm hứng cho những nghệ nhân dân gian sáng tạo nên chiếc gậy độc đáo này. Chiếc gậy không chỉ trở thành công cụ lao động mà còn là nhạc cụ đem lại những phút giây thư giãn trong trẻo trong quá trình lao động.


Chiếc gậy chọc lỗ tra hạt này làm bằng gỗ cứng, dài từ 1,8m đến 2m, đẽo nhọn ở đầu, có khi còn được bịt sắt. Gậy này có ba phần: phần đầu bằng gỗ cứng, phần thân thường bằng tre và phần cuối  được gắn với các nhạc cụ được chế tác đơn giản, gồm những ống tre, nứa nhỏ cho những viên sỏi vào trong.
Khi chọc lỗ, âm thanh dội lên ở phần thân bằng tre như một hộp cộng hưởng. Những viên sỏi va đập vào ống tre, nứa tạo nên những âm thanh trầm, bổng tươi vui, rộn rã giữa non ngàn.
Người Khơ Mú làm nương theo lối đổi công, có thể là một nhóm, có khi cả bản cùng làm. Đàn ông khỏe mạnh dàn hàng ngang đi trước, vừa nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ tra hạt, những âm thanh như đánh thức đất trời, khích lệ những người tham gia lao động.


Các cô gái theo sau nhịp nhàng vung tay gieo những hạt lúa giống vào lỗ, chân gạt nhẹ lấp đất. Tất cả đều nhịp nhàng uyển chuyển, hài hòa trong khúc dân ca của chính người Khơ Mú: “Mưa rơi cho cây tốt tươi/Búp chen lá trên cành/ Trên nương hương thơm nếp vàng/ Măng cười hé lên cùng/Ngạt ngào hương thơm bay theo gió/Những chim nướng cùng nếp thơm/Nhìn mà no!”.Tiếng cười vang xa mấy cánh rừng, bao nỗi mệt nhọc tan biến. Sau mỗi mùa vụ, nhiều đôi thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng.
Sau mỗi mùa vụ, đồng bào thường treo cây gậy chọ lỗ này trên gác bếp để tránh mối mọt. Cũng có gia đình để trên nương để thờ “ma nương”, vụ sau lại đem dùng.
Mỗi độ xuân về, người Khơ mú Nghĩa Sơn đều tổ chức lễ hội cầu mùa và vũ điệu chọc lỗ tra hạt với chiếc gậy độc đáo gắn với nhạc cụ bao giờ cũng được thể hiện tưng bừng rộn rã như sự giao hòa âm dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Nông Thị Hằng (sưu tầm)

Vũ điệu ong eo của người Khơ Mú (Cao Oanh)

Trăng đại ngàn vằng vặc soi trên sân nhà văn hóa bản Thàn (xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, Sơn La), trong tiếng chiêng ngân nga hoà nhịp bring họa (trống đuổi khỉ), các chàng trai, cô gái Khơ Mú xúng xính những bộ trang p...

Trăng đại ngàn vằng vặc soi trên sân nhà văn hóa bản Thàn (xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, Sơn La), trong tiếng chiêng ngân nga hoà nhịp bring họa (trống đuổi khỉ), các chàng trai, cô gái Khơ Mú xúng xính những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất, nhún nhảy nhịp nhàng trong vũ điệu ong eo mê đắm lòng người...

Khi được hỏi về xuất xứ của điệu múa, kể cả người già trong bản cũng lắc đầu không biết nó đến từ đâu, chỉ biết rằng đã bao đời nay, ong eo là niềm tự hào góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng Khơ Mú giữa non ngàn Tây Bắc...

Ong eo của đồng bào Khơ Mú là điệu múa lắc hông, uốn lượn eo, được mô phỏng theo các động tác, cử chỉ lao động hàng ngày của người dân nơi đây như: Gặt lúa, bẻ ngô, hái rau, nhổ cỏ, đơm tép, giặt giũ. Điệu múa biểu tượng cho mối cộng cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, từng nhịp điệu đều liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa và khát vọng về tình yêu đôi lứa.

