Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Ê Đê
Showing posts with label ₪ Dân tộc Ê Đê. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Ê Đê. Show all posts

Wednesday, August 24, 2016

Thổ cẩm Ê Đê (Hoàng Thị Lê)

Một mẫu trang phục của người Ê Đê
Ơ vùng Tây Nguyên trước kia vẫn tồn tại một tập tục truyền thống khá đặc biệt, đó là trong các lễ cưới hỏi, người con gái luôn tự tay dệt các tấm chăn, áo, khố, thổ cẩm để làm quà tặng họ hàng nhà chồng. Có lẽ vì vậy mà đồng bào dân tộc ít người sống trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên hầu như đều biết ít nhiều về nghề dệt thổ cẩm. Nổi bật và được nhiều người biết tới có lẽ phải kể đến thổ cẩm và những hoa văn trang trí trên thổ cẩm Êđê.

Nguyên liệu dệt của người Êđê là cây bông (tiếng Êđê gọi là Blang). Quả bông đem về được bóc vỏ, tách riêng lõi và phơi trên những nong tre lớn. Người ta tách hạt, bật cho bông tơi xốp rồi se lại thành những con bông, từ con bông lại kéo thành sợi thô (tức là sợi chưa qua quy trình nhuộm)
Màu sắc
Trang phục Êđê truyền thống vốn có 5 màu cơ bản: đỏ (hrah), đen (yadu), vàng (cakni), xanh (yapiek) và trắng (kỗ), màu xanh lục có xuất hiện song rất hiếm. Để tạo nên bốn sắc màu chủ đạo: đen, đỏ, vàng, xanh trên tấm thổ cẩm, người phụ nữ Êđê đã tìm nguyên liệu tạo màu từ các loại lá rễ cây rừng.
Từ tháng bảy, họ đã vào rừng hái lá krum già để chuẩn bị thuốc nhuộm. Họ phơi vỏ ốc suối thật khô, nung lên, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum. Sợi nhuộm từ hỗn hợp nước lá – vôi ốc sẽ có màu xanh. Nếu thêm vào hỗn hợp trên nước lá knung giã nhỏ, nấu trong nồi chàm sẽ cho ra chất sợi màu đen bóng mịn, giặt không phai, phơi nắng không bay màu. Màu đen của người Eđê được xem là một trong những màu đen đẹp về sắc và độ bền.
Màu đỏ được tạo từ loại vỏ cây krung già giã ra, nấu lên. Tuy vậy, màu đỏ của người Eđê không tươi mà chỉ đậm hơn màu đất nung một chút. Sản phẩm dệt màu đỏ được coi trọng hơn hết. Những tấm thổ cẩm đỏ rực thường dùng để trang trí trong các lễ hội, những buổi cúng Giàng chứ không được cắt may thành những món đồ gia dụng.
Màu vàng được nhuộm từ củ nghệ. Người ta chọn những củ già, mài nhỏ hoặc cho vào cối giã rồi vắt nước nhuộm. Khi phơi sợi, họ sử dụng một chiếc bàn chải (kruamrai), chải dọc theo cuộn sợi để gỡ sạch các vụn màu, vỏ cây.
Khung dệt của người Eđê là kiểu khung dệt Indonesien, nói một cách đơn giản, là về hình thức dệt vải của người Eđê không khác gì việc đan lát (các nhà dân tộc học gọi đây là kỹ thuật đan luồn sợi).

Thổ cẩm

Đối với việc tạo hoa văn, công việc đòi hỏi người dệt phải nắm bắt ý đồ từ khi mắc sợi. Mỗi loại hoa văn có số sợi dọc, sợi ngang, kỹ thuật nâng và hạ sợi hoàn toàn khác nhau. Thông thường trên một khổ vải rộng 0,9 m, người Eđê tạo những đường diềm nhỏ ở hai đầu biên vải. Phần hoa văn chính tập trung cách biên một chút, rộng khoảng 20 – 30cm và một số đường trang trí nhỏ chạy giữa thân vải.
Nền vải Eđê nhìn chung không sáng và sặc sỡ như vải của các tộc người phía Bắc hoặc người Mnông lân cận. Màu vải hầu như đen hoặc chàm sẫm. Nổi trên nền tối đó là những dải màu tương phản như đỏ, vàng nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm nên sự tương phản mạnh mẽ lại trở nên khá chìm lắng. Trong những bộ trang phục Eđê, màu sậm làm tăng tính trang nghiêm, đứng đắn, còn màu vàng, đỏ lại mạnh mẽ, lôi cuốn sự chú ý. Sự phối màu giữa đỏ - đen, đỏ - chàm sẫm, đen – vàng khiến dải hoa văn tạo nên hiệu ứng sinh động, là điểm nhấn của cả bộ trang phục.
Hoa văn
Dải hoa văn chiếm diện tích từ 1/4  đến 1/3 bề mặt vải, gồm những chuỗi họa tiết, lá cây, con thú được cách điệu dưới dạng hình học chạy dài liên tục suốt chiều dài vải như: hoa văn rau dớn, cối giã gạo… ước tính có khoảng 48 loại hoa văn thường gặp. Ngoài ra còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy nằm song song theo dải hoa văn.

