Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Lự
Showing posts with label ₪ Dân tộc Lự. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Lự. Show all posts

Saturday, June 25, 2016

Vài nét Dân tộc Lự (Minh Nguyệt)

Tên gọi khác : Lữ, Nhuồn, Duồn 
Nhóm ngôn ngữ : Tày - Thái 
Dân số : 3.700 người. 
Cư trú : Tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu 
Đặc điểm kinh tế 

Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Đồng bào biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cỏ, bón phân. Đồng bào còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Đồng bào có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào. 
Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thường có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thuê đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thường có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được tranh trí nhiều và đẹp hơn. 


Hôn nhân gia đình 
Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục. 
Tục lệ ma chay 
Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bỏ vải, đệm, gối, thóc, tiền vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa. 
Văn hóa 
Người Lự hay hát dân ca "khăp", yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, các loại sáo, nhị, trống... 
Nhà cửa 
Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.

Minh Nguyệt (sưu tầm)

Khám phá văn hóa dân tộc Lự ở Lai Châu (Minh Nguyệt)

Đến với Bản Hon, du khách sẽ được khám phá và trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt, lao động của người dân bản địa.


100% đường liên thôn bản đã được bê tông hóa, thuận tiện cho việc đi lại của người dân và du khách khi đến Bản Hon.

157 ngôi nhà sàn của đồng bào Lự ở Bản Hon vẫn giữ được nguyên trạng.
Với hơn 100 ngôi nhà sàn được bảo tồn nguyên trạng, cùng với nghề dệt vải và các tập tục sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của đồng bào Lự, Bản Hon đã thu hút hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến tham quan.

Trước đây, phụ nữ dân tộc Lự có tục nhuộm răng đen từ 13 - 14 tuổi. Giờ đây, phụ nữ trên 30 tuổi mới nhuộm răng đen.

Đồng bào Lự ở Bản Hon không những biết làm du lịch mà còn biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất cây trồng.

Trang phục truyền thống của đồng bào Lự với đường nét văn hóa độc đáo được làm bởi những đôi tay khéo léo của người phụ nữ.

Nghề dệt vải truyền thống của đồng bào Lự được duy trì ở hầu hết các gia đình.
Nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu hơn 10 km và nằm trên tuyến du lịch “vòng cung Tây Bắc”, cách điểm du lịch Sa Pa không xa, đường đi thuận tiện là những lợi thế giúp Bản Hon thu hút khách du lịch, nâng cao đời sống đồng bào, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động vùng dân tộc thiểu số.

                                                                                                    Minh Nguyệt (sưu tầm)

Bản dân tộc Lự bên dòng Nậm Hon (Hoàng Hải)

Nằm trên Quốc lộ 4D, cách thành phố Lai Châu chừng 15km, cách trung tâm thị trấn Tam Đường chừng 7km, bản Hon nép mình giữa hai dòng suối Nậm Hon và Nậm Mu thơ mộng trên cung đường huyền thoại mang tên “Vòng cung Tây Bắc”.
Cuộc sống yên bình của người Lự ở Bản Hon

