Dân tộc Cơ Lao ở Hà Giang có 3 nhóm là: Cơ Lao trắng, Cơ Lao xanh, Cơ Lao đỏ, nhưng trang phục của 3 nhóm Cơ Lao đều giống nhau gồm: khăn, áo, quần (nay là váy), thắt lưng, yếm che váy, xà cạp.
Khăn (đì ư trì vư) là loại khăn nhiễu không trang trí hoa văn, khăn rộng khoảng 40cm, dài 250-300cm, khi đội khăn được gấp đôi hoặc ba theo chiều dọc quấn nhiều vòng quanh đầu. Cách quấn khăn giữa người sống và người chết có khác nhau, người sống quấn khăn từ phải sang trái, người chết quấn khăn từ trái sang phải. Hiện nay người Cơ Lao còn dùng khăn vuông bằng len để đội đầu.
Phụ nữ Cơ Lao mặc áo có hai lớp, áo ngoài “cư trí lừ”, áo trong “lf pứt đơn”. Hai áo này đều gọi là áo năm thân, cài khuy cạnh nách phải, áo ngoài dài quá gối, tay áo rộng và ngắn, nẹp cổ, ngực áo, bả vai, xẻ tà chạy vòng hết gấu và thân áo sau trang trí nhiều dải vải và đường thêu chỉ màu uốn lượn mềm mại.
Áo trong ngắn ngang hông, tay áo nhỏ và dài trang trí những vòng vải các màu ở ống tay, giữa ống tay, thân áo trong ít trang trí hoa văn. Hoa văn trang trí trên áo phụ nữ Cơ Lao như: hoa đào, hình trái núi, ách cày, cây sa mu, con kiến bò, cây cỏ, hoa lá gắn bó mật thiết với môi trường cư trú vùng cao.
Quần (cúsluô) may bằng vải đen dài khoảng 86cm, cạp rộng 50cm, ống quần rộng 30-32cm. Quần may theo kiểu chân què, cạp lá tọa. Cạp quần cắt rời, cùng loại vải đen với thân quần, khi mặc không dùng dây buộc mà vấn cạp lại chặt, giắt phần mối còn lại trong bụng. Sau khi mặc áo họ dùng thắt lưng để giữ chặt bên ngoài.
Phụ nữ Cơ Lao mặc váy xoè gấp nếp như váy phụ nữ Mông. Tuy nhiên váy phụ nữ Cơ Lao chỉ có một màu đen, không trang trí hoa văn.
Trang phục phụ nữ dân tộc Cơ Lao đỏ
Thắt lưng (đì cố slô) được làm bằng khổ vải nhỏ màu đen có kích thước bằng khăn đội đầu nên còn được gọi là khăn buộc lưng (đì cúc lau). Thắt lưng của phụ nữ Cơ Lao không khâu, không nẹp chỉ cắt từ tấm vải (tà phủ-dệt vải bằng phương pháp bán thủ công) là có thể dùng được ngay. Hiện nay phụ nữ Cơ Lao sử dụng nhiều chất loại vải khác nhau nhất là vải sa tanh hoa, các màu xanh, đỏ, vàng để làm thắt lưng.
Yếm che váy: gồm 2 chiếc: yếm váy trước “gú gieo”, yếm váy sau “bư trẻ tứ”. Về cơ bản hai chiếc váy này rất giống nhau, chúng được ghép bởi 3 mảnh vải theo chiều dọc, kích thước khoảng 50x65cm. Yếm che váy gồm 3 bộ phận cạp váy, thân váy và dây buộc. Điểm khác cơ bản giữa 2 yếm là dây buộc yếm váy trước là dây kép, đầu dây cắt nhọn hình mũi tên, khi mặc cả 4 đầu dây buông phía sau lưng. Dây buộc yếm sau đính liền với thân yếm (không có cạp yếm), hai đầu dây cắt vuông góc khi mặc có thể quấn gọn trước bụng hoặc rủ hai bên cạnh sườn. Hằng ngày khi lao động họ chỉ dùng một chiếc yếm váy sau, khi đi chợ, trong các dịp lễ tết, cưới xin họ mới dùng cả hai chiếc yếm.
Xà cạp (pò lú) được làm bằng vải màu đen, xà cạp có hình tam giác vuông (kiểu xà cạp quấn), chiều rộng 35cm, cạnh chéo dài 135cm, góc nhọn xà cạp có đính đoạn dây vải dài trên 200cm. Khi dùng, đặt đáy lớn của xà cạp vào cổ chân và quấn nhiều vòng từ dưới lên che kín bắp chân, sau đó dùng dây vải quấn ngược từ trên xuống dưới để giữ xà cạp không bị tuột, xà cạp có tác dụng bảo vệ đôi chân trước mọi tác động của môi trường, thời tiết, khi lao động ngoài nương rẫy.
Minh Hằng (sưu tầm