Thổ cẩm

Đỉnh cao của nghệ thuật trang trí  hoa văn trên nền vải Eđê là kỹ thuật kteh. Chỉ những bộ lễ phục Eđê ngày xưa mới sử dụng kỹ thuật thêu tay này để trang trí. Kỹ thuật kteh thể hiện trên một khổ vải hẹp từ 5 - 6cm, gồm hai màu chính là đỏ và trắng – gọi là đêc. Những hoa văn bố trí trên đêc luôn đăng đối hài hòa. Một chuỗi những hạt cườm “ktơr adũ” màu trắng sáng xếp san sát trên phần biên. Đêc được may hoặc kết đè lên phần vải cần trang trí như chân khố, chân váy,…
Hoa văn còn là tiêu chuẩn để đồng bào Eđê phân loại trang phục. Họ gọi tên các bộ váy áo dựa vào loại hình hoa văn. Nam giới có các loại khố kpinteh, kpindrai, kpindruech thêu dệt những dải hoa văn có giá trị, ngoài ra còn có hai loại kpinmlang và kpinbăn trang trí đơn giản. Trên váy áo nữ giới hoa văn tập trung ở gấu váy, gấu áo, đường viền tay. Với váy nữ có 3 loại yêngdí, yêngkdruech piek (váy hoa xanh) và yêng đêc (váy có hoa văn đêc). Đi đôi cùng váy khố là các loại áo nam nữ như ao kor (áo cụt tay), ao đrêc ănk đrai (áo hoa con rồng), ao đêc krưk grự (áo hoa đại bàng dang cánh). Trên mỗi vai áo nữ đính những hàng hoa, kim sa thành dải từ 15 - 25cm. Những điểm nối nách áo, viền váy, viền khố được kết chỉ đỏ trang trí đè lên các điểm nối.
Ngay như về mặt nguyên liệu, mỗi mùa thu hoạch quả blang, người ta chỉ sản xuất ra một khối lượng sợi nhất định. Quy trình nhuộm màu truyền thống mặc dù mang lại hiệu quả bền, đẹp nhưng màu sắc thiếu sự tươi mới, bắt mắt khách hàng. Thế nên, không chỉ riêng thổ cẩm Eđê mà các sản phẩm dệt truyền thống đều có sự cải tiến thay đổi cho phù hợp với thị trường sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, quá trình này đã dẫn tới xu hướng người dệt tự thay dổi hình thức thổ cẩm cho phù hợp với thị hiếu khách hàng và dần dần tự đánh mất bản sắc của chính mình - những đặc điểm riêng có của thổ cẩm Eđê, những quan niệm thẩm mỹ, cá tính sáng tạo của tộc người Eđê.
Hoàng Thị Lê (sưu tầm)

Lạ lùng lễ hỏi chồng của thiếu nữ Ê Đê (Sầm Thị Phong)

Lễ vật đi hỏi chồng của thiếu nữ Ê Đê.

Đến tuổi “cập kê”, các cô gái Ê Đê chủ động đi tìm người bạn đời của mình thông qua những dịp như hiếu hỉ, hội hè. Nếu chàng trai nào lọt vào “mắt xanh” của cô gái thì sau mùa màng cô sẽ thông báo cho bố mẹ để nhờ ông mai dẫn mối tới nhà trai để…dạm hỏi chồng.
Đối với nhiều người chuyện đi hỏi chồng của thiếu nữ Ê Đê trở thành sự lạ. Nhưng với đồng bào dân tộc Ê Đê người có quyền lực cao nhất trong gia đình người là phụ nữ. Họ được quyền chủ động cưới chồng, đàn ông cư trú phía nhà vợ, con cái mang họ mẹ.

