Trang phục nam, nữ dân tộc Thổ
Tổng số dân: 68.394
Khu vực có số dân đáng kể ở phía tây tỉnh Nghệ An Việt Nam
Ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Thổ
Tôn giáo: Phật giáo, vật linh
Dân tộc Thổ là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Dân tộc Thổ có các tên gọi khác như Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá Vàng v.v.
Ngôn ngữ:
Tiếng Thổ thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, thuộc ngữ chi Việt trong ngữ hệ Nam Á. Tuy nhiên mức độ các nghiên cứu còn hạn chế.
Dân số và địa bàn cư trú của dân tộc Thổ có khoảng 69.000 người, chủ yếu sinh sống tại miền tây tỉnh Nghệ An (80 %) và tỉnh Thanh Hóa (13 %).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Thổ ở Việt Nam có dân số 74.458 người, có mặt tại 60 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Thổ cư trú tập trung tại tỉnhNghệ An (59.579 người, chiếm 80,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam), Thanh Hóa (9.652 người, chiếm 13,0% tổng số dân tộc Thổ tại Việt Nam), Lâm Đồng (966 người), Đồng Nai (657 người), Đắk Lắk (541 người), Bình Dương (510 người), thành phố Hồ Chí Minh (362 người), Điện Biên (226 người), Đắk Nông (216 người), Hà Nội (211 người)[2]...
Đặc điểm kinh tế.
Dân tộc Thổ làm rẫy trên cả đất dốc, cả đất bằng, trồng lúa và gai là chính. Trong canh tác lúa, ngoài cách thức chọc lỗ tra hạt, dân tộc Thổ còn gieo vãi và dùng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Cây gai cho sợi đan nhiều vật dụng cần thiết: túi, võng, lưới bắt cá, vó, lưới săn thú, v.v. Một tấm lưới săn thú cần đến 30–40 kg sợi gai.
Cá, chim, thú là nguồn thực phẩm quan trọng đối với dân tộc Thổ, họ có kinh nghiệm săn bắn, đánh bắt cá. Bên cạnh đó, rừng cung cấp các loại rau, quả, củ làm thức ăn thông thường cũng như khi đói kém. Dân tộc Thổ trước đây có nghề dệt vải nhưng do điều kiện canh tác cũng như sự giao lưu với người Kinh đã làm cho nghề dệt bị mai một dần[cần dẫn nguồn.
Tổ chức cộng đồng
Trong làng người dân tộc Thổ, quan hệ gắn bó giúp đỡ lẫn nhau là nếp sống lâu đời. Theo tục cũ, toàn bộ đất đai, rừng núi, sông suối là của chung dân gian, mỗi người được quyền quản lý khi đang gieo trồng, được quyền khai thác khi là dân sống trong làng.
Hôn nhân gia đình
Dân tộc Thổ có tục "ngủ mái": nam nữ thanh niên được nằm tâm tình với nhau, nhất là vào dịp tết, lễ hội, tuy nhiên không được có hành vi thiếu đúng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh. Từ những đêm "ngủ mái", họ chọn bạn trăm năm. Trong hôn nhân, nhà trai phải tốn không ít tiền của và trước khi cưới, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ tương lai.
Tục lệ ma chay.
Đám tang của người dân tộc Thổ trước kia có nhiều nét độc đáo. Họ dùng quan tài độc mộc, khiêng người chết đi chôn thì để chân hướng về phía trước, còn mộ thường để chân hướng xuôi theo chiều nước chảy.
Văn hóa
Xưa kia dân tộc Thổ có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca hát của người lớn, những bài đồng dao của trẻ, đặc biệt là những điệu hát ru, v.v. Song vốn văn nghệ dân gian Thổ đến nay đã bị quên lãng, mất mát nhiều.
Cứ vào dịp hội hè lễ tết thì dân tộc Thổ lại tập trung nhau lại các đôi trai gái lai cùng nhau uống rượu cần, cùng hát múa, tiếng cồng chiêng hoà chung với những câu hát đối tạo nên những âm thanh vang vọng trong đêm hội. Chiêng của người dân tộc Thổ giống với người Thái, mương về cấu tạo nhưng họ lại có những điệu đánh khác hẳn. Người Thổ có những câu hát dối rất đặc sắc[cần dẫn nguồn.
Nhà cửa
Dân tộc Thổ quen sống trên nhà sàn, nhưng nhà của họ không có gì đặc biệt. ở vùng Lâm La nhà sàn của dân tộc Thổ giống hệt nhà dân tộc Mường. Ở những xã phía Nam, nhà người dân tộc Thổ lại giống nhà người Thái. Nay nhiều nơi người ta đã chuyển sang nhà ở đất theo kiểu nhà người Việt.
Trang phục
Khó nhận ra cá tính tộc người. Đồ mặc có nơi giống như y phục của người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi phụ nữ dùng cả váy mua của người Thái. Ở vùng dân tộc Thổ phổ biến tập quán phụ nữ đội khăn vuông trắng, còn khăn tang là khăn trắng dài.
Vi Đức Hồi (sưu tầm) trích Bách khoa toàn thư