Bản Hon là điểm đến duy nhất trên bản đồ du lịch, nơi những người đam mê khám phá và trải nghiệm có thể tìm hiểu và hòa với cuộc sống còn nguyên chất núi rừng của cộng đồng dân tộc Lự (Lừ, Lữ, Nhuôm, Duôn). Một dân tộc ít người chỉ sinh sống duy nhất trên địa bàn tỉnh Lai Châu và tập trung nhiều nhất tại huyện Tam Đường.
Bản Hon vẫn giữ được những phong tục tập quán gần như nguyên vẹn từ bao đời nay. Bên dưới những nếp nhà sàn ngăn nắp nằm gần sát nhau trong bản, cuộc sống cộng đồng người Lự gần gũi như trong một gia đình.
Người già trong bản vẫn dạy con cháu của mình rằng, người Lự vốn rất coi trọng tình làng xóm, láng giềng. Khi mỗi gia đình trong bản có việc thì cả bản đều giúp đỡ, chia sẻ. Bởi vậy, những ngôi nhà trong bản thường làm rất gần nhau, quây quần trong một không gian vừa phải để tiện sinh hoạt, liên lạc và giúp đỡ nhau những khi cần thiết.
Một buổi chiều bên dòng Nậm Hon êm ả, những mái tóc thả dài theo dòng nước cùng tiếng cười khúc khích từ hàm răng đã nhuộm đen bóng từ khi mới dậy thì của người con gái Lự văng vẳng hòa cùng tiếng chim khách hót vội vàng. Bên dòng nước hiền hòa thơ mộng, một cô gái trẻ khẽ mỉm cười khi đang trải mái tóc dài bên phiến đá. Khung cảnh bên dòng Hon đẹp như một bức tranh.
Dường như người con gái Lự nhuộm răng đen để ý tứ giữ cho mình những nét duyên, giữ riêng cho người mình yêu những điệu Khắp Lử “Hát Lự” khi màn đêm buông xuống. Khi tiếng sáo “Pấu Pí” đôi của người con trai gửi tình cất lên dìu dặt. Điệu Pấu Pí Khắp như lời gửi tình của đôi trai gái đang tâm sự yêu đương. 
Buổi tối ở Bản Hon, sau chén rượu thơm mùi nếp mới, những món ăn giản đơn như rau rừng, cá suối, thịt khói, lạp chua, xôi nếp… Cả chủ và khách đều vui vẻ kể chuyện bản làng, chuyện về những phong tục truyền thống của đồng bào, về những đêm lễ hội xòe thâu đêm của con trai con gái… rồi lại uống rượu, thổi sáo, thổi khèn và cùng nhau hát những bài dân ca Lự đầy ắp âm hưởng núi rừng

Hoàng Hải (sưu tầm0

Độc đáo lễ hội Căm Mường của người Lự (Hoàng Hải)

Các thầy cúng đang chuẩn bị thuyền giấy để làm lễ
Tỉnh Lai Châu hiện có 20 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Lự sống tập trung ở huyện Sìn Hồ và Tam Đường. Vốn văn hóa tinh thần của dân tộc Lự rất phong phú, đa dạng, còn giữ được những nét văn hóa riêng, mang đậm bản sắc dân tộc, đặc sắc và tiêu biểu nhất là Lễ Căm Mường.
Lễ hội được tổ chức trong khoảng thời gian từ đầu tháng Giêng đến mùng 3 tháng 3 Âm lịch hàng năm.
Những giai điệu dân ca mộc mạc, giản dị nhưng giàu ý nghĩa nhân văn của đồng bào dân tộc Lự vang lên trong lễ hội Căm Mường. Đây là dịp để bà con dân bản dâng lễ vật cầu khấn thần sông, thần núi, thần khe, thần suối, thần rồng, phù hộ cho bà con dân bản được ăn nên làm ra, điều lành ở lại, điều dữ mang đi.
Ngoài những lễ vật là đồ ăn, thức uống, người Lự còn đặt trên bàn lễ 18 chiếc thuyền giấy màu xanh và màu vàng. Những màu sắc này đều có ý nghĩa riêng của nó. Màu xanh là màu của những cánh rừng bạt ngàn, của sức sống mãnh liệt, màu vàng là màu của thóc lúa, sự sung túc và no đủ.

Thầy cúng làm lễ tại lễ hội Căm Mường

Từ xưa đến nay, lễ Căm Mường bao giờ cũng được làm rất trang trọng. Mỗi gia đình sẽ cử ra một người đại diện là nam đi tham gia phần cúng lễ, khi về sẽ có lộc dành cho những người ở nhà. Thủ tục cúng lễ chia làm bốn phần khác nhau là: lễ thỉnh Thần, lễ khẩn cầu, lễ Căm Mường và các nghi lễ kết thúc.
Người chủ lễ phải là người già, có uy tín. Người dân tộc Lự không sử dụng khèn, sáo, trống hay bất kỳ một loại nhạc cụ nào trong phần lễ vì theo quan niệm của họ, những âm thanh ấy sẽ làm ảnh hưởng đến sự linh thiêng, thần bí. Và nghi lễ cúng không diễn ra trong nhà mà tổ chức dưới một gốc cây to.

