Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Chân dung văn hóa dân tộc Thái
Showing posts with label ₪ Chân dung văn hóa dân tộc Thái. Show all posts
Showing posts with label ₪ Chân dung văn hóa dân tộc Thái. Show all posts

Tuesday, February 21, 2017

Đặc sản lạp xường gác bếp dân tộc Tây Bắc (Đàm Minh Phượng)

Vào những ngày trời đông lạnh đến tê người, được ngồi sưởi ấm bên bếp lửa than hồng và thưởng thức vị ngọt ngon béo ngậy của lạp xưởng thì còn gì tuyệt vời hơn nữa. Đây cũng là một trong những lý do vì sao mà dù có thể dễ dàng mua được lạp xưởng ở bất kỳ đâu chẳng hạn như siêu thị nhưng người ta vẫn sẵn sàng lặn lội hàng trăm, hàng ngàn cây số để đến và thưởng thức lạp xưởng gác bếp của vùng núi rừng Tây Bắc.

Với những người đồng bào Mông, Nùng hay một số vùng dân tộc khác của núi rừng Tây Bắc, từ lâu, lạp xưởng gác bếp đã trở thành món ăn truyền thống. Bằng việc treo lạp xưởng lên gác bếp và để cho khói của than củi hun khô nên nhiều người quen gọi lạp xưởng gác bếp là lạp xưởng hun khói. Dù với tên gọi nào thì lạp xưởng vẫn là lạp xưởng, vẫn được làm từ ruột non và thịt lợn. Tuy nhiên, ở mỗi một dân tộc sẽ có những cách chế biến khác nhau để tạo nên nét đặc trưng riêng của lạp xưởng vùng dân tộc đó.


Không mấy khó khăn để ta có thể làm ra món lạp xưởng gác bếp, tuy nhiên, cái khó nằm ở chỗ làm thế nào để tạo ra được hương vị thơm ngon đúng chuẩn lạp xưởng. Lạp xưởng ngon nhất phải được làm từ phần thịt ngon nhất của con lợn khỏe mạnh nhất. Phần lòng non của con lợn sau khi mổ sẽ được đem đi làm sạch và rửa với rượu cho hết mùi. Phần thịt ngon nhất của con lợn sẽ được lựa chọn để đem xay (hoặc băm nhỏ) sau đó đem tẩm ướp với gia vị đã chuẩn bị sẵn rồi nhồi vào phần lòng non đã làm sạch trước đó. Tùy vào khẩu vị của từng người ở từng vùng mà người ta sẽ có cách nêm nếm gia vị khác nhau. Đây cũng là điểm tạo nên sự khác biệt và là bí quyết riêng của mỗi vùng dân tộc.
Công đoạn nhồi lạp xưởng đòi hỏi phải có một sự khéo léo nhất định, sao cho lạp xưởng có đủ độ căng bóng mà không làm rách ruột non. Để lạp xưởng được to đều, người ta thường nhồi  to cỡ 3 ngón tay. Lạp xưởng sau khi đã nhồi xong được đem phơi dưới 2-3 cái nắng. Công đoạn cuối cùng trong quy trình chế biến món lạp xưởng gác bếp là buộc chúng lại thành từng đoạn và treo lên gác bếp cùng những loại thịt khô khác.

Lạp xưởng sau khi được hun khô trên than hồng củi lửa sẽ ngả dần sang màu cánh gián trông vô cùng bắt mắt. Thông thường, lạp xưởng đem hun khói từ 1-2 ngày là có thể sử dụng được. Tuy nhiên, tùy vào mỗi vùng khác nhau mà người ta sẽ hun khô trong thời gian khác nhau. Lạp xưởng hun khói có thể gác trên bếp than hồng quanh năm mà không hề sợ hỏng. Trong mỗi dịp lễ tết, lạp xưởng chính là món ăn không thể thiếu của đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Nếu có đi qua bếp nhà ai đang treo lạp xưởng thì bạn sẽ không thể nào cưỡng lại được mùi vị thơm ngon béo ngậy của món ăn này. Người dân Tây Bắc cứ treo lạp xưởng quanh năm như vậy, đó là cách để họ bảo quản món ăn này. Trước khi ăn, chỉ cần đem những khúc lạp xưởng đi chiên qua chảo lửa rồi thái thành những lát nhỏ là có thể sử dụng được. Mùi thơm béo ngậy hòa quện với mùi khói bếp tạo nên một món ăn vô cùng độc đáo của vùng rừng núi Tây Bắc. Thêm vào đó là màu sắc bắt mắt khiến người ta vừa thấy đã thèm. Vậy nên, dù ngày tết có bao nhiêu món ngon đi chăng nữa thì lạp xưởng gáp bếp vẫn là một món ăn không thể thiếu.
Không chỉ riêng người dân Tây Bắc mà những người dưới xuôi, đặc biệt là trẻ nhỏ cũng rất thích món lạp xưởng gác bếp này. Đây được xem như một món ăn vặt nịnh miệng cho những đứa trẻ, đồng thời cũng là món nhắm tuyệt vời cho cánh mày râu.
Lạp xưởng gác bếp là món ăn thơm ngon đặc biệt. Nếu đã chán những xúc xích hay lạp xưởng ăn ngay trong siêu thị thì món lạp xưởng này là một sự lựa chọn tuyệt vời, đảm bảo ngon miệng mà ăn mãi không chán, nhất là những ngày lạnh trời mà có món này thì đúng là tuyệt vời.

