Thờ cúng tổ tiên "khu" là hình thức con cháu thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã mất. Trước hết là các hình thức gia đình - thị tộc của sự thờ cúng đó… Họ tin rằng, sau khi tổ tiên "khu" đã mất, tổ tiên sẽ phù hộ, che chở cho cuộc sống con cháu nơi trần thế…
Thờ cúng tổ tiên "khu" là hình thức con cháu thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã mất. Trước hết là các hình thức gia đình - thị tộc của sự thờ cúng đó… Họ tin rằng, sau khi tổ tiên "khu" đã mất, tổ tiên sẽ phù hộ, che chở cho cuộc sống con cháu nơi trần thế…
Khác với người La Hả, Phù Lá, Kháng chỉ thờ duy nhất một đời (cha/mẹ), người Tày thờ 4 đời (cha - ông - cụ - kỵ) đối với người đang thờ phụng thì người La Chí thờ 3 đời tổ tiên "khu" tức cha - ông - cụ (đối với tổ tiên nam) và 2 đời đối với tổ tiên nữ (mẹ - bà). Người dân cúng tổ tiên to nhất vào tết tháng 7 “lễ cúng mừng việc cấy xong và xin tổ tiên "khu" bảo vệ ruộng nương” lễ cúng khởi đầu từ ngày 1/7 - 13/7, con cháu làm lễ đưa tổ tiên "khu" trở về…
Bàn thờ tổ tiên.
Bàn thờ tổ tiên của người La Chí được lập lại tại vách tiền, đối diện khu đặt bếp khách của ngôi nhà. Bàn thờ được lập theo thứ bậc, người đứng đầu sẽ cao hơn những người kế tiếp sau đó. Bàn thờ lập tương đối đơn giản. Trước tiên, họ kiếm hai thanh tre, đặt song song và đóng thanh ngang giống dáng chiếc thang rồi đặt dựng vào vách tiền (vách trước). Tuỳ theo thứ bậc sẽ quy định then ngang cao - thấp. Từ điểm then ngang, người dân đan một miếng phên nhỏ hình chữ nhật đặt ngang thanh nối vuông góc vách tiền làm điểm đặt lễ… dâng cúng, các điểm tiếp xúc sàn (chân thang) và vách được buộc cẩn thận, tạo sự vững chắc cho nơi thờ tự thiêng nhất của ngôi nhà. Trên bàn thờ thường ngày không đặt gì, vào những ngày lễ (tết) có đặt 12 chiếc bánh trưng rồi đặt mâm cúng tại phía dưới. Tuy nhiên, để hoàn thiện, mỗi bàn thờ tổ tiên (tương đương một đời người) bắt buộc phải trải qua 3 lần dâng cúng:
Lần thứ nhất: lập bàn thờ lễ vật gồm có: 4 con gà "là ca", 4 gói thịt (trâu hoặc chuột…), 4 chiếc sừng trâu + rượu, Củ gừng (hỏi gọi hồn). Trong nghi lễ gồm có 4 thầy cúng “pù mê”. Sau khi các vật dâng chuẩn bị đầy đủ, thầy cúng “pù mê” ngồi vào điểm cúng, lưng hơi tựa vào phía bàn thờ, đầu hướng phía đặt mâm cúng gọi hồn tổ tiên về, để biết được tổ tiên về đến đâu, Thầy cúng dùng củ gừng, có sợi dây dọi buộc dài khoảng 25 - 30 cm, tay giữ chắc và cầm đầu sợi dây hỏi, gọi… nếu củ gừng lắc đi lắc lại theo lời hỏi của thầy là đã về. Thầy cúng “pù mê” vừa đọc bài cúng và uống rượu.
Lần cúng thứ hai: lễ vật bao gồm: 4 gói thịt (trâu, chuột hoặc lợn), 3 con gà, 12 chén rượu, 1 con dê, 4 sừng trâu (để uống rượu), 4 miếng vải thô màu trắng, Bạc trắng hoặc vòng tay. Thầy cúng “pù mê” mặc trang phục: 1 chiếc áo dài màu đen), thắt lưng, 1 chiếc mũ rộng có quai dây dài xuống phái dưới, một chiếc da trâu khổ 15x30cm (nay thay vào một miếng vải dày, chuông, que bói bằng sừng trâu, 1 củ gừng có dây dọi dùng để bói, hỏi ma (tổ tiên).