Sau phần lễ là phần hội sôi động

Kết thúc phần lễ là đến phần hội, hai chàng trai cùng thổi sáo mẹ, sáo con để cho các cô gái hát những bài dân ca của dân tộc mình. Cùng với các bài hát thì trò chơi ném còn cũng là một phần không thể thiếu trong lễ hội này, nó thể hiện sự tinh tế, khéo léo không chỉ trong việc dựng cột, làm quả còn mà ngay cả trong việc tung còn cũng có những bí quyết riêng đã được các thế hệ của người Lự truyền lại cho nhau.
Ai là người ném trúng vòng tròn đầu tiên thì đó sẽ là người may mắn nhất. Ngoài ra, các trò chơi như đẩy gậy, đánh gối cũng là những nét đặc trưng trong lễ hội của đồng bào Lự. Những người bị thua trong các trò chơi này đều được té nước để giải đen cũng như cầu may mắn. Trong những ngày lễ hội và sát lễ hội, đồng bào dân tộc Lự còn phải tuân thủ một số điều để tránh việc không lành.

Trò chơi đẩy gậy thu hút nhiều thanh niên người Lự tham gia.

Lễ Căm Mường của người Lự ở xã Nậm Tăm huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu rất đề cao vai trò của những sinh hoạt văn hoá dân gian mang tính cộng đồng, nó càng làm tăng thêm sự gắn kết trong mỗi cộng đồng làng bản. Chính vì vậy mà lễ hội này cần được bảo tồn, gìn giữ, phát huy, để nó thật sự trở thành nét đẹp trong vốn văn hoá dân gian mang đậm bản sắc riêng của người Lự
Hoàng Hải (sưu tầm)


Nét duyên người Lự (Hoàng Thị Khuyên)

Người Lự (còn gọi là Lào Lự, người Lữ, người Nhuồn, người Duồn) là một dân tộc ít người trong cộng đồng 54 dân tộc anh em Việt Nam. Mấy năm gần đây một số bản làng của người Lự ở tỉnh Lai Châu đã trở thành điểm du lịch văn hóa sinh thái hấp dẫn du khách quốc tế.
Theo số lượng mới thống kê gần đây, cả nước chỉ có khoảng 5.500 người Lự và họ sinh sống chủ yếu ở một số xã vùng cao thuộc các huyện Phong Thổ, Tân Uyên (Lai Châu).

Người dân tộc Lự biết làm ruộng nước từ lâu đời và còn làm thêm nương rẫy để trồng ngô, khoai, sắn. Nghề trồng bông dệt vải phát triển ở hầu hết gia đình người Lự.

Nụ cười của phụ nữ Lự lộ những hàm răng độc đáo. Vậy nhưng trong bản giờ chỉ những người trên 35 tuổi mới nhuộm răng đen.
Phụ nữ Lự có bàn tay thêu thùa khéo léo, may, dệt trang phục cho cả gia đình; nhất là váy, áo, khăn của thiếu nữ về nhà chồng trong ngày hôn lễ được thêu hoa văn thổ cẩm trang trí trên nền vải nhuộm chàm rất đẹp.

Bình yên bản Nà Tăm

Họ mặc áo chàm, xẻ ngực; váy may bằng vải chàm đen, có thêu hoa văn thổ cẩm thành hai phần trang trí do vậy thoáng nhìn cảm giác như chiếc váy có hai tầng vải ghép lại.

Nhà sàn đặc trưng của người Lự.

Thiếu nữ Lự đeo vòng cổ trang sức làm bằng bạc chạm khắc rất tinh xảo và khăn đội đầu được cuốn nghiêng về phía trái, để lộ mặt trước với những đường viền thêu hoa văn thổ cẩm đẹp mắt.

Lễ cơm mới của người Lự.

Người dân tộc Lự sống có trước có sau, đặc biệt vợ chồng rất thủy chung với nhau. Nếu vì lý do nào đó mà vợ chồng phải ly dị thì họ sẽ bị dòng họ và dân làng phạt rất nặng.