Chiếc vòng hôn thú
Nghi lễ cưới xin của người Ê Đê được gọi Yâo Ung Mỗ. Tới nay, nghi lễ này vẫn ảnh hưởng đậm nét của chế độ mẫu hệ.
Lễ cưới truyền thống của đồng bào dân tộc Ê Đê được tiến hành tuần tự theo 4 bước. Đó là Lễ hỏi chồng (Nao huh); Lễ thoả thuận (Knăm); Lễ gọi chồng (Yâo Ung) và lễ lại mặt (Siê Knăm).
Lễ hỏi chồng (Nao huh) là bước đầu tiên trong hôn lễ. Cô gái “ưng cái bụng” chàng trai nào thì nhờ người mối đưa chiếc vòng. Chất liệu chiếc vòng tùy thuộc vào hoàn cảnh của gia đình cô gái để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai. Chiếc vòng của người Ê Đê không khác gì cơi trầu sang dạm ngõ nhà gái của người Kinh. Chàng trai đó đồng ý thì nhà gái sang nhà trai tổ chức lễ trao vòng.
Trao vòng cầu hôn trong nghi lễ hỏi chồng là bắt buộc, quan trọng nhất của các cô gái khi làm đám cưới. Cô gái và chàng trai cùng chạm tay vào chiếc vòng đồng. Đó coi như lời giao ước hôn thú, có sự chứng giám của thần linh, có sự công nhận của cộng đồng, và sự thống nhất của cặp uyên ương. Từ sau lễ trao vòng, hai gia đình đã chính thức kết mối thông gia.

Cô gái Ê Đê đi hỏi chồng.

Sau đó, mỗi gia đình cử ra một người đỡ đầu của gia đình mình, còn gọi là Miết Ava. Từ đây Miết Ava không chỉ thay mặt gia đình, giúp đôi trẻ trong mọi nghi lễ để thành vợ thành chồng mà trong suốt cuộc đời còn lại sau này, ông luôn đóng vai trò như cha mẹ, khuyên răn chú rể, cô dâu và dàn hoà mọi bất hoà giữa hai gia đình.

Cũng tại lễ trao vòng, nhà trai thoả thuận vật thách cưới, thời gian rước rể và trao cho bên nhà gái chiếc vòng để làm tin cho việc đính ước. Nhà trai cũng tổ chức bữa cơm rượu mời bên nhà gái.Trường hợp chàng trai không đồng ý thì lễ hỏi phải dừng lại, chờ đến khi sợi tơ hồng cuốn chặt.

Cô gái Ê Đê đến nhà chàng trai để trao vòng.

Tục gửi dâu…
Trước khi lễ cưới chính thức diễn ra, hai họ thực hiện thủ tục “gửi dâu” (K’năm). Đại diện nhà gái (Pô eemuh) dẫn cháu gái đến ở nhà chồng chưa cưới theo thoả thuận giữa hai bên. Lễ vật “gửi dâu” gồm có: một con gà, một nắm xôi và một ché rượu để làm lễ K’năm. Lúc này nhà trai đưa ra vật thách cưới: một con heo, 7 ché rượu, của hồi môn là 2 con trâu, 3-5 con bò, hàng chục ché rượu, voi…

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hường, Nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đăk Lắk, điểm độc đáo trong nghi lễ hỏi chồng của người Ê Đê đó là tục gửi dâu. Tức là thử thách người con gái đó xem có chăm chỉ làm ăn hay không, có biết lo toan việc nương rẫy, dệt vải, nấu rượu cần không thì mới cho cưới chàng rể. Đây là điều mang tính giáo dục sâu sắc đối với các cô dâu, nhất là lứa tuổi 8x, 9x...

Lễ rước rể trong đám cưới của người Ê Đê.

Trong ngày rước rể (Tuhan), nhà trai làm lễ tiễn con bằng một ché rượu, một con heo, sau đó nhà gái tổ chức rước chàng rể về nhà mình. Để rước rể, nhà gái làm lễ cúng cho cha mẹ chàng rể và các thành viên trong gia đình. Cụ thể, cúng cho cha một con heo; cúng cho mẹ một con trâu, 8 chiếc vòng tay tượng trưng cho sự ràng buộc gửi gắm, một chiếc bát đồng tượng trưng cho nồi cơm và bầu sữa mẹ, một tấm mền tượng trưng cho sự ấm cúng gia đình.

Già làng bên ché rượu cần mừng hạnh phúc đôi trẻ.

Cũng trên đường về nhà, đoàn rước rể phía nhà gái lần lượt trao vòng đồng cho chú rể thay cho lời chúc tụng. Khi đám rước về đến cổng nhà gái, một đại diện nhà trai chặn lại, việc này thể hiện sự níu kéo, lưu luyến giữa gia đình nhà trai với chú rể. Lúc này nhà gái phải trao cho người đó một vòng đồng mới được đi tiếp. Trên đường về nhà gái, các thanh niên trai gái té nước vào người chú rể để lấy may mắn, hạnh phúc bền lâu.