Đàm Minh Phượng

Bản sắc văn hóa dân tộc Thái Tây Bắc (Đàm Minh Phiếu)

 Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử với truyền thống đòan kết, cộng đồng các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam chúng ta luôn gắn bó với nhau trong suốt quá trình đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập và xây dựng, phát triển đất nước.
        Các dân tộc Tây Bắc nói chung và đồng bào dân tộc Thái sinh sống trên địa bàn nói riêng là những con dân Việt Nam cần cù chịu khó, gắn bó hoà đồng; là những con người vị tha, yêu thương và đùm bọc nhau trong cuộc sống. Đó cũng chính là những phẩm chất của người Việt Nam.

         Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt Nam từ hơn 1000 năm trước trong các cuộc thiên di trong lịch sử. Người Thái ở Việt Nam có số dân đứng thứ 3 cả nước sau người Kinh và người Tày với số dân hơn 1,3 triệu người, chủ yếu sống ở vùng núi phía Tây Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An… qua quá trình lao đông, sản xuất và sinh hoạt người Thái đã tạo nên được những nét văn hóa độc đáo và đặc sắc cho dân tộc mình, với những nét đặc sắc về bản sắc văn hóa kiến trúc nhà ở, trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm thực, phong tục tập quán riêng biệt, ngôn ngữ, chữ viết…đã làm nên một nền văn hóa cho dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng.
        Là một người con dân tộc Thái sinh và và lớn lên trên mảnh đất Điện Biên anh hùng, tôi thật sự rất tự hào về chính nơi tôi được sinh ra, về bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của chính dân tộc mình.
        Trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ chia sẻ đến các bạn về những gì tôi biết về phong tục, văn hóa, cách sinh hoạt…của đồng bào Thái sinh sống trên địa bàn Tây Bắc nói chung và Điện Biên nói riêng.
        Ở điểm cực Tây của tổ quốc, Điện Biên nằm ở nơi cao ráo, thoáng đãng, hội tụ sông, suối, núi đồi, những cánh đồng lúa và phảng phất đâu đây là mùi hương hoa cỏ dại từ những cánh rừng xanh bạt ngàn. Những ngôi nhà sàn thấp thoáng ven những bờ suối,còn ven bờ là những chùm hoa dại, hoa ngũ sắc và những chùm hoa bay bay theo gió. Cảnh sắc nơi đây thật sự rất tuyệt vời. Phải chăng không khí trong lành, dịu mát cùng với cảnh sắc tuyệt vời như vậy cũng làm cho con người nơi đây trở nên phúc hậu?