 Phụ nữ Lự giặt giũ bên bờ suối. Một vài nơi ở vùng sâu hơn: các cô gái Lự vẫn duy trì phong tục ngực trần tắm suối.
Người Lự rất thích hát dân ca của dân tộc mình, say sưa chơi các loại nhạc cụ truyền thống như sáo, nhị, trống trong các ngày lễ, ngày hội của bản làng. Bên cạnh đó, nhiều trò chơi dân gian được thanh niên ưa thích như ném én, kéo co.

Qua suối
.
Nét độc đáo nhất của phụ nữ Lự là phong tục nhuộm răng đen có điểm xuyết một vài chiếc răng bằng vàng giả trông khá lạ mắt. Phong tục nhuộm răng đen đang bị mai một vì lớp trẻ của người Lào Lự giờ không thích nhuộm răng đen. Bây giờ tìm trong bản những người nhuộm răng đen chỉ là phụ nữ có tuổi đời từ 35 trở lên.

Theo truyền thống, người Lự sinh sống ở nhà sàn, nhà có hai mái, mái phía sau ngắn còn mái phía trước kéo dài xuống che cả hàng hiên và cầu thang lên xuống. Cửa ra vào của nhà ở chính mở theo hướng tây bắc. Trong nhà có hai bếp lửa, một bếp để nấu ăn cho gia đình hằng ngày và một bếp để đun nước tiếp khách khi tới thăm nhà.
Nét đặc biệt của người Lự là rất quý khách tới thăm nhà và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho du khách chụp ảnh, tìm hiểu phong tục tập quán nhưng không đòi hỏi thù lao như những nơi khác.
 Hoàng Thị Khuyên (sưu tầm)


Lễ cưới người Lự (Hoàng Thị Khuyên)

Các chàng trai người Lự thường mang sáo đi tìm người yêu.

Lễ cưới của trai gái dân tộc Lự thường diễn ra khi tiết trời đang độ xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa mạ, hoa pon... đua nở.
Dân tộc Lự có tên gọi khác là: Lữ, Nhuồn, Duồn, có khoảng 3.700 người, cư trú tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Người Lự còn để lại nhiều di tích cổ xưa ở Điện Biên, nhưng hiện nay chỉ còn một ít người sinh sống ở đấy. Lễ cưới là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Lự. Không có trường hợp ép duyên. Theo tục ở rể 3 năm sau đó về làm dâu 2 năm thì đôi vợ chồng được phép ra ở riêng để thành đơn vị gia đình hạt nhân sống trong nếp nhà sàn riêng của mình. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái con gái có chữ đệm Ý. Người Lự sống tình nghĩa, thuỷ chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục.
Lễ cưới của trai gái dân tộc Lự thường diễn ra khi tiết trời đang độ xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa mạ, hoa pon... đua nở. Đêm hôm nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái, chú rể không được đến nhà cô dâu. Đêm ấy, cô dâu và bạn bè tổ chức hát giao duyên tại sân khuống, tạm biệt bạn bè cùng trang lứa để đi lấy chồng.

