Người Tày sống chủ yếu ở vùng núi phía Bắc. Tục lệ cưới xin của người Tày cũng có nhiều điểm giống người Kinh: cũng có lễ dạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu… Nhưng cũng có những điểm khác biệt, thể hiện bản sắc văn hóa của một tộc người.
Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp.
Hơn nữa, mọi người sẽ có thời gian ở chơi lâu hơn. Tiệc cưới được chia làm hai tiệc. Tiệc thứ nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Tiệc thứ hai dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Tiệc này bắt đầu vào khoảng 7-8 giờ đêm. Ăn uống xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn huyên với gia chủ. Thanh niên, đám thì tổ chức lày cỏ (một trò chơi như kiểu oẳn tù tì, người thua sẽ bị uống rượu phạt), đám thì bên trai bên gái hát lượn với nhau. Cuộc vui ồn ã, kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới tan.Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu hết: tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu… Điều đó có ý nghĩa là nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng dục của bố mẹ cô gái. Nhà gái sẽ trích ra một số tiền để sắm sửa tư trang, cho con gái làm của hồi môn: quần áo mới, vòng bạc, xà tích bạc, chăn màn thổ cẩm, chiếu hoa… và những đồ gia dụng khác. Còn rượu, thịt, gạo nếp, gạo tẻ sẽ dùng làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Tất nhiên, hai bên gia đình có thể điều đình với nhau. Tùy theo gia cảnh, nhà gái có thể đòi ít hay đòi nhiều. Có trường hợp, thấy nhà trai điều kiện kinh tế không mấy dư dả, nhà gái chỉ đòi một ít gọi là, cốt để tránh tiếng là con mình theo không người ta.
Người Tày còn có một phong tục đẹp khác. Đó là tục “khẩu lẩu” (gạo rượu). Khi gia đình nào có đám cưới (cũng như những việc hiếu hỉ khác như : vào nhà mới, thôi nôi, mừng thọ, ma chay…), ngoài số tiền phong bao như thường lệ, nhiều người còn đem gạo và rượu đến. Mươi ống gạo, chục lít rượu, nhiều ít tùy theo. Số gạo rượu đó được gia chủ ghi chép vào sổ cẩn thận. Để khi nào nhà khác có việc, mình lại đi khẩu lẩu lại người ta. Đây là một hình thức giúp đỡ lẫn nhau bằng hiện vật, đỡ phần nào chi phí cho gia chủ khi nhà có công việc. Thập niên chín mươi trở về trước, khi kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, thì việc làm đó thật có ý nghĩa. Nó thể hiện tính cộng đồng rất cao của cư dân nơi đây.
Người Tày có câu “slắng lẩu cẩu vằn”, có nghĩa là mời khách tới dự đám cưới phải mời trước chín ngày, không sớm hơn mà cũng không muộn hơn. Điều này có lẽ xuất phát từ việc xưa kia do đi lại khó khăn, đường sá cách trở, phải mời trước như thế người được mời mới có thời gian chuẩn bị, sắp xếp công việc đến mừng. Anh em, bạn bè ở xa có thể đến trước một ngày. Dự đám cưới xong còn ở chơi thêm một hai ngày nữa mới chia tay. Trong thời gian đó, gia chủ tiếp đãi rất thịnh tình, chu đáo, không để điều gì khiến khách phiền lòng. Điều đó cho thấy lòng hiếu khách của người miền núi.
Có một điều đặc biệt là lễ cưới cử hành xong, cô gái không ở lại nhà chồng mà quay về nhà bố mẹ đẻ ngay đêm đó. Dù đêm đã khuya, chú rể và đại diện nhà trai vẫn phải đưa cô dâu và phái đoàn nhà gái trở về. Nếu vì lý do nào đó như đường sá quá xa xôi, không thể về ngay mà ph i ở lại thì đêm đó cô dâu và các cô gái phù dâu sẽ ngủ chung một phòng rồi sáng hôm sau về sớm. Ngày thứ ba tính từ ngày cưới, chàng trai mới đi đón vợ về. Đêm đó mới chính thức là đêm tân hôn của hai người.