Một góc đèo Pha Đin trên địa phận tỉnh Điện Biên - Ảnh: Sưu tầm

Cánh đồng Mường Thanh - Ảnh: Sưu tầm

        Cộng đồng tộc người Thái ở nước ta bao gồm: Thái đen và Thái trắng. Tại Điện Biên có khoảng 186.270 đồng bào Thái đang sinh sống, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam.
        Đầu tiên tôi sẽ giới thiệu về ngôn ngữ và chữ viết của người Thái nơi đây.
        Ngôn ngữ: Người Thái nói các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Ka đai, trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái (Thái Lan), tiếng Lào của người Lào, tiếng Shan ở Myanma và tiếng Choang ở miền Nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, có 8 sắc tộc ít người gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
       Chữ viết: Người Thái là một trong số rất ít các dân tộc thiểu số ở nước ta có chữ viết, có nguồn gốc từ vùng miền Nam Trung Quốc ngày nay và nhiều nhà ngôn ngữ học đã đưa ra những bằng chứng về mối liên hệ với các hệ ngôn ngữ Nam Á, Nam Đảo, hoặc Hán Tạng. Đây là một hệ thống mẫu tự theo hệ Sanscit. Sự phối hợp thanh điệu, quy tắc chính tả phức tạp, các chữ viết gần giống với chữ Lào, Thái Lan nhưng ngày nay đã bị mai một. Tuy chưa xác định được cụ thể thời điểm xuất hiện nhưng hàng ngàn năm nay Ngôn ngữ và Bộ chữ viết đã được người Thái ở Việt Nam, cũng như cộng đồng người Thái sống ở nước ngoài sử dụng, giữ gìn và bảo tồn. Bộ chữ Thái là một công cụ để ghi nhận và phản ánh đầy đủ, phong phú và tế nhị tư tưởng, tình cảm và tâm hồn trong sáng lành mạnh của dân tộc Thái. Thể hiện trong văn hoá nghệ thuật thơ, ca, tục ngữ, truyện, các phong tục tập quán.
        Trong tiếng Thái, ngôn ngữ hết sức đa dạng và phong phú, ngôn ngữ cũng bao gồm nhiều ngôi như trong tiếng Việt và cũng khá phức tạp.Hiện nay việc đồng bào Thái nói và viết chữ Thái đang dần mai một đi, rất nhiều bạn cùng trang lứa với tôi, là người Thái nhưng không nói được tiếng Thái.Và hiện nay trong quá trình dạy con trẻ các gia đình thường không  dạy con bằng tiếng Thái nữa để rồi cứ thế mai một dần sự giàu đẹp ngôn ngữ Thái. Về chữ viết, có lẽ ít ai là người Thái, mà có thể viết được chữ Thái, có thể có nhiều lí do khác nhau, do học một ngôn ngữ chung là Tiếng Việt nhưng lí do lớn nhất có lẽ là do các thế hệ sau không được truyền dạy cũng như chưa có trường lớp để dạy.
        Ngôn ngữ và chữ viết là phương tiện để hình thành và lưu truyền các hình thái quan trọng nhất trong đời sống văn hóa tinh thần của một dân tộc. Đồng thời, điều đó cũng góp phần bảo tồn và phát triển sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, riêng đối với ý kiến bản thân tôi, việc đưa ngôn ngữ vào trong giáo dục đối với các em học sinh dân tộc thiểu số là một điều hết sức hữu ích, quan trọng góp phần giữ gìn bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết cho các thế hệ sau.
Không chỉ có ngôn ngữ chữ viết vô cùng đa dạng, người Thái tại Điện Biên còn có những nét đặc trưng trong ẩm thực.
        Một trong những đặc trưng nổi bật của dân tộc Thái là ẩm thực. Đối với người Thái, ẩm thực đã trở thành một nét văn hóa cổ truyền sâu sắc. Món ăn của dân tộc Thái thể hiện sự kết hợp hài hòa của sông, của rừng, của những tấm lòng chân quê giản dị. Chúng có một đặc trưng dễ nhận biết, đó là sự phân thực rất rõ ràng, là sự gia công đúng mực về kỹ thuật và nghệ thuật. Dân tộc Thái ưa cái hương vị đậm đà, giàu chất dinh dưỡng nhất là các món nướng. Độ đậm đà của hương vị các món ăn cũng đạt đến mức đỉnh điểm: cay thì thật là cay, ngọt thì thật ngọt mà chát thì không gì chát bằng. Món thịt trâu hoặc bò, cá, gà nướng được người Thái tẩm, ướp gia vị rất cầu kỳ. Gia vị để ướp là hạt tiêu rừng hay còn gọi là hạt “mắc khén”, ớt, tỏi, gừng, muối... Trước khi đem ướp với thịt, các gia vị cũng được nướng lên cho chín, hương thơm.
          Để nói đến những món ăn truyền thống của người dân tộc Thái thì có lẽ trong khuôn khổ bài viết này tôi sẽ không nói được hết. Tôi sẽ giới thiệu đến các bạn những món ăn quen thuộc nhất trong sinh hoạt của chính gia đình tôi cũng như cac gia đình khác tại Điện Biên nói chung. Có những món ăn đặc trưng như: Cơm lam, xôi nếp. Xôi nếp là món ăn truyền thống của dân tộc Thái. Người Thái có phương pháp xôi cách thuỷ bằng chõ gỗ rất kỹ thuật. Xôi chín bằng hơi, mềm, dẻo nhưng không dính tay. Xôi được đựng vào ép khẩu hoặc giỏ cơm đậy kín, ủ ấm, giữ cho cơm dẻo lâu. Để nấu được xôi ngon và dẻo người Thái chọn những loại gạo nếp nương với hạt gạo trắng trong, to, tròn. Có lẽ người Thái sống hòa mình với thiên nhiên bởi vậy những món ăn của người Thái luôn có nguồn nguyên liệu đơn giản từ chính cuộc sống xung quanh. Xôi của người Thái không chỉ đơn giản là có xôi màu trắng mà chúng ta có thể thấy xôi ngũ sắc, xôi có 5 màu: Trắng nguyên thuỷ của gạo nếp và các màu vàng, xanh, đỏ, tím. Các màu này tượng trưng cho: Sức khoẻ, tiền tài, hạnh phúc, môi trường sống, sự thuỷ chung. Mâm xôi ngũ sắc thường được bày ở trung tâm mâm cỗ. Các nắm xôi được bày bên nhau theo kiểu quần tụ hoặc xếp thành núi, xếp thành 5 cánh hoa ban bày trên lá cây (trước đây) hoặc kết đĩa vòng tròn (bây giờ). Để làm nên những màu sắc đẹp như vậy thì nguồn nguyên liệu từ từ các lá cây rừng. Với màu sắc và mùi hương của các loại lá cây rừng đã làm nên một món xôi riêng biệt của đồng bào Thái. Cũng với nguyên liệu chính là gạo nếp, người Thái có thể làm món cơm lam.Cơm lam là một món ăn giản dị, độc đáo và luôn tạo được sự bất ngờ cho người ăn đó là một món ăn của núi rừng, cơm có màu xanh nhẹ được nướng trong ống tre, ống nứa chặt trên rừng về. Món cơm tưởng chừng rất đơn giản trong nguyên liệu và cách làm nhưng ngược lại lại là cả một nghệ thuật, một ý tưởng của người vùng cao về sự hòa quyện giữa nước, lửa và những ống tre, nứa. Cách làm cơm lam rất dễ nhưng cũng đòi hỏi sự khéo léo của người thực hiện.
        Mùa nào thức nấy người Thái luôn tự túc và dựa vào tự nhiên như món  măng đắng, măng ngọt; rau cải ngồng, rau dớn... chấm với gia vị chéo, đậm đà vị cay của ớt, riềng, mặn của muối rang, hương thơm của rau. Họ ưu thức ăn có các vị cay, đắng, chát, bùi ít dùng các món ngọt lợ, đậm nồng..
        Người Thái rất thích uống rượu. Đối với họ uống rựơu là phong tục cho nên họ tự chế biến lấy để tiêu thụ. Rượu của người Thái có ba loại chính: Lảu xiêu (cất hay trắng), Lảu xả (Rượu cần), Lảu vang (rượu nếp cái). Người Thái xem rượu là cái cớ để cởi mở niềm vui, sự hân hoan mang tính văn hóa lành mạnh, không bê tha. Với người Thái, rượu cần là thức men thú vị mỗi khi có đình đám. Sinh hoạt ẩm thực của người Thái có cung cách giờ giấc nhất định. "Kín lảu mi ngan, đa pan mi pựa", tức là ăn có bữa, rượu có giờ.
        Người Thái hút thuốc lào bằng ống điếu tre, nứa và châm lử bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ.
        Về văn hóa ẩm thực của người Thái thật sự vô cùng phong phú, người Thái có rất nhiều món ăn ngon và đậm chất riêng mà không một dân tộc nào có. Điều đó khiến những người con dân tộc xa quê như tôi luôn một lòng hướng về mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên, luôn nhớ những món ăn mà người mẹ, người bà vẫn hay nấu cho các con, các cháu. Cùng với sự phát triển đi lên của xã hội thì văn hóa ẩm thực của đồng bào ở đây cũng có sự thay đổi, tuy nhiên vẫn giữ được những nét truyền thống của dân tộc. Người Thái với lòng hiếu khác và chân thành. Khi nhà có khách, họ sẽ tiếp đãi khách bằng những chén rượu nồng chất chứa nhiều tình cảm và những món ăn ngon nhất của chính nhà mình.