Xưa kia, đời sống khó khăn, quanh năm phải lo cái ăn, cái mặc nên thanh niên Khơ Mú chỉ múa vào những dịp tế lễ, hội hè khi tất cả bà con gác lại mọi công việc, tề tựu đông đủ trước sự chứng kiến của những bậc cao niên nhất trong bản. Ngày nay, những điệu múa ong eo, tăng bu, múa xòe vòng... được họ biểu diễn bất cứ lúc nào, nhất là vào những đêm rằm chơi trăng, hò hẹn.

Khi múa ong eo, người nam thường đeo chiếc khoong khăn vừa là nhạc khí, vừa là đạo cụ, trong khi các cô gái với bộ váy thổ cẩm sặc sỡ, nụ cười duyên dáng, nhịp gót nhún rộn ràng, uốn lượn lưng eo khiến người xem ngẩn ngơ say đắm. Khi ong eo mới bắt đầu, khoảng cách giữa khán giả và "diễn viên" còn được duy trì. Càng say sưa múa, người vòng ngoài, vòng trong càng đắm chìm cùng tiết tấu, nhịp điệu múa và khoảng cách mất dần. Khi ấy người múa tự khoe mình là chính, đội hình bị phá vỡ và tất cả hòa vào làm một, ai cũng múa, đắm đuối uốn lượn...

Mặc dù có tính cộng đồng rất cao nhưng ong eo là điệu múa khó, đòi hỏi phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn, uyển chuyển, linh hoạt của nhiều động tác trên cơ thể như: Lên, xuống, uốn lượn, lắc ngang từ chân đến tay, bụng...

Khi thể hiện các điệu múa, toàn thân người múa đều rung lên với đầy sức sống dồi dào, người múa dường như hòa mình cùng với nhịp của tiếng chiêng, trống, đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của vùng núi Tây Bắc, quên đi những lo âu của cuộc sống vất vả hàng ngày.
 Cao Oanh (sưu tầm)

Hát Tơm - Làn điệu dân ca truyền thống của dân tộc Khơ Mú (Lý A Sùng)

Khơ Mú là một trong những dân tộc sinh sống lâu đời nhất ở vùng Tây Bắc Việt Nam và là dân tộc không có chữ viết. Do đó tất cả những điệu múa, câu hát và những phong tục văn hóa truyền lại cho con cháu đều từ hình thức truyền miệng. Ở Yên Bái, người Khơ Mú sống chủ yếu tại hai huyện Văn Chấn và Trạm Tấu. Cộng đồng người Khơ Mú tại Yên Bái tuy ít, rải rác và chịu nhiều ảnh hưởng của người Thái song đời sống văn hoá của họ là cả một kho tàng lớn cần được lưu giữ và phát triển. Trong đó phải kể phải kể đến những điệu hát Tơm.