Tục gọi đó là lễ slam nâư (ba ngày), hiểu nôm na là lễ lại mặt.
Theo cách giải thích của những người cao tuổi thì sở dĩ có tục này là bởi trước và trong ngày cưới chú rể sẽ rất mệt mỏi vì phải lo nhiều việc, nhất là phải uống rất nhiều rượu mừng của mọi người, nếu động phòng ngay thì sẽ không có lợi. Nhưng cô dâu cũng chỉ ở nhà chồng chừng dăm bảy ngày, sau đó lại quay về sống với bố mẹ đẻ. Bởi theo phong tục của người Tày, khi nào con dâu có con mới được về ở hẳn nhà chồng. Chính vì thế mới có chuyện, cứ dăm bữa nửa tháng, mẹ chồng lại cho gọi con dâu về với những lý do: giúp nhổ mạ, cấy lúa hay xay lúa, giã gạo hộ mẹ… Tóm lại là kiếm đủ cớ để gọi con dâu về, mục đích là để đôi trẻ có dịp gần gũi nhau, để bà mau có cháu bế. Khi cô gái có mang, gần đến ngày khai hoa mãn nguyệt, nhà chồng mới đón về để sinh nở. Có con rồi cô gái mới chính thức về nhà chồng, được giao chìa khóa tay hòm, gánh vác mọi công việc.
Ở một số huyện của tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, đồng bào Tày còn có tục cưới vắng mặt chú rể. Nếu chú rể vì một lý do nào đó mà vắng mặt trong ngày cưới, nhà trai sẽ chọn một người thế vai chú rể, gọi là rể giả (khươi chả). Người làm rể giả phải là trai tân, khỏe mạnh, có đạo đức… thường là con cháu trong nhà hoặc là bạn thân của chú rể. Rể giả sẽ cùng họ nhà trai đi đón dâu, cùng cô dâu ra mắt hai họ… Cốt là để cô dâu không phải lẻ bóng trong ngày cưới. Tục này có từ bao giờ cũng không rõ, chỉ biết những năm đất nước còn chiến tranh, tục này diễn ra khá phổ biến. Những chàng trai do bận công tác đột xuất, đi bộ đội đóng quân ở xa, ngày cưới của mình không về được cũng không sao. Ở nhà, đám cưới vẫn được tổ chức bình thường, chu đáo; mà cũng không vì thế mà mất vui. Và những chàng rể vắng mặt đó vẫn yên tâm về người vợ mới cưới của mình.
Cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, nhiều tập tục trong việc cưới xin của người Tày cũng có sự thay đổi, không còn nguyên như xưa nữa. Ví như bây giờ người con gái không còn phải đợi đến khi có con mới về nhà chồng, hoặc nhà gái cũng không còn đòi hỏi nhà trai quá nặng về vật chất… Việc cưới xin bây giờ ngày càng giản tiện, văn minh hơn xong vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
Ngày nay, trong cuộc sống mới, tục lệ cưới xin của người Tày ở bản Po Mỏ Thổ, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên (Điện Biên) tuy có nhiều thay đổi so với trước đây, song vẫn còn giữ được những nghi lễ truyền thống.
Trước đây, hôn nhân người Tày mang tính chất “mua bán” rõ rệt, thông qua việc thách cưới của nhà gái, được đúc kết qua câu tục ngữ “nhinh khai, chài dư”, có nghĩa “gái bán, trai mua”. Họ thường tổ chức hát lượn để thổ lộ tình cảm trong các phiên chợ, hội hè, có trường hợp nên vợ chồng nhưng hôn nhân do cha mẹ sắp đặt vẫn là hình thái chủ đạo.
Ngày nay, trai gái Tày được tự do tìm hiểu và có quyền quyết định hôn nhân của mình. Khi đôi nam, nữ gặp gỡ, tìm hiểu, cảm thấy tâm đầu ý hợp, họ sẽ thông báo cho 2 bên gia đình. Gia đình chàng trai nhờ bà mối đến nhà gái ướm hỏi, nếu nhà gái ưng thuận, sẽ định ngày tốt để 2 bên gia đình gặp mặt. Đây chính là lễ dạm hỏi (khát pu mác), lễ vật dùng trong buổi gặp mặt tuỳ theo điều kiện kinh tế của nhà trai.