Cơm Lam



Xôi ngũ sắc

Rau dớn xào – Một đặc sản Tây Bắc

         Về phong tục – tập quán, tiêu biểu là tục cưới hỏi và ma chay:
        Cưới hỏi: Gia đình người Thái theo gia đình phụ hệ, nhưng trước kia người Thái có tục ở rể nên lấy vợ lấy chồng phải qua nhiều bước,trong đó có 2 bước cơ bản:
        Cưới lên (đong hưn): đưa rể đến cư trú nhà vợ là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. người Thái đen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu (tẳng cau) cho người vợ sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm, sau đó thời gian ít dần còn vài ba năm khi đó đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng, bây giờ vẫn còn giữ tục lệ nhưng khá ít, chỉ khi trường hợp gia đình bên gái khó khăn thì sẽ ở rể, quá trình sau này gọi là cưới xuống
        Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha
        Ngoài cưới hỏi theo truyền thống thì người Thái còn có tục “Trộm vợ”, khi đôi trai gái yêu nhau, muốn lấy nhau nhưng điều kiện không cho phép thì người con trai sẽ trộm cô gái về để tránh khỏi nhiều hủ tục rườm rà, tốn kém khi hỏi cưới. (chàng trai đến nhà cô gái trộm về trong đêm và đặt một chai rượu, trầu cau lại nhà cô gái để sáng ra bố mẹ biết là con gái đã bị trộm vợ, nhà trai sẽ đem lễ vật đến chịu thú và xin cưới ngay. Ngày nay một số người lợi dụng phong tục này để “bắt vợ” mặc dù không yêu nhau, làm biến tướng và mất đi cái hay của bản sắc dân tộc và phải chịu sự trừng phạt của pháp luật nhà nước).
Đó là lễ cưới truyền thống của dân tộc Thái. tuy nhiên, cuộc sống ngày càng hiện đại và trở nên hội nhập chính vì vậy mà các thủ tục rườm rà và không cần thiết gần như đã được xóa bỏ. tuy nhiên, vẫn giữ được những nét truyền thống như người con gái khi lấy chồng phải “tẳng cẩu”, nghĩa là phải búi tóc trên đầu, đối với người Thái đen là vậy, trong ngày cưới người con gái mặc trang phục truyền thống của dân tộc.
       Ma chay: của người thái tương đối phức tạp.
Đối với người chết, người Thái quan niệm chết là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì vậy đám ma là lễ tiễn người chết về với “mường trời”. Đám tang thường có nhiều lần cúng viếng để linh hồn được lên với mường trời.
        Lễ tang có 2 bước cơ bản la pông và Xống. Pông có nghĩa là phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái trắng), thiêu (Thái đen).Xống là đưa đồ tang lễ ra bãi tha ma và kết thúc bẵng lễ gọi ma trở về ngụ tại gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
        Người Thái Điện Biên cũng như các vùng miền khác có quan niệm đa thần và giữ tục cúng tổ tiên. Do đời sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước đêm Giao Thừa, lễ hội đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội cầu mùa khác, các lễ hội xăng khan, xến bản, xến mường, lễ hội hạn khuống, lễ hội mừng lúa mới là những lễ hội đặc trưng của dân tộc.
         Người Thái đón tết Nguyên Đán rất cầu kỳ và chu đáo, mọi sự chuẩn bị cho ngày tết được bắt đầu từ nửa tháng trước đó, sau đó là các giai đoạn 23 tháng chạp đón tết ông công ông táo như người Việt, 28 rửa lá rong, 28 gói bánh chưng, 29 nấu bánh chưng, 30 tết đón giao thừa cúng tổ tiên mừng năm mới và đi lấy nước lộc đầu năm. Sang mồng một tết thờ cúng tổ tiên, cúng thần đất, thần núi, thần nước, thần bếp xong xuôi tất cả thì chọn người xông đất như người Việt. Ngày Tết đến ngày thứ 7 thì làm lễ khai hạ, lúc đó mọi người mới đi ra đồng làm việc, khoảng thời gian này cũng có rất nhiều hoạt động vui chơi như ném còn, nhảy sạp, hội thi bắn nỏ, chơi quay và  mạc lẹ, vũ hội rượu cần với các điệu xòe, điệu múa lăm vông quanh chum rượu cần.