Ở dân tộc Lự, hồi môn bên họ hàng nhà trai cho ngoài những váy áo, tiền bạc có một điều hết sức thú vị là: đám cưới xong, ngày hôm sau cô dâu đến gánh nước cho họ hàng nhà trai mỗi nhà một gánh; nhà trai trả công cho cô dâu là những con giống như đôi gà, con lợn con hoặc bát đĩa, đồ đan lát... để đôi vợ chồng trẻ làm giống và phát triển sau này. Trong đám cưới không mang nặng tính thách cưới. Khi nhà có đám cưới, những người trong họ cùng chung gánh vác, nếu trường hợp kinh tế khó khăn chưa đủ điều kiện để làm bữa cơm mời họ hàng thì người ta cho nhau nợ, khi nào có điều kiện thì làm được thì trả.
Đến ngày chính lễ, từ sáng sớm ông mối bên nhà trai đến thông báo xin giờ để chàng trai đến ở rể. Nhà gái chuẩn bị một bàn rượu, một bát thịt và một đôi đũa tiếp ông mối. Ông mối quỳ trước họ nhà gái và hát những lời có tính chất thông báo, xin cho chàng trai ở rể. Sau đó nhà gái cho ông mối uống một hớp rượu, ăn một miếng thịt nhằm trả ơn người đã mai mối cho đôi trẻ thành vợ thành chồng. Sau đó đoàn nhà trai đến, dẫn đầu là ông mối. Khi đến chân cầu thang, nhà gái đón tiếp bằng những chén rượu nồng. Mỗi bên đều uống một chén để tỏ lòng thân thiện và đồng ý sự kết duyên của đôi nam nữ. Chủ nhà sắm một lễ gồm đầu, bốn chân và đuôi lợn, gà luộc sẵn trình báo với tổ tiên hôm nay nhà ta có “Kin khéc” (đám cưới con cháu trong nhà). Đoàn nhà trai lên nhà, nhà gái bầy một mâm rượu, đem các lễ vật (của hồi môn cho con gái) trình trước nhà trai như váy, áo, vòng cổ, vòng tay... Trên lễ vật được cắm những bông hoa sặc sỡ (hoa dâm bụt). Cô dâu chú rể lạy trước ông, bà, chú, bác hai bên gia đình. Ông mối hát lời chúc phúc cho hai người thành đôi lứa, sống có ích cho gia đình. Trong thời gian ông mối hát, đôi vợ chồng trẻ vẫn quỳ lạy, đầu chúi xuống chiếu.

Lễ cưới của người Lự

Ông mối hát chúc phúc xong, hai bên gia đình mỗi người một tay bám vào các lễ vật ý nói chúc cho hai vợ chồng trẻ hạnh phúc, làm ăn phát đạt, sống có ích cho hai bên gia đình nương nhờ. Mỗi người đến dự cưới buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể như muốn buộc chặt tình cảm yêu thương của mình, buộc chặt tình yêu của đôi trẻ với gia đình hai bên. Sau đó họ nhà gái phát cho mỗi người một que sáp ong như sự tạ ơn của gia đình đôi trẻ và tình đoàn kết họ hàng thân tộc như mật ong, sáp ong quyện chặt.
Thủ tục hôn lễ đã xong, ông mối mời họ hàng nhà gái và dân bản cùng vui chén rượu chúc cho hai vợ chồng trẻ hạnh phúc, làm ăn phát đạt. Cuộc rượu có thể kéo dài đến đêm. Trong thời gian tổ chức “Kin khéc” chú rể luôn đóng vai trò là người tần tảo tháo vát, lúc chạy vào chỗ này, lúc đến chỗ kia để xem bàn tiệc vơi thứ gì thì kịp thời bổ sung. Một điều thú vị nữa trong 3 ngày tính từ đám cưới chính thức chú rể không được ngồi ghế, chỉ ngồi xổm để tiếp khách. Điều này hàm ý cho bố mẹ nhà gái biết tính chịu khó, siêng năng của chàng rể.

Vẻ đẹp xinh tươi của thiếu nữ người Lự

Trong đám cưới dân tộc Lự hầu như hát giao duyên, ngay cả lời bàn bạc với nhau cũng là những câu vần điệu. Ngày nay, trong đám cưới người Lự cũng đã bớt đi nhiều thủ tục rườm rà, một số địa phương trai gái yêu nhau khi đã tìm hiểu chín muồi thì tự về ở với nhau (tuy nhiên cha mẹ hai bên đã ngầm đồng ý). Còn lại hầu hết đôi trẻ tự giác đến UBND xã làm thủ tục đăng ký kết hôn. Bố, mẹ người con trai đến báo với cha, mẹ cô gái rồi tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ, tuyệt nhiên không có chuyện thách cưới. 

 Hoàng Thị Khuyên (sưu tầm)

Thổ Cẩm của người dân tộc Lự (Vân Anh)

Sắc thổ cẩm đằm thắm của người phụ nữ Lự ở Tam Đường.