Lễ ăn hỏi (khát căm) với ý nghĩa là đã dứt lời, việc cưới xin đã được thống nhất giữa 2 gia đình. Thông thường, lễ này được tiến hành từ 1 đến 2 tháng sau lễ dạm hỏi. Trong lễ này, ông trưởng họ dẫn đầu cùng một số chàng trai đi giúp việc và đem các lễ vật đã thoả thuận từ trước giữa bà mối và nhà gái. Tổ chức lễ này to hay nhỏ tuỳ thuộc khả năng, điều kiện nhà trai và yêu cầu của nhà gái, nhưng phải theo phong tục truyền thống. Trong lễ vật nhà trai đem đến, một tục lệ bắt buộc phải có lợn quay. Kể từ sau lễ này, cô gái tự khâu chăn cho mình để dùng khi về nhà chồng.
Lễ xin định ngày cưới (to căm) có nghĩa là nối lời, khi gia đình nhà trai đã chọn được ngày lành, tháng tốt, ông trưởng họ sang nhà gái thoả thuận, định ngày cưới và nhà gái thống nhất yêu cầu lễ vật trong đám cưới.
Trong lễ cưới chính thức (kinh lẩu luông), lễ vật được nhà trai đem sang nhà gái từ chiều hôm trước. Lễ dẫn cưới gồm có 1 triệu đồng tiền mặt và thực phẩm: 1 con lợn quay, gạo, rượu... trong đó, nhất thiết phải có cá sấy và trứng gà. Lễ đón dâu được tổ chức vào buổi chiều hôm diễn ra đám cưới chính thức. Cô dâu mặc bộ quần áo đen, quấn khăn truyền thống. Theo quan niệm của người Tày: cô dâu trong ngày cưới quan trọng nhất là việc quấn khăn, khăn quấn làm sao phải chặt, đẹp. Chọn người quấn khăn cũng là khâu quan trọng, người được chọn là một phụ nữ khoẻ mạnh, đảm đang, gia đình hạnh phúc, con cái vẹn toàn và biết đối nhân xử thế.
Trước khi đón dâu, bao giờ cũng phải làm lễ cúng tổ tiên. Lễ vật cúng tổ tiên không thể thiếu đôi ga, gồm 1 con trống và 1 con mái, thể hiện cho sự sinh sôi phát triển. Số người đi đón dâu bao giờ cũng là con số chẵn, thành phần đoàn đón dâu bao gồm: ông trưởng họ, bà mối, phù dâu, phù rể cùng một số bạn bè và người thân từ 8 đến 10 người. Theo quan niệm của đồng bào: số chẵn tượng trưng cho điều may mắn.
Sau lễ cưới 3 hôm, đôi vợ chồng cùng bà mối và chị gái hoặc em gái chồng trở về thăm nhà vợ theo một phong tục, gọi là lễ “tao loi tin”. Lễ vật mang theo là đôi gà trống thiến, rượu, gạo... Khi trở lại nhà chồng, sau 3 ngày cô dâu mới được phép đi thăm họ hàng, bà con trong bản.
Đối với dân tộc Tày, chuyện trăm năm của đôi lứa thường được các gia đình chọn để tổ chức trong dịp đầu xuân. Đây là một nét đẹp truyền thống trong đời sống của người Tày Cao Bằng.
Người Tày được xem là những cư dân bản địa lâu đời nhất ở Cao Bằng. Theo phong tục truyền thống, hôn nhân của người Tày thường do cha mẹ sắp đặt. Ngày nay, nam nữ tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng.
Đồ xôi trong đám cưới của người Tày.