Thiếu nữ Thái với lễ hội Ném còn

         Còn về kiến kiến trúc nhà ở, đồng bào Thái nơi đây chủ yếu sinh sống trong những ngôi nhà sàn đầm ấm tình yêu thương giữa các thế hệ.
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt là họ xây nhà sàn. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khme. nhà người Thái có nhiều dáng vẻ khác nhau, nhà mái tròn nóc khum hình mai rùa, “chỏm đầu đốc” có “khau cút” với nhiều kiểu khác nhau. Nhà bốn mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can, nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau. Vách tường thường được đan bằng tre, nứa tạo thành các phên và ván gỗ làm tường nhà, nền sàn cũng được dùng từ cây tre, mét. Mái nhà được lợp bằng lá tranh, lá cọ. nhưng ngày nay thường chuyển sang lợp ngói.
        Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ kháng và khay điêng. khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa so với khay điêng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam.
         Mừng nhà mới: dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung tá (thông gia) châm lửa đốt củi ở bếp mới. Một nhà người Thái xưa thường có 2 bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm. một bếp khác dùng để nấu ăn, người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi tà ác, thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi uống rượu cần.
        Hiện nay những mái nhà sàn đã cách điệu với những kiểu kiến trúc hiện đại hơn. Tuy nhiên nét truyền thuyền thống vẫn được thể hiện ở những ngôi nhà sàn hiện đại.

Nhà sàn truyền thốn của dân tộc Thái Tây Bắc

         Trong văn hóa của người Thái Điện Biên, văn học dân gian và âm nhạc khá đa dạng và đặc sắc cho và rất riêng của dân tộc.
        Văn học dân gian: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xôn xaoKhun Lú Nàng Ủa. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây.
        Âm nhạc: Với nhiều loại hình nhạc cụ như: Khèn, Sáo, Cồng Chiêng và Khắc Luông. Múa (xẽ, xoè) với hai cấp độ là: Múa tập thể dân dã và múa biểu diễn hay múa phong cách. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khăp tay. “Khắp” là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như lăm vông đặc sắc nhưng đơn giản ai cũng có thể hòa vào điệu múa này, loại hình múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái. Ngoài ra còn có điệu suối, nhuôn ( lối hát đối đáp giao duyên) thường hát lên trong lúc sản xuất cũng in sâu trong bản sắc của văn hóa dân tộc.
         Và tiêu biểu của một dân tộc được thể hiện ở trang phục.Các nhóm người Thái như Thái Đen, Thái Trắng đều có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày nhưng trong đó, vẫn nổi bật bản sắc riêng.
        Một bộ trang phục truyền thống phụ nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng) được đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu… chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với váy (xỉn) màu thẩm hình ống, Phụ nữ Thái mặc váy hai lớp: váy trắng lót bên trong và và váy chàm mặc ngoài, thắt lưng (xải cỏm) bằng dải lụa màu xanh lá hoặc tím xẫm, giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng, kết hợp với khăn (piêu) cuốn đầu, đội nón (cúp), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay và xà tích bạc đeo ở bên hông. Áo ngắn có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc khác nhau. Váy thì được dệt và thêu với nhiều họa tiết như long, phượng, mặt trời…
Sự khác biệt giữa nữ giới của dân tộc Thái Đen và Thái Trắng được thể hiện trong các dịp hội hè. Những dịp đó, phụ nữ Thái Trắng thường mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo dài thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải “khít” ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành. Trong khi đó, phụ nữa Thái Đen thường mặc áo dài xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái trắng.
         So với trang phục nữ, trang phục nam người Thái đơn giản và ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn. Nam thường mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lung, màu quần áo phổ biến là màu đen, có thể là màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng.
          Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo...


Trang phục dân tộc của con gái Thái đen ở Tây bắc

Đời sống vốn gắn bó với thiên nhiên, với rừng núi.Người Thái hoạt động sản xuất dựa vào nông nghiệp là chính, chủ yếu là dựa vào trồng lúa nước trên các cánh đồng thông lũng, nếp nương ở các sườn đồi, dân cư có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. ở những nơi đất cao hơn không dẫn nước vào được thì xây dựng các cây guồng để đong nước từ suối lên ruộng. lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa Nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, trồng bông se sợi, trồng cây thuốc nhộm, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... người Thái có nghề dệt rất lâu đời, các sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp. Người dân tự trồng dâu nuôi tằm se sợi, dệt thổ cẩm. hoạt động săn bắn thời trước và nay là chăn nuôi cũng rất được chú trọng.
        Ngày nay hoạt động sản xuất của người Thái cũng đã được giao thoa, học hỏi người kinh, xuất hiện thêm nhiều ngành mới trong hoạt động sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để đảm bảo sự phát triển bền vũng của dân tộc, kể cả hoạt động dịch vụ. người dân đã đưa khoa học kỹ thuật vào canh tác sản xuất nhưng vẫn còn hạn chế.