Lễ té nước với mong muốn sinh nhiều con gái, vợ chồng yêu quý nhau, mùa màng thóc lúa đầy bồ, thóc gạo đầy kho, heo gà đầy chuồng...

Cũng theo bà Hường, lễ hỏi chồng của người Ê đê là nét văn hóa truyền thống theo chế độ Mẫu hệ nhưng trong nghi lễ cũng đảm bảo được luật pháp trong đó. Lễ rước rể mang nét văn hóa tâm linh vừa và văn hóa cộng đồng với nhiều hoạt động như hát múa hò reo. Đặc biệt lễ té nước với mong muốn sinh nhiều con gái, vợ chồng yêu quý nhau, mùa màng thóc lúa đầy bồ, thóc gạo đầy kho, heo gà đầy chuồng....
Nghi lễ hỏi chồng đã có nhiều chuyển biến. Nếu như trước đây, những lễ vật thách cưới có giá rất cao như cha thì cần có con trâu, mẹ là 3 con heo rồi gù lúa, ché tang ché túc thì nay đã được tinh giảm đi rất nhiều.

Dân ca, dân vũ là điều không thể thiếu trong lễ cưới của người Ê Đê.

Cô dâu dưới 18 tuổi không được đi hỏi chồng, dù có hỏi rồi cũng không được làm lễ cưới. Đặc biệt, cán bộ văn hóa xã vận động trai gái trong làng thực hiện luật hôn nhân và gia đình.
Trong lễ cưới của người Ê Đê, âm nhạc là thứ không thể thiếu được, bên nhà Rông, bên ché rượu cần các chàng trai cô gái của Tây Nguyêncất cao tiếng hát cùng nhau nhảy múa để mừng cho hạnh phúc của đôi trẻ.

 Sầm Thị Phong (sưu tầm)

Lễ khôn lớn của người Ê Đê (Trần Đoài)

Trong vòng đời của người Ê Đê, từ cậu bé trở thành chàng trai, thành người đàn ông biết gánh vác mọi công việc của buôn làng, nhất định phải thực hiện một lễ thức trọng đại, đó là Lễ khôn lớn hay Lễ trưởng thành, tiếng Ê Đê gọi là lễ MPú.

Lễ bắt đầu bằng nghi thức rửa mặt của chàng trai ngoài bến nước của buôn làng. Từ sáng sớm, chàng trai được làm Lễ khôn lớn lặng lẽ đi ra bến nước trong bộ lễ phục truyền thống. Tới bến nước, anh ta cởi áo, cởi khăn, bắt đầu gội đầu, rửa mặt. Bà con buôn làng chứng kiến từng cử chỉ một cách trân trọng.
Tắm gội xong, chàng trai hứng đầy bầu nước trong mát về cúng Giàng (Trời).
Trong nhà, cỗ bàn đã sắp sẵn. Thủ heo bày ở giữa, một dải thịt dài cuốn vòng cây cột buộc ché rượu cần. Người được làm Lễ khôn lớn tay cầm kiếm sắc bước tới cầu thang lên nhà sàn. Hai bên cầu thang trồng hai cây chuối. Sau khi vung kiếm chém đứt cây chuối, tượng trưng cho hình ảnh hạ gục kẻ thù anh ta bước lên cầu thang, bà mẹ của anh ta đứng chờ ở sàn hỏi: “Chào con trai của mẹ, con từ đâu trở về? Có phải con đi đánh giặc ác phía Đông, chém hổ dữ phía Tây, trở về?”. Anh ta đáp lời: “Thưa mẹ, đúng vậy! Con đã cầm rìu vào rừng. Nay cây lớn đã đổ, cây nhỏ đã ngã. Con cầm kiếm đi trừ kẻ ác. Nay thằng giặc phía Đông đã bị giết, con hổ phía Tây đã được trừ. Con đã làm xong mọi việc buôn làng trao cho. Con đã xứng đáng làm một người đàn ông Ê Đê của buôn làng ta”.
Dứt lời, chàng trai bước vào nhà, kiếm dựng bên vách mặt trời mọc, rồi anh ta đến ngồi đối mặt với thầy cùng. Gian khách trên nhà sàn đã dựng sẵn 7 cây cột rượu theo hàng dọc, thầy cúng ngồi trước ché rượu cần đầu tiên, mặt hướng về phương mặt trời mọc. Giàn chiêng nổi lên náo nức, dồn dập báo hiệu cuộc lễ bắt đầu. Thầy cúng khấn:
- Ơ Giàng bên Đông! Ơ Giàng bên Tây! Ơ thần linh, thần tốt! Chàng trai này đã ở chòi, chòi yên. Đã ở nhà, nhà tốt. Anh ta đã biết đốt rẫy trồng lúa. Trồng chuối, chuối sai. Trồng mía, mía ngọt. Anh ta đã lớn khôn. Nay nhờ thần phù hộ, giúp cho anh ta có hơi thở mới. Có nguồn sức lực mới. Có bắp thịt bền như gang, dẻo như đồng, cứng như sắt. Nhờ thần linh giúp anh ta luôn khoẻ mạnh, bình yên.
- Thay mặt thần linh, thầy cúng trao cho anh chiếc khiên và thanh kiếm. Các cô gái ra sức té nước vào người anh, thay cho những lời chúc phút tốt đẹp nhất.
Nửa đêm, đuốc rực rỡ gian nhà. Cuộc lễ sang phần hai. Anh ngồi trước thầy cúng. Trang phục của anh như sẵn sàng cuộc đi xa. Thầy cúng khấn cầu phúc cho anh gặp nhiều may mắn. Các cô gái đem bầu nước hứng từ bến nước đổ đầy tất cả các ché rượu cần. Lúc ấy, già làng bắt đầu kể khan-trường ca của dân tộc Ê Đê.
Khi mặt trời mọc buổi lễ mới kết thúc.
 Trần Đoài (sưu tầm)

