Người dân tộc H'mông hay Hmông, HMông, H'Mông tại Việt Nam còn có các tên gọi khác là người Mẹo, người Mèo, người Miếu Hạ, người Mán Trắng. Tên thường tự gọi là H'mông, Na Miẻo. Dân tộc H'mông gồm các nhóm dân địa phương như Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán), Mông Xanh. Dân tộc này thuộc nhóm ngôn ngữ H'mông-Dao.
Dân số và địa bàn cư trúDân tộc H'mông theo ước tính năm 2003 có khoảng 896.239 người. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, người H'mông ở Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam; cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H'mông cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang 231.464 người, chiếm tỷ lệ 31,9 % dân số toàn tỉnh; tỉnh Điện Biên 170.648 người, chiếm tỷ lệ 34,8 % dân số toàn tỉnh; tỉnh Sơn La 157.253 người, chiếm tỷ lệ 14,6 % dân số toàn tỉnh; tỉnh Lào Cai 146.147 người, chiếm tỷ lệ 23,8 % dân số toàn tỉnh; tỉnh Lai Châu 83.324 người; tỉnh Yên Bái 81.921 người; tỉnh Cao Bằng 51.373 người; tỉnh Nghệ An 28.992 người; tỉnh Đăk Lăk 22.760 người; tỉnh Đăk Nông 21.952 người; tỉnh Bắc Kạn 17.470 người; tỉnh Tuyên Quang 16.974 người; tỉnh Thanh Hóa 14.799 người... Trên thực tế cho thấy các cư dân người dân tộc H'mông ở ViệtNam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng tộc ở các nưóc khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào.
Về đặc điểm kinh tế.
Nguồn sống chính của người dân tộc H'mông là làm nương định canh hoặc nương du canh; trồng ngô, lúa, lúa mạch. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu... ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Chiếc cày của người H'mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Họ trồng cây lanh để lấy sợi dệt vải, trồng cây dược liệu, thuốc phiện trước đây và các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận. Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người H'mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công H'mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép.
Chợ ở vùng dân tộc H'mông vừa thoả mãn nhu cầu trao đổi hàng hoá, vừa thể hiện nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt. Người H'mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Người dân tộc H'mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình người H’mông.
Về tổ chức cộng đồng, hôn nhân gia đình.
Trong quan hệ xã hội, mỗi bản thường có nhiều họ, trong đó có một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản trước kia cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Hôn nhân gia đình của người H'mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Người H'mông có tục "háy pù", tức là trong trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ chồng người H'mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...
Người H'mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... về số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Người dân tộc H'mông có gia đình nhỏ, theo chế độ phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Một số nơi còn phổ biến tục cướp vợ.
Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Về đặc điểm văn hóa.
Nhạc cụ của người H'mông có nhiều loại khèn và đàn môi. Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng thăm, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gọi bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.
Chữ H'mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm 60 nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Về lễ tết, trong khi người dân tộc Kinh đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm âm lịch thì người H'mông đã bước vào tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn Tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người H’mông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Trong 3 ngày tết, họ không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường thổi khèn gọi bạn, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết ngày 5 tháng 5 âm lịch. Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 âm lịch.
Người H'mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người H'mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Người dân tộc H'mông thường quần tụ trong từng bản có vài chục nóc nhà. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ. Bộ khung bằng gỗ, vì kèo kết cấu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới. Tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt khá thống nhất giữa mọi nhà. Gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người H'mông thuộc loại bếp kín, bếp lò, một sản phẩm đặc trưng của phương Bắc. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà. Chuồng gia súc được đặt trước mặt nhà, lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Người phụ nữ dân tộc H'mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Váy là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là "giao thoa" giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người H'mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn
Trang phục của người phụ nữ H'mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm dân tộc. Phụ nữ người H'mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau; cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành. Phụ nữ người H'mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu; để tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả. Phụ nữ người H'mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực. Phụ nữ người H'mông Xanh mặc váy ống, khi đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng. Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.
Trang phục nam của người dân tộc H'mông là áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại là năm thân và bốn thân. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ, xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
Nguyễn Võ Hinh