Ruộng bậc thang trên cao nguyên Sín Chải – Tủa Chùa – Điện Biên

        Trong tổ chức xã hội, người Thái cũng rất đoàn kết. Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản, mường hay theo chế độ phỉa tạo. tong tộc Thái gọi là Đẳm. mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ai Nọong ( anh em; tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung tá (thông gia: tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ), Nhinh xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài chục đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau, có già làng, trưởng bản cai quản bản mường. Người Thái ở nhà sàn thường ở chân đồi núi, trong thung lũng nhưng dần dần cũng đã chuyển ra gần đường chính và dần thay nhà sàn bằng nhà trệt như người miền xuôi.
Phương tiện vận chuyển: Ngày xưa, người Thái thường đi bộ, vận chuyển gánh là chủ yếu, ngoài ra, gùi theo kiểu chằng dây đeo sau lung, dùng ngựa cưỡi, thồ. Trên các con sông thì di chuyển bằng bè. Nay đã có các phương tiện hiện đai như xe gắn máy để đi lại, xe bò, xe tải để chở vật dụng, hàng hóa.

Đàm Minh Phiếu

Monday, April 25, 2016

Chân dung văn hóa dân tộc Thái - 5 (Văn Hóa Tây Bắc)

Trước hết, những giá trị văn hóa vĩnh cửu, tiến bộ cần bảo tồn, tạo mọi điều kiện để phát huy: Nếp nhà sàn, các lễ hội truyền thống, Hạn Khuống...các làn điệu dân ca Thái, múa xòe; chữ viết, các tác phẩm văn học nói về lịch sử xã hội, các tác phẩm mang tính sử thi như "Quam Tô Mương", "Táy Pú Xớc", "Xống Chụ Xon Xao"; các bản gia phả, tộc phả của các dòng họ Thái, các loại sách viết bằng chữ Thái cổ...
Bảo tồn những giá trị cũ, chắt lọc những yếu tố tích cực để phục vụ cho sự phát triển. Chẳng hạn như phong tục thờ cúng tổ tiên, phẩm chất đạo đức, trọng chữ tín, cần cù lao động...cũng là những giá trị cần phải giữ gìn. Những yếu tố văn hóa tuy cũ, nhưng không gây cản trở cho sự phát triển, thậm chí còn đáp ứng được một phần nhu cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân không nên xóa bỏ. Chẳng hạn như y phục giàu màu sắc, hoa văn phong phú và cả đồ trang sức của người Thái ở Tây Bắc là nét đẹp truyền thống, vừa nói lên tính cách tâm lý vừa thể hiện trình độ thẩm mỹ của dân tộc, những hoa văn mặt chăn, gối, áo cỏm, khăn Piêu là những di sản văn hóa nổi tiếng không chỉ riêng Việt Nam mà còn cả thế giới. Cần động viên, phát huy vai trò của tiến bộ của tổ chức dòng họ, trưởng họ, trưởng bản nhất là những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và địa phương để đóng góp cho sự phát triển đất nước.
Hiện nay người ta chú ý đến việc làm kinh tế, làm giàu cho chính mình mà buông lỏng di sản văn hóa bị mai một, ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nhau. Để khắc phục hạn chế tình trạng như hiện nay, cần xây dựng những kế hoạch vận hành trong lĩnh vực giữ gìn và phát huy, bởi giá trị văn hóa dân tộc ở Tây Bắc, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái.
Văn hóa là một chất liệu gắn bó xã hội có tính bền vững, nó luôn tồn tại trong dòng chảy của sự vận động, phát triển lịch sử-xã hội. Mỗi dân tộc có lịch sử nền văn hóa với những nét riêng, lâu đời và bền chặt, đó là bản sắc văn hóa truyền thừa. Bản sắc văn hóa là một tiêu chí để khẳng định sự tồn tại của một dân tộc; giữ gìn bản sắc là cách thức cơ bản để các dân tộc không tự đánh mất mình.

Hãy tôn vinh văn hóa của mình và luôn luôn sáng tạo, nếu không văn hóa sẽ bị băng hoại làm hư hao giá trị văn hóa truyền thống, vì bối cảnh hội nhập toàn cầu và phát triển nền kinh tế thị trường. Cho nên cần giữ gìn bản sắc của riêng mình, của mỗi dân tộc nhưng vẫn gia nhập được thị trường kinh tế. Đối với dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung và ở Sơn La nói riêng, một dân tộc đã có một nền văn hóa phong phú, lâu đời, độc đáo và hết sức đặc sắc, thì việc giữ gìn và giá trị văn hóa của dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt cần thiết trong điều kiện hiện nay. Nếu làm tốt được điều này thì không những chúng ta có thể giữ gìn những nét văn hóa riêng đáng tự hào của dân tộc, mà còn phát huy được sức mạnh tiềm tàng vốn có của nó từ bao đời, góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm bản sắc dân tộc, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Văn Hóa Tây Bắc

Chân dung văn hóa dân tộc Thái - 4 (Văn Hóa Tây Bắc)

Giá trị văn hóa truyền thống theo dòng lịch sử và yếu tố hiện đại phải được kết hợp một cách hài hòa để tạo ra hợp lý văn hóa tiến bộ, nhưng vẫn phù hợp không mất đi bản sắc của nó, tránh rơi vào mâu thuẫn. Văn hóa cần phải có một bước đi rõ ràng, chắc chắn, không bảo thủ và định rõ vị trí của văn hóa hiện tai và tương lai.

Yếu tố nào còn phù hợp ta nên phát huy và sáng tạo, những gì lạc hậu hết vai trò nghệ thuật ta phải chắt lọc cho phù hợp với truyền thống dân tộc và tiếp thu mới, giá trị nào không phù hợp ta nên cần ngăn chặn lại bở nó là sự tự phát.
Từ đó kết hợp các yếu tố tích cực của truyền thống và hiện đại bằng hình thức hợp lý, hiện đại hóa truyền thống với những nội dung và mới cho phù hợp, có thể tiếp thu các yếu tố văn hóa mới, mà vẫn giữ được bản sắc có thế ta mới làm giàu văn hóa.