Người Khơ Mú, bao đời nay sống bằng canh tác nương rẫy hay còn gọi là “Xá ăn theo lửa”. Tức phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nhưng đời sống tinh thần của họ lại vô cùng phong phú. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng là dân ca, dân vũ. Nó được các nhà văn hóa đánh giá là một thành tố không thể thiếu trong kho tàng dân ca, dân vũ Việt Nam. Bởi nó phản ánh một cách sâu sắc nhất cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp của người Khơ Mú, đồng thời qua đó thể hiện sức mạnh gắn kết cộng đồng trong quá trình chinh phục và làm chủ thiên nhiên của người Khơ Mú.
Nhắc đến dân ca của người Khơ Mú là nhắc đến những điệu hát Tơm. Mỗi làn điệu đều mang một hơi thở, một tâm hồn và phản ánh chân thực nhất đời sống tinh thần của họ. Tơm xuất hiện từ khi nào, không ai biết. Chỉ biết rằng từ bao đời nay người Khơ Mú vẫn truyền tai cho nhau những câu hát đó. Với hát Tơm, nó được ví như những làn điệu dân ca của người Kinh, mang đậm chất sử thi, trữ tình, lúc du dương, êm ái, tình tứ; lúc thì lại rộn ràng, nhộn nhịp. Tơm có thể hát một người hoặc hát đối, hát tập thể. Lời hát Tơm mộc mạc, đơn giản, gần gũi với đời sống con người. Vạn vật thiên nhiên là chủ thể trong những lời hát Tơm nhưng sâu lắng trong đó là sự ý nhị, lòng cao thượng, đầy bao dung của con người.
Người Khơ Mú có phong tục truyền thống, trong bất cứ ngày vui nào của làng, bản không thể thiếu những câu hát Tơm. Khi mừng đám cưới có Tơm Đường Kmun; khi làm nhà có Tơm Ơ Grang Mỵ; trai, gái đi nương, đi rừng hay dự ngày vui bản làng có Tơm Cản Chơ. Ngày xuân, ngày tết là lúc dân bản thể hiện điệu “Tơm Muôn” (Tơm mùa xuân)… Những làn điệu hát Tơm hoàn toàn là những bài được người Khơ Mú xưa sáng tác và lưu truyền suốt bao đời nay với một hình thức duy nhất bằng truyền miệng.Đặc biệt, khi hát Tơm nhất thiết phải có “đao” hay “tính tờ rang” - những nhạc cụ được làm từ tre nứa không thể thiếu trong những lần hát Tơm: Đao là nhạc cụ truyền thống của người Khơ mú. Người Khơ Mú vừa đánh đao vừa hát hoặc hát một đoạn xong sẽ gõ đao, khi có nốt rồi người hát sẽ dập vào đùi để có âm thanh theo ý muốn. Có thể một đoạn xong rồi sẽ múa. Có đến 9 loại nhạc cụ có thể đệm cho hát tơm, nhưng hay nhất là đàn tính tờ rang. Khi hát Tơm tập thể, người Khơ Mú thường kết hợp với múa. Các động tác đánh tay, lắc hông thể hiện sự hồn nhiên và yêu thích hát ca của người Khơ Mú. 
Ngoài hát Tơm, người Khơ Mú có hát Cưn Trơ, chuyên dùng trong những lúc đi nương, đi rẫy và hát Kơ Le, được ví như hát đồng dao của người Kinh. Người Khơ Mú rất thích xòe, múa và thổi các loại sáo, các nhạc cụ bằng tre, nứa tự tạo. Họ đặc biệt yêu thích thổi kèn môi và dân vũ (hay gọi là múa). Bởi vậy nếu dân ca là những câu hát trữ tình sâu lắng, ý nhị thì dân vũ là những động tác mô phỏng lao động, sinh hoạt. Với người Khơ Mú, dân vũ được coi là một công cụ giáo dục đạo đức, lối sống cho các thế hệ con cháu. Bởi khi múa người Khơ Mú thấy được sự tự tin, yêu đời và qua đó, chúng ta thấy được cách thức họ đối diện với cuộc sống.  
Những điệu hát Tơm của người Khơ Mú được truyền lại cho con cháu sau này bằng hình thức truyền khẩu miệng từ đời này sang đời khác. Song hiện nay, ở các bản làng của người Khơ Mú, thường chỉ còn những người có tuổi là biết hát. Tơm dần vắng bóng trong các ngày vui của bản, của làng nên thế hệ trẻ không còn có nhiều cơ hội được tiếp xúc với những điệu Tơm truyền thống.
 Lý A  Sùng (sưu tầm)

Chuyện chỉ có ở người Khơ Mú chân núi Pa Thơm (Huy Thục)

Dưới chân núi Pa Thơm hùng vĩ, nơi biên giới giáp với nước Lào là vùng đất cư trú của dân tộc Khơ Mú.  Ở đây, họ vẫn giữ được những phong tục truyền thống của tổ tiên từ ngàn đời truyền lại, trong đó có việc đặt họ mang tên loài vật. Từ đó có những quy định rất ngặt nghèo khi tiếp xúc với vật tổ.

Kỳ lạ phong tục đặt họ theo tên loài vật
Đến với bản Pa Xa Xá (xã Pa Thơm, huyện Điện Biên) khi cái nắng Tây Trang thổi hắt vào từng mảnh đất, những mái nhà sàn ấm áp đã che trở cho hàng chục hộ dân Khơ Mú. Ở đây, tôi đã được nghe nhiều câu chuyện huyền bí về việc đặt họ của người Khơ Mú.
Người Khơ Mú quy định rất chặt chẽ việc tiếp xúc với vật tổ. Khi thấy vật tổ, họ thường kính trọng mà lùi ra xa. Cho đến ngày nay, người Khơ Mú vẫn sống bằng nghề săn bắn nhưng không bao giờ họ được phép bắn loài vật tổ của mình. Khi thấy vật tổ qua đời, họ còn phải tổ chức mai táng rất chu đáo. Đặc biệt, người Khơ Mú kiêng không bao giờ được ăn thịt vật tổ. Việc này quy định ngặt nghèo đến nỗi nếu khách nào không biết vừa ăn phải vật tổ của họ khi rửa tay ở chum nước họ cũng phải đổ cả chum đó đi, cúng bái cẩn thận rồi mới tiếp tục dùng nước. Ngoài ra, mỗi họ lại có cách thờ riêng của mình mà chỉ trong họ  của nhau mới biết.

