Dân tộc Pà Thẻn là cư dân sinh sống ở một số bộ phận ở tỉnh Hà Giang. Người dân tộc Pà Thẻn tự gọi mình là Pà Hưng. Các dân tộc anh em khác thì gọi người Pà Thẻn là Mèo Lài, Mèo Hoa, hoặc Mèo Dỏ. Trong thư tịch cổ xưa, dân Tộc Pà Thẻn được nhắc đến với tên Bát tiên tộc. Một số học giả người Pháp gọi dân tộc Pà Thèn là Mán Pa Seng hay Mán Pa Teng và họ xếp vào nhóm Mản với người Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu, tiếng nói thuộc ngữ hệ H'mông - Dao với dân số khoảng 3.794 người.
Theo truyền thuyết xưa của dân tộc Pà Thẻn kể lại rằng: Trước kia tổ tiên của họ ở vùng Than Lò (Trung Quốc), các dân tộc xung quanh gọi họ là Húng Dao hoặc là Thầu Dao. Dân tộc Pà Thẻn di cư đến Việt Nam cách ngày nay vào khoảng 200 đến 300 năm, cùng với các nhóm người Dao khác ở nhiều đoạn và những thời điểm khác nhau. Truyện kể về quá trình vượt biển di cư đến Việt Nam của dân tộc Pà Thẻn ngày nay vẫn được các cụ già nhắc đến. Căn cứ vào địa bàn cư trứ của người Pà Thẻn, họ cư trú phân chia ra làm ba vùng, vùng nhất gồm các xã Lĩnh Phú (Chiêm Hoá), Trung Sơn (Yên Sơn) ở đây họ sống xen kẽ với người Tày, mọi sinh hoạt, văn hoá, xã hội cũng gần giống người Tày quanh vùng, như cách ăn mặc thể hiện trong trang phục, nhà ở, v.v... Vùng thứ hai gồm các xã Hữu Sản, Bắc Quang, Hồng Quang (Chiêm hoá) tại đây dân tộc Pà Thẻn sống rải rác xen lẫn với dân tộc Dao, dân tộc Tày và dân tộc Thuỷ. Vùng thứ ba bao gồm các xã Tân sinh, Tân Lập, Yên Bình ở tả ngạn sông Gậm huyện Bắc Quang (Hà Giang) ở đây họ sống tương đối tập trung nên giữ được nét văn hoá, phong tục tập quán, cổ truyền gần như nguyên vẹn.
Khi xưa, tổ tiên dân tộc Pà Thẻn đến Việt Nam bằng đường biển, qua Móng Cái, Thái Nguyên theo các con suối lớn đến xà Linh Phú, rồi lại ngược lên sông Gâm đến vùng Lăng Can thuộc huyện Nà Háng, sau đó họ chuyển lên vùng Hữu Sản, .. Hồng Quang và phần lớn vượt sang tả ngạn sông Gâm đến ở các xã Tân Trịnh, Yên Bình, Tân Lập, trên đường đến Lăng Can có một bộ phận ở lại xã Tân Phú, Trưng Sơn sống đan xen với người Tày.
Trước kia, dân tộc Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, cây lương thực chính là lúa và ngô. Lúa cũng có nhiều loại, lúa tẻ (mô ha la, mô cò nhà, mô ta tớ, mô nhơ) và lúa nếp (mô cằm đi, bôn tri, bù mẻ khó, v.v...). Trên một đám nương người Pà Thèn chỉ canh tác từ hai đến ba vụ, tuỳ theo độ màu mỡ của đất, thu hoạch xong lại bỏ hoang hoá, họ kéo nhau đi tìm vùng đất mới, tiếp tục với công việc phát nương làm rẫy. Công việc này sẽ do người già hoặc người lớn tuổi trong gia đình có kinh nghiệm đảm nhận.
Phương thức canh tác của người Pà Thèn là dùng gậy nhọn đầu (chà gia) để chọc lỗ gieo hạt, gậy có độ dài từ 2 mét đến 2,50 mét. Họ tra lúa sớm từ tháng ba đến tháng tám (âm lịch) đã cho thu hoạch, có vài nơi cấy lúa muộn, thì thu hoạch vào cuối tháng mười. Khi mùa lúa chín, dùng nhíp (a li chác) để cắt từng bông. Trên những đám ruộng nương nào mà không trồng lúa, thì được trồng khoai môn, khoai sọ, đậu, ngô, bầu, bí và các loại rau.
Do tình trạng nền sản xuất thấp kém, lạc hậu kém phát triển như vậy, người Pà Thẻn xưa kia nhiều năm bị hạn hán, sâu bệnh thú rừng phá hoại, thu hoạch không đủ ăn, đời sống bấp bênh, nhiều người phải bỏ vào rừng kiếm rau và những cầy có củ để sống.