Cho nên, có thể chủ động cùng với thời gian chuyển những yếu tố văn hóa mới thành những yếu tố văn hóa tộc người mà vẫn không bị mất gốc. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa cái nội sinh và ngoại sinh, cái bản sắc, cái bên trong là chính, là cốt lõi.
Vấn đề ở đây cần có thái độ khách quan, khoa học, tôn trọng lịch sử, mỗi khi đề ra và thực hiện các giải pháp phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc rất giá trị bởi đã trải qua nhiều thế hệ, cho nên trước khi thực hiện đổi mới phải xem xét cẩn thận không thể đặt nó ngoài lịch sử của dân tộc.
Mặt khác bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương, cần khai thác những giá trị ý thức của cộng đồng, chú ý đến mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, khai thác các giá trị văn hóa, cần loại bỏ các yếu tố không phù hợp với xã hội hiện nay theo tinh thần "gạn đục, khơi trong", bổ sung các yếu tố mới làm phong phú văn hóa dân tộc. Một mặt đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, góp phần đưa văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Gần đây, di sản văn hóa truyền thống của người Thái ở Tây Bắc có phần vắng bóng dần trong đời sống của nhân dân. Việc phục hồi những di sản văn hóa truyền thống mang bản sắc dân tộc này cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc trên cơ sở khoa học.
Sự phát triển văn hóa cũng nên tránh tự phát, tràn lan gây nên những tác hại tiêu cực. Những biểu hiện thái quá cần phải được xem xét theo lịch sử, không nên nhận xét, đánh giá thiếu tôn trọng, giải quyết một cách thô bạo như những biểu diễn vì lợi nhuận.

Văn Hóa Tây Bắc

Chân dung văn hóa dân tộc Thái - 3 (Văn Hóa Tây Bắc)


Vai trò văn hóa đối với sự phát triển xã hội kinh tế, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, phải tạo cho nó môi trường thuận lợi bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường nhân bản. Truyền thống văn hóa của người Thái ở Tây Bắc tồn tại và phát triển theo chiều đa dạng. Với nguồn gốc lịch sử từ lâu đời và hiện nay đổi mới theo chiều hướng xã hội kinh tế.

Tình trạng cần giải quyết còn nhiều vấn đề bấp cập đang có hai khuynh hướng, bảo thủ giá trị quá khứ, và thay đổi từ từ. Một số người tìm cách bảo tồn trạng thái hiện tại hoặc tìm cách cải tạo xã hội từ từ, trong khi những người khác muốn quay lại cổ xưa trong nhận thức văn hóa của đồng bào dân tộc Thái.
Khuynh hướng bảo thủ muốn giữ nguyên vẹn văn hóa truyền thống của cộng đồng, không muốn thay đổi dù là những yếu tố đã lạc hậu như mê tín dị đoan. Khuynh hướng thần tượng văn hóa người Kinh, muốn Kinh hóa mọi giá trị văn hóa dân tộc mình, xa rời truyền thống dân tộc dẫn đến mất gốc. Để giữ gìn và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa của người Thái ở Tây Bắc, cần phải có một thái độ hiểu biết, tôn trọng; kiên trì vận động, thuyết phục, cảm hóa, tránh áp đặt, chủ quan, hối hả. Đặc biệt chú trọng củng cố và phát triển ý thức cộng đồng, từ đó đi đến cộng đồng quốc gia.

Nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc cần phải đánh giá đúng nhu cầu và nhận thức của đồng bào về văn hóa của chính mình. Việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống trước hết phải xuất phát từ yêu dân tộc. Vì văn hóa dân tộc Thái trước hết là của người Thái là người sáng tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là người trực tiếp thừa hưởng, kế tục, bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, trong đời sống xã hội hiện tại và cả trong tương lai. Chỉ khi nào người dân hiểu được vị trí, vai trò của họ trong hoạt động này thì họ mới tích cực tự giác thực hiện sáng tạo mới, nếu bản thân họ không có ý thức giữ gìn cho những thế hệ mai sau, nếu có sự mai một giá trị văn hóa là điều không tránh khỏi. Cho nên, nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong bản thân dân tộc Thái ở Tây Bắc là yếu tố quyết định đối với sự thành bại. Cuộc vận động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc trong đó có dân tộc Thái không chỉ dừng lại ở đồng bào, mà cần phải được mở rộng khắp cư dân trong khu vực và cả nước.
Đồng bào tự ý thức gìn giữ, nâng niu các loại hình văn hóa của dân tộc mình và các dân tộc khác. Từ đó cho mình những hiệu quả giữ gìn và nâng cao thiết thực trong đời sống xã hội. Thực hiện giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc thông qua vận động, giáo dục, thuyết phục.

Những người hôm nay, cần đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ và có trách nhiệm thực hiện tuyên truyền, giáo dục, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống. Đây là đối tượng nhạy cảm nhất đối với mọi sự thay đổi, trong họ luôn có sự lựa chọn giữa yếu tố truyền thống hay hiện đại.
Đã là văn hóa dân tộc có sức mạnh của niềm tự hào, không nên mặc cảm tự ti, xem việc giữ gìn, và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình là nhiệm vụ thiêng liêng và vinh dự của thế hệ mình. Kế hoạch cụ thể, toàn diện và lâu dài cho công tác gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc, muốn được một cách nhất quán, cần phải có sự thảo luận phối hợp giữa các tần lớp dân tộc.