Những mái nhà bình yên dưới chân núi Pa Thơm

Việc đặt họ của người Khơ Mú là một phong tục rất độc đáo. Họ người Khơ Mú nguyên gốc thường theo tên các thú rừng, cây cối, chim, vật vô tri…như nhóm tên thú (Rvai (hổ), Tmoong (Chồn, Cầy) ,Tiác ( Hươu, Nai);Ho Hoa (khỉ); Oivê (Rái cá); Mar (Rắn);  Kưmbur (Tê tê), Thràng (Phượng hoàng đất)…đây là dấu vết tô tem (thờ vật tổ) còn xót lại trong xã hội cổ xưa của người Khơ Mú. Mỗi dòng họ có nghi thức riêng để thờ cúng. Hình thức thờ cúng thường được dấu kín, không tiết lộ cho người ngoài. Gia đình phải bắt chước 1 số động tác của tô tem, việc này nhằm xác định mình mang họ hổ, chim hay chồn… dấu vết của tô tem giáo còn thể hiện trong việc khi cúng bái, kiêng cữ. Việc không giết và ăn tô tem ngay cả ngày thường. trong quan niệm của niệm của người Khơ Mú, khi chết họ sẽ hóa kiếp trở lại thành vật tô tem của mình.
Huyền bí “vũ điệu chọc lỗ”
Bên cạnh việc đặt họ theo vật tổ, người Khơ Mú còn có nhiều phong tục kỳ lạ khác. Bên bếp lửa bập bùng của người dân tộc thiểu số, tôi được nghe cách chế biến món kính coong. Phải nói thật, tôi là một người đi không ít vùng DTTS nhưng nghe về món kính coong bản thân tôi cũng phải giật mình. Hiểu theo tiếng Khơ Mú, thì Coong có nghĩa là tổng hợp của hầu hết các loại rau củ quả, ớt, hành tỏi, cà rừng, mắc khén… nấu với thịt thối. Kính có nghĩa là một loại canh thập cẩm. Nôm na, Kính Coong theo cách hiểu của ngôn ngữ phổ thông có nghĩa là canh thịt thối. Đây là món đặc sản không thể thiếu của người Khơ Mú trong những dịp cưới xin, lễ tết.

Người dân Khơ Mú đang giới thiệu món Kính Coong

Để có thể tạo được miếng thịt có mùi đặc trưng, người Khơ Mú treo thịt lên gác bếp hàng tuần, rồi hàng ngày vẩy nước để tạo độ ẩm, thu hút ruồi nhặng bay đến đậu vào làm tổ, mang theo cả vi sinh vật. Sau đó để nấu được món Kính Coong, người ta phải đổ nước hầm nát nhừ, rồi cho các loại rau củ quả, thêm một ít bột gạo cho sóng sánh.
Tiếp tục về câu chuyện của người Khơ Mú, tôi được nghe về một vũ điệu phồn thực có một không hai nơi đây, đó là “vũ điệu chọc lỗ” giữa núi rừng. Mỗi độ xuân về, người Khơ mú đều tổ chức vũ điệu chọc lỗ tra hạt với chiếc gậy độc đáo gắn với nhạc cụ thể hiện tưng bừng rộn rã như sự giao hòa âm dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Chiếc gậy chọc lỗ tra hạt này làm bằng gỗ cứng, dài từ 1,8m đến 2m, đẽo nhọn ở đầu, có khi còn được bịt sắt. Gậy này có ba phần: phần đầu bằng gỗ cứng, phần thân thường bằng tre và phần cuối  được gắn với các nhạc cụ được chế tác đơn giản, gồm những ống tre, nứa nhỏ cho những viên sỏi vào trong. Khi chọc lỗ, âm thanh dội lên ở phần thân bằng tre như một hộp cộng hưởng. Những viên sỏi va đập vào ống tre, nứa tạo nên những âm thanh trầm, bổng tươi vui, rộn rã giữa non ngàn.