Ghế K’pan - biểu tượng sung túc của dân tộc Êđê (Tuấn Anh)

Đối với các gia đình Êđê, ngoài các bộ cồng chiêng, ché rượu… thì ghế K’pan cũng là một vật thiêng thể hiện sự sung túc giàu có của mỗi gia đình.
Để làm được một chiếc K’pan cần phải có sự giúp sức của cả buôn làng, chứ một gia đình khó lòng làm nổi, vì thế K’pan cũng có thể xem là biểu tượng thể hiện tinh thần đoàn kết giữa các gia đình trong cộng đồng buôn làng dân tộc Êđê.
K’pan là một chiếc ghế độc mộc, bằng gỗ nguyên khối dài khoảng 15m, rộng từ 65 đến 85cm, với độ dày 7-8cm kê cao 45-50cm , hơi cong ở hai đầu tạo nên dáng vẻ vững chắc, mạnh mẽ.

Gỗ để làm K’pan phải chọn loại cây rừng lâu năm, cao, to, thẳng, gỗ tốt.

Một hộ không thể làm nổi K’pan mà cần hợp sức của buôn làng lại trong thời gian cả tuần mới có thể hoàn thành.

Người chủ không chỉ phải lo đủ trâu, lợn, gà, rượu, gạo phục vụ cho bà con trong những ngày làm K’pan, mà theo tục lệ còn phải là người đã tổ chức được các lễ hiến sinh, cầu sức khỏe có nhiều cuộc khoản đãi cộng đồng và có nhiều chiêng ché.

Theo già làng Ama H’Rin, buôn Akô Dhông cho biết : “Gia đình nào muốn được cộng đồng ủng hộ cho tổ chức lễ hội làm K’pan thì gia đình đó phải có kinh tế khá giả, có tấm lòng hào hiệp, hay giúp đỡ những người xung quanh”.

Đối với các gia đình Êđê, K’pan tượng trưng cho sự giàu có của gia đình và là niềm tự hào của cả buôn làng. Vì thế, làm K’pan được xem là sự kiện của cả cộng đồng.

Chiếc K'pan của gia đình Ay H'Nguôn ở buôn Akô Dhông (phường Tân Lợi, TP. Buôn Ma Thuột).
 
Ông Ay H’Nguôn một người lớn tuổi ở buôn Akô Dhông tâm sự: “Không phải nhà nào cũng làm được K’pan, thường trong buôn chỉ có 1 đến 2 gia đình làm được, còn buôn nào có nhiều người giàu thì cũng chỉ có thêm 3 đến 4 nhà mà thôi”.

Do đồng bào Êđê theo chế độ mẫu hệ nên việc tìm chặt cây phải được bàn định trước với gia đình bên vợ và cây rừng để làm K’pan phải được người phụ nữ có tiếng nói trong gia đình lựa chọn. Đó là một cây gỗ cổ thụ, cao, to, thẳng, đã được thần linh chứng giám cho phép chặt từ rừng thiêng.

Trước khi muốn chặt cây lớn mang về làm K’pan thì chủ nhà phải lấy một mảnh nhỏ vỏ cây mang về cúng thần.

Để tránh mọi điều xui xẻo và mang lại nhiều may mắn cho gia chủ K’pan, khi đi chặt cây gỗ lớn nhà chủ và thầy cúng phải chọn ngày đẹp trời, trong buôn không có đám tang.