Đám cưới truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Lễ cưới được tổ chức trong hai ngày, nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu, từ tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu... dùng làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Điều đó có ý nghĩa là nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng dục của bố mẹ cô gái. Cỗ cưới thường được tổ chức vào buổi chiều (tầm 4 - 5 giờ chiều), thông thường, buổi chiều cỗ cưới dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Buổi tối, bắt đầu vào khoảng 7 - 8 giờ tối gia đình sẽ tổ chức ăn uống dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu, chú rể. Ăn uống xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn huyên với gia chủ; thanh niên tổ chức trò vui “lày cỏ” thua thì uống rượu, nam nữ hát lượn với nhau. Cuộc vui kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới tan.
Đoàn nhà trai đi đón dâu gồm một quan lang, một pả mẻ, chú rể, hai phù rể, một cô gái khoảng 15 - 16 tuổi chưa chồng và đoàn nguời gánh lễ khoảng 8 - 10 người (gồm các chàng trai, cô gái còn trẻ chưa lấy vợ, lấy chồng). Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái để đón dâu, gồm: 100 chiếc bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, 2 chiếc bánh dày to, một con lợn quay, một đôi gà, rượu, trầu cau, một đôi cá nhỏ, một ống tiết, một đoạn lòng lợn, một túi hạt giống (đỗ, thóc, vừng), một ít đường phên, một túi “cóoc mò” khâu bằng vải đỏ, một miếng vải đỏ gọi là “rằm khấư” báo hiếu công nuôi dưỡng của cha, mẹ
Đến nhà gái, việc tiếp đón diễn ra tình cảm, ý nhị. Pả mẻ nhà gái cất lời chào đón đoàn nhà trai, quan lang nhà trai thay mặt đáp lời. Để thử thách tài đối đáp của quan lang nhà trai, pả mẻ nhà gái có thể căng dây, đặt chổi, buộc con mèo trước cửa nhà... Quan lang nhà trai phải dùng những lời thơ đối đáp, đề nghị một cách tế nhị, có lý có tình để nhà gái mở cửa cho nhà trai vào đón dâu. Đoàn nhà trai vào nhà, nhà gái trân trọng đón lễ. Quan lang, pả mẻ hướng dẫn chú rể dâng lễ lên bàn thờ; cô dâu chú rể cùng vái lạy tổ tiên. Sau phần nghi lễ, chú rể dâng rượu mời ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng. Mọi người nhận rượu đều có những lời chúc mừng tốt đẹp. Sau đó, đoàn nhà trai dự bữa cơm thân mật với nhà gái.
Đám cưới người Tày có rất nhiều món ăn khá đặc biệt, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh của cư dân bản địa, như: canh củ đao, nộm hoa chuối rừng, canh hoa chuối, măng cuốn, măng nhồi, lợn quay…; đủ các món biểu trưng cho âm dương ngũ hành và một phần không thể thiếu trong cỗ cưới của đồng bào người Tày làrượu. Trong đời sống của người Tày Cao Bằng, rượu là một nét văn hoá ẩm thực đặc sắc và gắn bó với cuộc sống của đồng bào từ lâu đời.
Người con gái Tày đi lấy chồng mang theo nhiều của hồi môn đựng trong chiếc hòm có chân bằng gỗ (rương gỗ). Phần lớn của hồi môn là vải vóc, chăn màn, đồ trang sức. Ngoài ra cô dâu còn biếu bố mẹ chồng và anh em nhà chồng chăn, màn, khăn rửa mặt, giày…, và một gánh lễ mang theo để dâng lên bàn thờ nhà chồng. Sau khi hoàn tất các thủ tục báo cáo tổ tiên, mời rượu anh em họ hàng, quan lang nhà trai xin phép đón cô dâu về nhà chồng. Tới nhà trai, cô dâu, chú rể làm lễ báo cáo trước bàn thờ tổ tiên. Chú rể và cô dâu chắp tay vái tổ tiên, uống chén rượu thề chung thuỷ trăm năm rồi được đưa đón vào buồng hạnh phúc.