Những người dân nơi đây rất thân thiện

Người Khơ Mú làm nương theo lối đổi công, có thể là một nhóm, có khi cả bản cùng làm. Đàn ông khỏe mạnh dàn hàng ngang đi trước, vừa nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ tra hạt, những âm thanh như đánh thức đất trời, khích lệ những người tham gia lao động. Các cô gái theo sau nhịp nhàng vung tay gieo những hạt lúa giống vào lỗ, chân gạt nhẹ lấp đất. Tất cả đều nhịp nhàng uyển chuyển, hài hòa trong khúc dân ca của chính người Khơ Mú: “Mưa rơi cho cây tốt tươi/Búp chen lá trên cành/ Trên nương hương thơm nếp vàng/ Măng cười hé lên cùng/Ngạt ngào hương thơm bay theo gió/Những chim nướng cùng nếp thơm/Nhìn mà no!”.Tiếng cười vang xa mấy cánh rừng, bao nỗi mệt nhọc tan biến. Sau mỗi mùa vụ, nhiều đôi thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng.
Huy Thục (sưu tầm)

Dân tộc Khơ Mú Tọ Cuông bảo tồn lễ hội truyền thống (La Thục)

Cũng như bao dân tộc anh em khác trên mảnh đất Điện Biên, dân tộc Khơ Mú có một kho tàng văn hóa dân gian đặc trưng và giàu đẹp. 
Để gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc mình, người Khơ Mú nhiều năm qua đã quan tâm đến việc duy trì các lễ hội truyền thống của tổ tiên. Đặc biệt, tại bản Tọ Cuông, xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, đồng bào người Khơ Mú đã duy trì, bảo tồn được 5 lễ hội truyền thống mang tính cộng đồng cao.