Dẫn đầu đoàn vào rừng chặt gỗ là người lớn tuổi trong nhà cùng thầy cúng, tiếp đó là 7 người con trai khỏe mạnh mang theo dao, búa, rìu. Đi cuối là dân làng và người nhà mang lương thực phục vụ.

Đến chỗ cây lớn đã định, thầy cúng và chủ nhà phải chọn chiều cây đổ dọc theo dòng nước chảy rồi mới cho bổ rìu. Chủ nhà là người bổ nhát rìu đầu tiên rồi sau đó mới đến mọi người.

Cây ngả xuống, người ta chặt sạch cành lá, chủ nhà và thầy cúng đi lên thân cây 7 lần để đuổi tà ma, rồi những người thợ mới được dùng rìu đẽo cây thành chiếc K’pan có hình chiếc thuyền với những đường nét khỏe khoắn.

Sau khi thầy cúng cầm rìu bổ nhẹ vào K’pan theo tục lệ, mấy chục trai tráng trong buôn cùng khênh K’pan về buôn, còn những thanh niên nam nữ khác vừa đi theo múa hát, gõ chiêng.

Đến đầu buôn, đám rước đặt K’pan xuống cho thầy cúng phủ vải đỏ lên rồi mới đưa về, đặt ở vườn sau của chủ nhà.

Các ngày sau đó, những người thợ khéo tay nhất buôn sẽ chạm khắc những hoa văn có tính biểu tượng truyền thống Êđê lên chiếc K’pan và họ được chủ nhà nuôi cơm rượu.

Khi chiếc K’pan chính thức hoàn thành, mọi người trong buôn tập trung đưa ra cửa trước, đặt một đầu lên sàn nhà. Người chủ ăn mặc đẹp, cầm lấy khiên, kiếm đã được bày sẵn trên chiếu, đi lại 7 lần trên K’pan để xua đuổi điều xấu và không may mắn rồi đặt tên cho K’pan như một sự thông báo chính thức mình là chủ của K’pan.

Lúc này, thầy cúng làm lễ khấn báo thần linh rằng, K’pan đã có chủ và cho khiêng vào gian khách, đặt dọc vách phía tây nhà và khi ấy lễ cầu Yang mới chính thức diễn ra.

Lễ cúng K’pan gồm 1 trâu và 7 ché rượu được buộc vào 7 chiếc cột. Ché to nhất buộc ở cột ngoài cùng, thân cột bôi huyết trâu thành 7 khúc.

Thầy cúng ngồi ở đầu K’pan, cầm chiếc que dài nhúng vào bát đồng đựng tiết lợn pha rượu và bôi dọc theo K’pan để yểm giữ tài sản cho gia chủ.

Khi việc cúng Yang kết thúc cũng là lúc bà con buôn làng ăn mừng cùng chủ K’pan.

Theo quan niệm cổ xưa, gia đình nào làm được K’pan, chủ nhà nghỉ 2 ngày không đi làm nhưng đến ngày thứ ba mở một ché rượu ngon mời người thân tới uống mừng sự hoàn thành tốt đẹp của K’pan.

Ngày nay, họ không thực hiện nhiều thủ tục kiêng kị như trước, nhưng những bữa liên hoan chúc mừng vẫn diễn ra suốt đêm...

Còn gì thích thú hơn sau những buổi lên nương rẫy trồng lúa, trồng bắp mệt nhọc, tối về bên bếp lửa bập bùng giữa gian nhà dài. Trên chiếc K’pan, mọi người trong gia đình, dòng họ cùng quây quần tấu lên những giai điệu cồng chiêng quen thuộc để tỏ lòng cùng với thần linh, buôn làng, giải trừ các ưu tư, lo lắng trong cuộc sống, cầu cho cái chân khỏe mạnh để lên rẫy trồng thật nhiều lúa, bắp, bẫy được con thú…

K’pan còn là nơi để người đàn ông ngả lưng nghỉ ngơi mỗi khi đi làm rẫy về và chờ vợ con dọn bữa cơm chiều kết thúc một ngày làm việc vất vả.
Tuấn Anh (sưu tầm)

Dân ca dân nhạc Dân tộc Ê Đê (Đàm Minh Phượng)

 Dân tộc Ê Đê có tên tự gọi: Anăk Ê Ðê. Các tên gọi khác: Ra Ðê (hay Rhađê), Ê Đê Êgar, Ðê. Các nhóm địa Phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Ngôn ngữ Ê Đê được ký âm bằng chữ Latinh.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ê Đê ở Việt Nam có dân số 331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ê Đê cư trú tập trung tại tỉnh: Đắc Lắc (298.534 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và 90,1% tổng số người Ê Đê tại Việt Nam), Phú Yên (20.905 người), Đắc Nông (5.271 người), Khánh Hòa (3.396 người).

Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông.

Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi sự màu mỡ. Ngày nay người Êđê gắn mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao,.. Ngoài nghề trồng trọt người Ê Đê chăn nuôi trâu, bò, voi, và còn tự làm ra được đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm.
Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.

Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan – tới 20 m), chiếng ché,… nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là “trên” chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hành lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp.

Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.

Trang phục của người Ê Đê có đầy đủ các thành phần, chủng loại và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo, để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố. Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật.

Yang Prong hay Yang Êa H'leo trong bia kí Champa là Ya Hliêv, là tháp Chăm duy nhất ở Tây Nguyên. Ngôi tháp được xây dựng dưới Triều Đại Jaya Simhavarman III tức Chế Mân (R'čăm Mâl hay Êčăm mâl), ngôi tháp được xây dựng để dâng cúng Thần Vĩ Đại của người Orang Đê cổ, trong thời kỳ kháng chiến chống Mông- Nguyên cuối thế kỷ XIII.

Yang Prong hay Yang Êa H’leo trong bia kí Champa là Ya Hliêv, là tháp Chăm duy nhất ở Tây Nguyên. Ngôi tháp được xây dựng dưới Triều Đại Jaya Simhavarman III tức Chế Mân (R’čăm Mâl hay Êčăm mâl), ngôi tháp được xây dựng để dâng cúng Thần Vĩ Đại của người Orang Đê cổ, trong thời kỳ kháng chiến chống Mông- Nguyên cuối thế kỷ XIII.
Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.

Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng khá phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các trường ca, sử thi Khan. Nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M’lan…

Sử Thi Ê Đê còn có các bài:
– Dăm San
– Khing Ju
– Mdrong Dăm
– Ama H’Wứ
– Anh em Dăm Trao, Dăm Rao
– Anh em Klu, Kla
– Chàng Dăm Tiông
– Hbia Mlin
– Sum Blum
– Xing Nhã

Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ của họ gồm có: Cồng chiêng, Trống, Sáo, Đàn, Khèn, Gôc, Kni, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Ê Đê và được nhiều người yêu thích.

CÙNG MÚA VUI (Dân ca Ê Đê)
Cùng múa vui đêm nay tưng bừng
Cùng múa vui liên hoan tưng bừng
Bước đều chân, tay đưa theo nhịp nhàng
Tiếng chiêng trống đánh vang buông làng
Ca toong loong tung, ca toong loong tung.


Dưới đây mình có các bài:
– Dân tộc Ê Đê
– Đôi điều về Cồng Chiêng Ê Đê
– Các nhạc cụ của người Ê Đê
– Các nghi lễ, lễ hội vòng đời người
– Nhà dài truyền thống của người Êđê, Đắk Lắk
– Trang phục dân tộc Nam Êđê
– Trang phục Nữ dân tộc Êđê

Dân tộc Ê Đê (trích)
Dân ca Ê đê có hai làn điệu chủ yếu là mmuinh và kưt kdjâ, cách gieo vần tương tựu trong khan, ca dao, tục ngữ. Giống như ở các dân tộc anh em, dân ca ê đê dặt câu đối xứng, đúng phương pháp tượng hình và so sánh để làm đẹp câu ca, có sức hút . Hát dân gian Ê đê gồm những bài ca nghi lễ trong chu kỳ một năm và một đời người. Những bài ca nói lên lòng yêu quê hương xứ sở, khát vọng tự do và sau này, có những bài ca mang nội dung cách mạng chứa đựng tình yêu đất nước.
Nghệ thuật múa
Múa chim Grứ:
Múa Chim Grứ (chim đại bàng) là một trong những điệu múa phổ biến trong các lễ hội lớn hay trong nghi lễ cúng Yàng, cầu khấn các thần linh mà người Êđê coi là thần hộ mệnh cho con người. Đặc biệt trong lễ bỏ mả (lui msát), thông qua động tác múa thể hiện lời chào từ biệt của người còn sống đối với người đã đi về cõi ông bà tổ tiên.
Người ÊĐê quan niệm rằng chim Grứ là biểu hiện cho sức mạnh dồi dào, chỉ có chim Grứ mới có thể bay cao nhất trong các loài chim. Nên động tác múa chim Grứ hoàn toàn mô phỏng theo cánh chim đang bay lượn. Ngoài ra, Chim Grứ còn thể hiện quan niệm tâm linh của người Êđê rằng : những người đã qua đời chỉ là chết về thể xác, còn linh hồn của họ vẫn quanh quẩn đâu đó. Có lúc thì vô hình, có khi lại hiện hữu, thông qua hình dạng những con vật như con đại bàng,con bướm hay con nhện mà sau bảy lần biến hình, sẽ lại được đầu thai trở lại làm người.….Tuy nhiên, hình ảnh con chim đại bàng được người ÊĐê tin là linh thiêng nhất, nên chim Grứ thể hiện mối quan hệ giao thoa giữa người sống với linh hồn những người đã chết.