Biên Phòng - Trong cuộc hành trình tìm về với những người anh em dân tộc Lự, chúng tôi đến bản Hon, thuộc huyện Tam Đường, Lai Châu, nơi có 474 hộ với 2.859 nhân khẩu người dân tộc Lự. Là một trong số 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người, dân tộc Lự hiện chỉ còn 3.700 khẩu, cư trú tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Theo giới thiệu của các cán bộ Phòng Văn hóa huyện Tam Đường, bản Hon là bản người Lự thuần chất, vẫn còn giữ được nguyên bản sắc văn hóa từ kiến trúc, ẩm thực, trang phục cho đến các phong tục tập quán trong sinh hoạt thường nhật. 
Bao phủ cả bản Hon là sự bình yên ấm áp, với nhiều cửa nhà vô tư khép hờ, dù chủ nhân vắng mặt, khiến cho những người phương xa mới đến như chúng tôi bỗng thấy mình như được xem trọng và tin yêu. Rải rác dưới hiên của những ngôi nhà sàn bốn mái, những khung dệt, xa quay vẫn như đang chờ đợi tay người... Rồi những ôm tranh, thước củi chen nhau chất kín trên nhà, dưới sàn, cho thấy sự bám rễ thâm sâu của người Lự trên bản Hon, một miền đất lành mà tổ tiên họ đã chọn để an cư lập nghiệp sau khi phải thiên di ra khỏi thành Xám Mứn - Điện Biên để tránh nạn lửa binh từ bao thế kỷ trước.
Là cư dân thuộc ngành Tày - Thái, người Lự thuộc nền văn hóa lúa nước vùng thung lũng. Trên con đường thiên di về phía Nam, người Lự bị phân tán và sống xen kẽ với người Dao, người Mông... Chính vì thế, điều dễ nhận thấy là văn hóa của họ vẫn giữ được văn hóa của cư dân Tày - Thái,  song cũng đã có sự giao thoa, tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa của các dân tộc khác. Người Lự đến định cư tại Tây Bắc từ bao giờ, đến nay vẫn chưa có câu trả lời.
Theo các nhà dân tộc học, sớm nhất vào thế kỷ thứ 11 - 12, người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn, nay thuộc tỉnh Ðiện Biên. Tại đây, người Lự đã khai hoang lập ấp và xây thành Xam Mứn, tức thành Tam Vạn mà di chỉ hiện còn nằm ở cánh đồng Mường Thanh. Theo cổ sử, thành Tam Vạn tồn tại dưới sự trị vì của 19 đời chúa Lự. Đến thế kỷ 18, chiến tranh bùng nổ khi giặc Phẻ tràn vào, người Lự phải phân tán đi khắp nơi và một bộ phận lớn đã thiên di lên Lai Châu.
Riêng người Lự ở nước ta thuộc nhóm Lự Đen hay còn gọi là Lừ Đăm. Gần 100 năm trước, các thế hệ người Lự ở Lai Châu vẫn còn những phong tục, lễ nghi trong sinh hoạt mang đậm tín ngưỡng Phật giáo và đặc biệt còn sử dụng chữ viết theo mẫu tự Pali của Phật giáo nguyên thủy. Đặc biệt, khi đó người Lự còn sử dụng bộ lịch riêng.
Ở bản Hon, hầu hết các ngôi nhà của người Lự đều quay lưng vào núi và gần như mỗi nhà đều có vườn để trồng trọt, chăn nuôi mang đậm hình thái kinh tế tự cung tự cấp. Theo các nhà dân tộc học, người Lự cũng là một dân tộc nông nghiệp có trình độ cao. Ngay từ xa xưa, người Lự đã biết làm thủy lợi dẫn thủy nhập điền, biết dùng phân bón ruộng, biết trồng lúa nếp theo kỹ thuật cấy mạ hai lần và thâm canh các loại hoa màu.
Người Lự, đặc biệt là những phụ nữ mà chúng tôi gặp hầu như không lúc nào ngơi tay với những công việc vườn tược, cửa nhà. Dù có tuổi hay còn son trẻ, họ vẫn say sưa việc nhà như thể đó là hạnh phúc của mình. Không biết, đó có phải là do người Lự không có tục ép duyên hay gả bán, nên người phụ nữ Lự luôn chăm sóc tốt tổ ấm cho người mà mình yêu thương. Họ vẫn còn tục nhuộm răng đen bằng cách đốt gỗ cây "mày tỉu" cho vào ống tre; sau đó lấy chảo gang vỡ hứng lấy muội khói tạo thành một lớp nhựa đen sệt; thỉnh thoảng nhuộm một lần để làm đẹp và phòng các bệnh răng miệng rất hiệu quả.
Giống như người Lào ở Nà Luông, phụ nữ Lự cũng vấn khăn trên đầu với phương thức và kiểu dáng lệch hẳn sang bên trái. Có khác chăng là khăn của phụ nữ Lự có thêm khoảng 18 đường gấp hoa văn bổ dọc, khi vấn tạo thêm nét đặc sắc và tươi tắn cho họ. Không quá khi nói rằng, sắc màu cũng như tính mỹ thuật của trang phục Lự thuộc vào hàng nhất nhì vùng Tây Bắc. Họ hết sức khéo léo và tinh tế khi kết hợp một cách hài hòa giữa hoa văn dệt với hoa văn ghép vải trên một bộ trang phục. Với kiểu áo xẻ nách chéo về bên phải, phụ nữ Lự thêu đường viền cổ áo nhiều màu sắc với hoa văn quả trám và chân chim. Song song với hoa văn chỉ thêu, các hoa văn làm bằng vải ghép cũng được phụ nữ Lự trang trí tỉ mỉ dọc theo váy, áo.
Đặc biệt, là dải hoa văn mà người Lự gọi là "con suối uốn lượn" vòng quanh eo áo từ phía trước ra phía sau, được điểm tô thêm các đồng tiền theo hình rẻ quạt tạo cho áo có độ xòe so với eo. Trao đổi với chúng tôi, bà Tao Thị Chăn, nhà ở bản Hon cho biết: "Để thực hiện được phần hoa văn vải ghép, chỉ riêng cho gấu váy, người phụ nữ Lự khéo léo nhất cũng phải mất 1 tuần. Đặc biệt, phần hoa văn dọc thân váy còn được chăm chút thêu thêm các hoa văn bằng các loại chỉ len. Ngoài ra, các phục sức như xà tích, vòng tay, hoa tai cũng được người Lự chế tạo hài hòa với trang phục, tôn thêm nét đẹp của người phụ nữ".