Cưới, hỏi là một phong tục truyền thống của dân tộc, là tổng hòa các hình thức văn hóa, văn nghệ dân gian. Trong lễ cưới chứa đựng các giá trị về vật chất cũng như tinh thần của mỗi dân tộc, từ những nét văn hóa ẩm thực, các nghi lễ trong đám cưới đến trang phục truyền thống và các điệu hát quan lang... Hôn nhân của dân tộc Tày không chỉ đơn thuần là việc kết duyên của đôi lứa mà có ý nghĩa lớn hơn là truyền thống đạo lý của dân tộc, giáo dục về nghĩa vợ chồng trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc, góp phần gắn kết cộng đồng, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong xu thế phát triển của xã hội hiện nay, những nét văn hóa đó càng cần được lưu giữ không chỉ để cho hôm nay mà phải để cho các thế hệ mai sau hiểu hơn, tự hào hơn về văn hóa của dân tộc mình.
Phong tục cưới hỏi của dân tộc Tày Tuyên Quang
Cô dâu dân tộc Nùng (đứng giữa) trước giờ xuất giá về nhà chồng.
Lăng Can-xã đặc biệt khó khăn của huyện Nà Hang, Tuyên Quang là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào dân tộc Tày. Trong cuộc sống mới hôm nay, tục cưới xin của người Tày nơi đây tuy có nhiều đổi thay nhưng vẫn lưu giữ được những nét văn hoá truyền thống đặc trưng của địa phương.
Hôn lễ của đôi trai gái dân tộc Tày Lăng Can bắt đầu bằng Lễ Dạm hỏi. Tại lễ này, một người chú, bác đại diện cho nhà trai mang theo một đôi gà trống thiến, gạo nếp cùng một người đi cùng gánh lễ vật để xin ăn hỏi. Sau khi dạm hỏi xong là đến Lễ Ăn hỏi hay còn gọi là Lễ nhận thông gia. Thành phần gồm 1 ông chú hoặc bác bên bố chàng trai làm trưởng đoàn, 1 ông chú hoặc bác bên mẹ chàng trai làm phó đoàn. Lễ vật đám hỏi phải tương đương với 12 mâm khách gồm 12 con gà hoặc 1 con lợn khoảng 40-50kg, bánh chưng, bánh giày, rượu... Từ lễ ăn hỏi này, hai bên xin phép được qua lại nhà nhau như người nhà trong những ngày lễ tết hay có công việc lớn.
Sau lễ ăn hỏi, nhà trai xem ngày tốt để tiến hành lễ cưới. Ngày nay, người Tày ở Lăng Can vẫn còn tục thách cưới. Nhà trai phải lo toàn bộ đồ ăn cho khách mời của nhà gái trong ngày cưới như: gà, lợn, xôi, bánh, gạo, rượu.... Trước đây, người dân nơi đây còn thách cưới bằng bạc trắng, nay thách cưới bằng tiền để sắm đồ cưới.
Ông Nguyễn Dụng, người dân xã Lăng Can cho biết, theo phong tục ở đây, những gia đình có con gái từ 10 tuổi trở lên phải trồng bông dệt vải. Khi cô dâu về nhà chồng phải chuẩn bị cho ông bà nội, ngoại, bố mẹ chồng, cô, dì, chú bác bên chồng mỗi gia đình một đôi gối, một cái chăn bông. Nếu anh em chưa có gia đình thì mỗi người sẽ được cô dâu tặng một cái chăn và một cái gối. Đồng thời, cô dâu còn phải chuẩn bị đầy đủ mọi dụng cụ, phục vụ sinh hoạt và lao động sản xuất để mang theo về nhà chồng. Cô dâu trong ngày cưới mặc áo dài đen của dân tộc Tày, váy đen, vấn tóc trong vành khăn.
Cũng như đám cưới người Việt, trước khi nhà trai đi đón dâu phải làm lễ cúng tổ tiên. Khi đi đón dâu, nhà trai gồm có 2 người cao tuổi đại diện, chú rể, phù rể, bà gia hặp (bà đưa cơi trầu). Đi đến chân cầu thang nhà gái, ông bác đại diện nhà trai xin phép rửa chân để lên nhà nói chuyện xin dâu. Trước khi ăn cơm ở nhà gái, 2 người lớn tuổi đại diện nhà trai cùng chú rể, phù rể phải đi mời cơm lần lượt quan khách của họ nhà gái. Trước khi đoàn trở về nhà trai, cô dâu, chú rể lạy ông bà, bố mẹ,... nhà gái mỗi người 3 lạy.