Văn Hóa Tây Bắc

Chân dung văn hóa dân tộc Thái - 2 (Văn Hóa Tây Bắc)

Có những thôi thúc trong việc lưu truyền, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc, hiện nay cần phải hướng đến mục tiêu thực hiện xây dựng, giữ gìn, và phát huy văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc, rút ngắn khoảng cách giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đất nước Việt Nam phải khẳng định ý chí văn hóa dân tộc hiện nay, khi dân tộc sinh tồn tự nó có vị trí trong xã hội. Chỉ cần xây dựng đất nước tự do, dân chủ, công bình, và tương trợ giữa các dân tộc với nhau để tiến lên một đất nước giàu mạnh văn hóa.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một phần quan trọng của quá trình hiện thực hóa tự do, dân chủ, công bình là điểm đứng của chung trong một đất nước. Vì vậy, mọi giải pháp nêu ra đều phải nhằm mục đích rút ngắn khoảng cách chênh lệch về đời sống văn hóa, và dân tộc Thái ở Tây Bắc, điểm đến là tự hòa đồng vào thống nhất dân tộc Việt Nam. 

Công bình xã hội là mục tiêu chống lại luận điểm mị dân, tham nhũng và quan lại. Mặt khác muốn phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa truyền thống và hiện đại, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tôn trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Việc phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nhất thiết phải thực hiện đúng bản sắc dân tộc không thể pha trộn quan điểm cá nhân hay một thế lực nào khác, bởi vì văn hóa dân tộc Thái là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống và cách tân bản sắc văn hóa dân tộc để góp phần vào sự tiên tiến nền văn hóa chung dân tộc Việt Nam, cho mỗi thời gian được đậm đà bản sắc dân tộc. Chính những yếu tố truyền thống là cái được chắt lọc, còn lại tinh tuý và trang bị hiện đại cho hợp với tiến bộ theo trào lưu lao động, sáng tạo nghệ thuật, cho nên cần giữ gìn và phát huy. Do đó, sự phát triển đúng hướng dựa trên cơ sở khoa học làm nền tảng, phát triển không đồng nghĩa thay đổi mà sáng tạo giá trị văn hóa theo bố cục phân tích nghệ thuật chấp nhận được, và đánh giá bằng trình độ. Cho đến nay, truyền thống văn hóa dân tộc còn tồn tại nhờ truyền vào máu của những thế hệ mai sau, mỗi giai đoạn điều phù hợp với phát triển xã hội đó mà yếu tố chúng tôi muốn truyền loan.

Văn Hóa Tây Bắc

Sunday, April 24, 2016

Chân dung văn hóa dân tộc Thái - 1 (Văn Hóa Tây Bắc)

Tính cấp thiết của Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xã hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc "Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân tộc thật sự hình thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn hóa ấy không có sức sống thật sự của nó".

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một vùng rộng lớn, có địa lý chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình. Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa trong đó có thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nư­ớc trong thời kỳ kinh tế thị trường đang đẩy mạnh văn hóa biến động. Trước tình hình đó thì việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Hiện nay những hoạt động giao lưu văn hóa còn mang nặng tính hình thức, phong trào, chưa có chính sách ngôn ngữ phù hợp cho việc giữ gìn tiếng nói và chữ viết cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn coi tiếng Việt là quốc ngữ nên chưa thực sự chú trọng phát triển tiếng nói và chữ viết của đồng bào. Hầu hết các công sở, trường học đều dùng tiếng Việt để giao tiếp, trong khi không phải tất cả mọi người dân đều biết nói, biết viết thông thạo tiếng Việt. Trong lĩnh vực giáo dục, do việc giảng dạy bằng tiếng Việt là chính nên chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc rất thấp. Trong những năm gần đây, tỉnh Sơn La đã có chủ trương triển khai các đề tài khoa học nghiên cứu về chữ Thái, biên soạn giáo trình dạy tiếng Thái, song mới chỉ là bước nghiên cứu và triển khai thử nghiệm, chưa được ứng dụng rộng rãi trên địa bàn toàn tỉnh. Chưa có những biện pháp hữu hiệu để khai thác, bảo quản, giữ gìn và phát huy vốn nghệ thuật dân gian, nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị mai một và có nguy cơ bị mất do các già làng khuyết dần. Các hình thức hoạt động văn hóa, văn nghệ thiếu khoa học trong cách thức tổ chức, dàn dựng tiết mục. Các nhà đạo diễn, dàn dựng chủ yếu là người Kinh, không có hiểu biết nhiều về phong tục tập quán, văn hóa truyền thống, thậm chí nhiều người còn không biết một tí tiếng dân tộc nào. Họ dàn dựng mọi tiết mục theo những mẫu hình mà họ được học ở các trường lớp, mà thực chất là những mẫu hình du nhập từ văn hóa phương Tây. Kết quả là người ta dễ dàng nhận thấy những màu sắc văn hóa có cái gì na ná như nhau giữa nền văn hóa của các tộc người khác nhau. Công tác tuyên truyền giáo dục và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước chưa đáp ứng thực sự cho mục đích văn hóa, phải nó chưa đầy đủ trách nhiệm. Nhiều phong trào còn chưa sát thực với điều kiện thực tế địa phương cho nên chưa phát huy hiệu quả.