Nghề dệt của người Lự vẫn được bảo tồn qua các thế hệ.

Và rồi, không bõ công tìm kiếm, rốt cuộc chúng tôi cũng đã tận mắt thấy những người dệt nên những sắc hoa xứ Lự. Với trang phục truyền thống rực rỡ khoác trên mình, các thiếu nữ ở bản Hon đã cho thấy mình xứng đáng là thế hệ kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc Lự.

Dưới từng mái nhà bản Hon, ít nhiều đều có từ 1 đến 3 khung cửi và người phụ nữ phải dành nhiều thời gian trong năm để dệt váy, áo cho mình và cho cả gia đình. Giống như phụ nữ của nhiều dân tộc, chị em người Lự ngay từ khi còn nhỏ đã được bà và mẹ từng bước dạy cho nghề dệt. Với một trình độ dệt thủ công độc đáo cùng tư duy thẩm mỹ đặc sắc, người Lự là một trong số các dân tộc Tây Bắc có trang phục riêng hết sức bắt mắt.

Vài năm gần đây, bản Hon đã trở thành điểm du lịch văn hóa hấp dẫn du khách quốc tế. Giám đốc Trung tâm Thông tin và Xúc tiến du lịch tỉnh Lai Châu Nguyễn Thành Công cho biết: Lý do lớn nhất mà bản Hon thu hút được khách du lịch là vì họ còn giữ được nguyên bản sắc, đặc trưng của dân tộc mình về kết cấu nhà ở, kiến trúc, ẩm thực, trang phục, phong tục tập quán...

Chính quyền và các ngành chức năng đang quy hoạch bản Hon trở thành một điểm du lịch đầy tiềm năng của tỉnh. Và nghề dệt truyền thống với vẻ đẹp dịu dàng, tỉ mỉ của người phụ nữ Lự hẳn sẽ là một điểm nhấn ấn tượng dành cho du khách.

Vân Anh (sưu tầm)