Từ ngày có phong trào định canh, định cư, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất cây trồng, người Pà Thẻn đã quy tụ sống tập trung thành những làng có dân cư đông đúc, xây dựng hợp tác xã tuỳ theo địa phương số nhà có trong mỗi làng khác nhau. Ở vùng tả ngạn sông Gâm (Tân Trinh, Tân tập, Yên Bình) có làng đông tới 30 đến 40 nóc nhà. Những vùng còn lại ở rải rác dọc theo chân núi cạnh những dòng suối lớn. Nhà ở có ba loại: Nhà sàn, nhà nền đất và nửa sàn nửa đất. Loại nhà nền đất to lớn cột có kê đã phổ biến ở những vùng định canh định cư do tiếp thu văn hoá cấu trúc và của người Dao.
Mỗi làng của người Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Trong làng có một dòng họ to nhất. Người Pà Thẻn nhận mình là con cháu của tám họ như (Phù, Tần, Táy, Hưng, Sình, v.v...) ngoài ra còn là họ Bàn, họ Triệu. Mỗi họ có hai tên gọi, một theo âm Hán, và một được dùng giao tiếp xưng hô giữa những người đồng tộc, thí dụ họ Phù gọi theo tiếng dân tộc Pà Thẻn là Ca Bồ, họ bình là Ca Sơ, họ Dừ là Ca Đo.
Xã hội cũ của người dân tộc Pà Thẻn trai gái kết hôn rất sớm, ở lứa tuổi 15 đến 16. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người làng dòng họ bị ngăn cấm tuyệt đối, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững, có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, ít có hiện tượng ly hôn, ngoại tình và lấy vợ lẽ, trừ một số là trường hợp vì không có con. Ai vi phạm về đạo đức xã hội là bị cả cộng đồng lên án, cho nên ít xảy ra những hiện tượng trái với đạo đức trái với luân thường đạo lý.
Xưa kia người dân tộc Pà Thẻn còn nặng về nghi thức hôn nhân cưới xin phức tạp. Số tiền nhà gái thách cưới rất nặng. Người dân tộc Pà Thẻn có tục ở rể theo hạn định là 12 năm, ít nhất cũng là 6 năm, còn 6 năm về sau có thể thế chấp bằng tiền. Nếu gia đình đó mà không có con trai thì chú rể đó phải ở hẳn bên nhà vợ. Người ở rể phải thờ ma họ vợ, chia ra làm hai phần nửa con cái theo họ bố, nửa theo họ mẹ.
Trong mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên (a xe), ngoài ra họ còn thờ cúng nhiều vị thần khác như thần sấm, thần sét, thần mưa, thần gió, các thần có liên quan đến nền sản xuất nông nghiệp. Ngày nay do được học tập, sự nhận thức của người Pà Thẻn cũng khác xưa rất nhiều. Cuộc sống định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo, đã làm thay đổi bộ mặt bản làng của người Pà Thẻn, tạo điều kiện cho sự phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục.
Nét văn hoá của người dân tộc Pà Thẻn nói chung và nét đẹp trang phục của phụ nữ, hiện nay còn giữ được nhiều bản sắc dân tộc, bao gồm có (ké tự) váy, (két tanh) khăn bao gồm khăn trong (ke sớ) và khăn ngoài (sử chỉ), một số mô típ trang trí trên quần áo của phụ nữ Pà Thẻn thường là hình chó, hình chữ thập, hình quả trám giống với phụ nữ người Dao.
Đời sống tinh thần của người dân tộc Pà Thẻn cũng rất phong phú và đa dạng, một dân tộc yêu ca hát, thổi sáo và những trò chơi dân gian, có tính chất cổ truyền. Có nhiều truyện kể và truyền thuyết về cây lúa kể rằng: ''Ngày xửa ngày xưa sau nạn hồng thuỷ trên trái đất không còn sinh vật, loài người không biết lấy gì để ăn, một gia đình nghèo có ba con vật là con chó, con mèo, và con lợn, chúng bàn nhau lên trời lấy trộm lúa giống của Ngọc Hoàng để cứu giúp lòai người, thoát khỏi cơn nguy khốn (xưa người Pà Thẻn tin trời và đất ở gần nhau), từ đó loài người mới có cây lúa ở ruộng nước, cây lúa ở trên nương trên rẫy, có cái để mà ăn cho nên người ta mới gọi là ''hạt lúa trời”.
Hoàng Thị Thắng (sưu tầm)