“Pù mê” ngồi tựa lưng về phía bàn thờ, các thành viên trong gia đình có thể ngồi phía bên hoặc ngồi gần đó. Khởi đầu lễ cúng, thầy rót rượu từ 12 chén mời các thành viên trong nhà, họ nhận rượu uống rồi lạy thầy 3 lần… Trong quá trình diễn ra lễ cúng, “pù mê” cầm củ gừng hỏi, vừa cúng vừa ăn và uống rượu bằng sừng trâu (mời tổ tiên "khu"), thỉnh thoảng véo một miếng từ củ gừng vứt ra đằng sau. Mâm cúng lần 2 gồm: 7 miếng da trâu "nhúm", 3 con gà, thịt dê, thịt chua (lợn hoặc trâu), thịt (trâu hoặc lợn), một gói cơm nếp… Thầy cúng cầu cho làm ăn, chăn nuôi được phát triển; mời tổ tiên "khu" về ăn, điểm mời đầu tiên từ mộ về… cho gặp con cháu, báo con cháu với tổ tiên biết và nhận lễ.
Lần cúng thứ ba: lễ vật dâng cúng bao gồm: 1 con trâu buộc tại cây tre chôn phía ngoài nhà (đối diện giáp bàn thờ tổ tiên), 1 con lợn, 2 con …Thầy cúng mặc trang phục tương tự lần hai. Thầy phá bàn thờ cũ, lập bàn thờ mới, các nghi lễ thịt, mổ trâu được làm tại gốc cây tre bên ngoài và cúng trong nhà. Theo quan niệm của người dân, có làm cả 3 lần thờ thì sau khi linh hồn rời khỏi thể xác trở về thế giới bên kia, hai vợ chồng "chiều" mới được gặp nhau…
Các nghi lễ thờ cúng: theo chu trình các lễ - tết - nghi lễ nông nghiệp, tiêu biểu là tết tháng 7 và những nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người (sinh đẻ, cưới xin, tang ma, làm nhà), cúng chữa bệnh…con cháu sẽ mời tổ tiên về dự và phù trợ cho cuộc sống của họ nơi trần thế.
Đối với người La Chí cư trú tại Nàn Sán - Si Ma Cai: Bàn thờ có sự khác nhau ở mỗi dòng họ. Họ Giàng, Vàng: có bàn thờ tổ tiên, lập tại gian chính diện, giáp vách hậu của ngôi nhà. Họ Lù, Phần: không có bàn thờ tổ tiên, khi cúng phải bày trên giường tiếp giáp vế trái gian giữa của ngôi nhà. Theo lời kể của ông Giàng A Chến (63 tuổi), Giàng Lồ Sùng (46 tuổi) cư trú tại thôn Hó Chu Phùng thì nguồn gốc sự khác nhau về vị trí thờ tự xuất phát từ câu truyện như sau:
Ngày xưa, người La Chí sống tập trung tại một nơi, cuộc sống ổn định, ấm no. Vào một năm do chiến tranh, loạn lạc, dân làng phải chạy đi nhiều nơi tìm chốn yên thân, họ tập trung thành các đoàn cùng đi. Khi đi, người đi trước cầm dao chặt cây làm hiệu đã qua nhằm báo hướng đi cho những đoàn kế tiếp. Một buổi, đoàn người chạy qua khu rừng chuối, họ dùng dao chém như đã qua những nơi từng đi. Nhưng! vốn là loài cây thân lá, sau khi phát thân mọc nhanh… Đoàn đi đến nơi, thấy cây đã nhô cao, tưởng rằng đoàn trước đã đi xa, nếu có đuổi theo cũng khó gặp, không biết lối nào…Do vậy, họ bàn nhau ở lại, lập nghiệp tại vùng đất đó. Theo thời gian, họ phải làm lễ cúng tổ tiên cùng những nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người… Những người chạy trước đến một nơi xác định, họ làm nhà, phát nương, trồng trọt, chăn nuôi… cuộc sống ổn định hơn, làm nhà, có bàn thờ… Đoàn chạy sau phải đó hang núi vách đá làm nhà tạm… nên không có bàn thờ (họ Lù, Phần).
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người La Chí ở Lào Cai có nhiều sự khác biệt so với các dân tộc khác, linh hồn tổ tiên, hồn lúa, thần rắn (phù trợ cho sản xuất nông nghiệp) được thể hiện rõ nét ở các nghi lễ trong chu kỳ đời người. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của quá trình di cư, điều kiện nơi cư trú, tiếp biến văn hoá, người La Chí ở Bắc Hà và Si Ma Cai có nhiều sự khác biệt về ngôn ngữ và các sắc thái văn hoá truyền thống của tộc
Mã Thạch Trong (sưu tầm)