Bản Tọ Cuông hiện có 95 hộ gia đình với 100% đồng bào dân tộc Khơ Mú. Năm 1982, từ mảnh đất sâu phía trong, bản chuyển ra nơi đây dựng nhà, phát triển kinh tế. Cũng từ năm đó, nhiều người dân Tọ Cuông bắt đầu đi làm ăn xa quê hoặc làm thuê cho Nông trường quốc doanh Mường Ảng. Cuộc sống mưu sinh đã cuốn người dân nơi đây vào công việc, vào những ngày dài trên nương, dưới ruộng. Bởi vậy, một số phong tục văn hóa, lễ hội truyền thống đã không được duy trì như lễ Cúng bản, lễ hội Cầu mưa.
Thời điểm trước năm 2013, các lễ hội vẫn thường xuyên được tổ chức trong bản là lễ Cầu mùa, Tra hạt và Mừng cơm mới. Đây đều là những nghi lễ gắn với đời sống kinh tế và văn hóa nông nghiệp của người dân nơi đây. Năm 2013, lễ Cúng bản được cả bản đồng thuận tổ chức lại sau nhiều năm gián đoạn theo nguyện vọng chung của tất cả người dân. Tháng 4 năm 2014, lễ hội Cầu mưa lần đầu tiên được phục dựng dưới sự hỗ trợ của Bảo tàng tỉnh cùng Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam và Trung tâm lưu giữ di sản Việt Nam.
Tất cả những lễ hội truyền thống này được lưu giữ, bảo tồn không chỉ nhờ vào sự hỗ trợ, tạo điều kiện của các cơ quan, ban ngành mà quan trọng hơn cả là sự chung tay tham gia và tình yêu dân tộc của tất cả các thế hệ người dân Tọ Cuông hiện tại.  Điều đó được thể hiện qua việc các già làng vẫn ghi nhớ, khắc sâu trong tâm trí những nghi lễ cúng của mỗi lễ hội mặc dù đã không được tổ chức nhiều năm và luôn tổ chức một cách nghiêm túc, đúng trình tự. Ông Quàng Văn Cá – một trong những người hiếm hoi hiểu, biết các nghi lễ của dân tộc – cho biết: Mỗi lễ hội có đặc trưng, các thủ tục tiến hành cũng không giống nhau. Hiện tại, chúng tôi chỉ giảm bớt những phần đã cổ hủ, lạc hậu còn giữ gần như nguyên vẹn các nghi lễ như đúng tổ tiên truyền dạy. Đặc biệt, việc sai lời cúng, sai bước làm là điều tối kỵ. Sai là hỏng cả buổi lễ. Vì vậy trước khi tổ chức, chúng tôi phải ôn lại rất kỹ những nghi lễ tiến hành.
Trao đổi với một già làng, được biết, trong 5 lễ hội trên, lễ Mừng cơm mới và lễ Tra hạt được tổ chức với quy mô hộ gia đình. Lễ Tra hạt được chủ hộ tiến hành tại nương nhà mình và có sự góp mặt, giúp đỡ của nhiều gia đình khác. Lễ Cúng bản, Cầu mưa, Cầu mùa được tổ chức chung cả bản. Mỗi lễ hội này đều được sự chung tay góp sức của cả bản, từ thanh niên đến người già, cả nam và nữ. “Để tổ chức những lễ hội này, mỗi gia đình không chỉ góp công mà còn tự nguyện đóng góp vật chất theo khả năng. Mỗi nhà một thứ: con gà, chai rượu hay vài cân gạo… Chúng tôi chủ trương bảo tồn các lễ hội truyền thống của dân tộc một cách đúng, đủ, nghiêm túc mà tiết kiệm, không lãng phí. Ngoài ra, để chuẩn bị cho mỗi lễ hội, chúng tôi đều tổ chức họp bản để thống nhất các nội dung và phân chia công việc cho ban đầu ngành của bản, cho hội phụ nữ, đoàn thanh niên và một số cá nhân khác.” – trưởng bản Quàng Văn Toàn chia sẻ.
Trừ lễ Tra hạt và Mừng cơm mới được tổ chức với quy mô gia đình, những lễ hội còn lại sau các nghi thức cúng tế truyền thống đều có phần hội. Nội dung này diễn ra tưng bừng, náo nhiệt với các trò chơi, điệu múa, câu hát đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Khơ Mú như: múa Tăng Bu, múa Sạp, đẩy gậy, kéo co, ném còn… Trong những lễ hội này, màu sắc trang phục truyền thống của dân tộc được tôn lên rực rỡ. Nhiều năm trước, do sống gần các dân tộc khác và có phần bị đồng hóa về văn hóa, người Khơ Mú Tọ Cuông không duy trì được việc mặc trang phục đặc trưng của dân tộc và một số người dân trong bản không có trang phục truyền thống. Một vài năm gần đây, tuy cuộc sống còn khó khăn nhưng nhiều người, đặc biệt là các thành viên của đội văn nghệ của bản đã tự bỏ tiền may, đính những bộ trang phục dân tộc để diện hoặc biểu diễn trong những dịp đặc biệt như vậy. Chị Lò Thị Dân cho biết: “Chi phí cho mỗi bộ trang phục nữ giới khoảng 400.000đ tiền vải và các đồ trang trí. Chúng tôi còn phải bỏ công thêu, đính làm đẹp cho bộ váy áo. Dành dụm tiền làm được bộ trang phục mới này để mặc mỗi lễ hội hay những dịp đặc biệt của bản, tôi cảm thấy rất vui và tự hào”.
Qua những lễ hội này, các điệu múa, câu ca truyền thống của người Khơ Mú cũng được lưu giữ, thấm vào máu mỗi người con Tọ Cuông. Nhờ vậy, thế hệ trẻ trong bản đều thuộc lòng và có thể tham gia biểu diễn những nét đẹp văn hóa này.
Các lễ hội truyền thống không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, gắn với cuộc sống lao động nông nghiệp của người dân Tọ Cuông, cầu sức khỏe, mùa màng bội thu, cuộc sống no đủ, cầu mong sự che chở của thần linh cho cả bản mà mỗi lễ hội đều là ngày hội của cả cộng đồng dân tộc, đưa mọi người đến gần nhau hơn, hiểu nhau hơn, cùng chung sức xây dựng bản làng và bảo tồn giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
 La Thục (sưu tầm)