Đoàn rước dâu khi đi ra khỏi nhà gái thì bố trí 2 người cao tuổi đại diện nhà trai đi trước, cô dâu, chú rể đi sau, tay cô dâu cầm nón, thẻ hương. Khi xuống cầu thang, cô dâu đội nón lên đầu, đến chân cầu thang cắm một thẻ hương. Ra đến cổng nhà lại cắm một thẻ hương ở cổng. Đoàn đưa dâu đại diện cho họ nhà gái gồm có 1 ông, 1 bà cao tuổi (ông ta thống, bà tai thống) phù dâu, anh em , bạn bè...
Một điều đặc biệt trong phong tục cưới hỏi của đồng bào dân tộc Tày là vào buổi tối hôm đón dâu, bà tai thống, ông ta thống và phù dâu ngủ lại ở nhà trai. Bà tai thống và phù dâu sẽ ngủ cùng cô dâu. Sáng hôm sau, cô dâu, phù dâu dậy sớm lấy nước, lấy khăn bê đến cho mọi người trong nhà rửa mặt.
Đám cưới người Tày ở Lạng Sơn
Lần đầu tiên được tham dự lễ cưới của người dân tộc Tày tại Bản Nhùng, xã Hồng Thái, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, tôi thấy có một điều gì đó rất đặc biệt. vì tôi vốn sinh ra ở BG nên những thủ tục, nét văn hoá riêng này tôi chưa từng được biết nên tôi muốn “share” cho mọi người:
Đầu tiên người con gái trước khi về nhà chồng thì cần phải làm một lễ cúng để trình báo với tổ tiên, thần linh: lễ cúng này gồm một con lợn (con lợn này được làm sạch sẽ giống như là trước khi đem đi quay), con lợn này là phải do nhà nuôi, nó được đặt ở giữa nhà, cùng với một chậu tiết của con lợn. Ngoài lợn ra còn có một con gà đã được luộc chín, và hương cắm xung quanh (giống như hình trên ảnh)
Lễ cúng này diễn ra trong một buổi sáng, con lợn này sau khi cúng xong, thì vào buổi chiều nó sẽ được đem đi quay để tối ăn, còn bữa trưa hôm đó thì cũng quay một con lợn để ăn trưa (đây là bữa phụ: bữa phụ này gồm có thịt quay, lòng lợn sào, rau luộc), buổi tối thì cũng ăn như vậy
Buổi tối hôm trước khi rước dâu thì tất cả mọi đồ ăn đều được chuẩn bị hết, chỉ có rau cỏ thì sáng hôm sau mới làm để ăn.
Tuỳ vào số lượng khách mời mà nhà gái quay nhiều lợn hay ít lợn, thịt nhiều gà hay ít gà, nếu làm 40 mâm thì quay khoảng 2 con lợn (giống như hình ảnh)
Sáng hôm sau, thì chuẩn bị nốt một số thức ăn để đãi khách đây là bữa chính, bữa này gồm nhiều món hơn bữa phụ (dưới là hình ảnh mâm cơm đãi khách của người dân tộc Tày)
Nhà Trai khi đến rước dâu, thì phải mang theo một đôi gà, một trống, một mái được đặt trong hai cái lồng, và mang theo một con lợn quay. Khi vào làm lễ nhà Gái thì chú rể phải quỳ ở cửa nhà, hai bên là họ nhà trai và họ nhà gái nói chuyện, lễ vật thì để ở trên bàn (giống hình ảnh)
Sau khi làm lễ xong thì nhà Trai đi ăn cơm cùng với nhà Gái, đợi đến giờ lành thì rước dâu về!
Ngày hôm sau thì đi lại mặt!
Trên đây chỉ là đôi nét về lễ cưới của người dân tộc Tày mà tôi muốn “share” cùng mọi người!
Hồng Lân