Các cô gái Ê đê uyển chuyển, dịu dàng, phỏng theo điệu múa của chim Grứ mời gọi thần linh về chứng kiến, phù hộ cho những người tham gia buổi lễ…

Chim Grứ được coi như là phương tiện đưa linh hồn người chết về thế giới của tổ tiên; đồng thời cũng là hình ảnh thể hiện linh hồn của ông bà tổ tiên đến thăm con cháu trong những ngày có lễ hội và bảo vệ những người đang sống. Vì thế, khi múa người ta đưa tay lên, làm thế nào để người xem tưởng tượng ra như cái đầu , hoặc đôi cánh của chim đại bàng đang bay lượn trên bầu trời.Cũng như mời gọi các vị thần linh, các linh hồn của người đã khuất, về tham gia lễ hội cùng với buôn làng, với gia đình.

Múa chim Grứ có hai hình thức thể hiện cơ bản: Một là chỉ dùng tay biểu diễn, sử dụng sự uyển chuyển của cổ tay, đưa đẩy, chuyển động cả cánh tay tùy tình huống, ý nghĩa của việc lễ hội. Tùy theo lễ hội mà người biểu diễn múa đưa tay lên bao nhiêu lần. Chẳng hạn, trong lễ cúng cột nêu (mđi Gơng Drai), nếu cúng ba cột nêu, thì những người múa làm động tác xoè tay sát dọc theo hai bên thân hình đưa lên đưa xuống ba lần, giống như con đại bàng ba lần vỗ cánh trước khi bay. Nếu cũng 5 ché, phải đưa lên xuống 5 lần. Hai là tay giơ cao quá đầu,chân nhón lên bước nhẹ nhàng lướt qua trước ghế Kpan(lễ cúng rước kpan) và sau ché rượu (trong lễ cúng chúc phúc).

Động tác múa là sự kết hợp giữa đôi tay và đôi chân để luôn tạo ra sự mềm mại, uyển chuyển. Các nghệ nhân có thể biểu diễn điệu múa sao cho phù hợp với tính chất của lễ hội.Những nghệ nhân múa say sưa lúc thì tay đưa lên cao, lúc thì giang ngang,xòe ra uyển chuyển. Ba ngón tay giữa gập xuống, hai ngón út và ngón cái vẫn giữ nguyên vị trí, cổ tay chuyển động theo sự di chuyển của bàn chân và thân hình, tưởng tượng lúc như đôi cánh của con chim Grứ(đại bàng) đang vỗ dập dìu lao vút lên trên bầu trời xanh thăm thẳm của cao nguyên; lúc như chiếc đầu chim đang xoay sang trái, sang phải đưa cặp mắt sáng quắc quét qua toàn bộ khung cảnh xung quanh.


Tháp Pô Reme tại Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận thờ Vua Pô Remê và hoàng Hậu Drah Jan người Ê Đê.

Điệu múa chim Grứ còn được sử dụng trong lễ cúng rước Kpan. Khi ghế kpan được đưa lên nhà sàn hòa trong âm thanh vang rộn của trống, của chiêng ngân vang, các nghệ nhân múa chim Grứ bắt đầu biểu diễn với tiết tấu nhanh, chậm theo nhịp chiêng, có lúc như thác đổ giục dã, vui nhộn, có lúc uyển chuyển nhẹ nhàng bay bổng. Người Êđê tin rằng đó là lúc các nghệ nhân thay lời gia chủ hoặc buôn làng, chuyển lời khẩn cầu được phù hộ hoặc mời gọi đến các vị thần và linh hồn tổ tiên. Đến khi tiếng trống tạm dừng, tiếng chiêng dần dần giảm nhẹ âm lượng và ngừng hẳn thì các cô gái cũng đã múa xong.

Điệu múa chim Grứ của người Êđê luôn hòa quyện với âm thanh dồn dập rộn ràng của dàn ching knah, làm cho lễ hội thêm sôi nổi và lễ cúng càng thêm trang trọng.

Người múa trước đây thường là những người đàn bà lớn tuổi,trang trọng. Sau này đội hình múa dần dần được trẻ hóa, là những cô gái xinh đẹp, thân hình thon thả, đầy sức sống. Và, đặc biệt điệu múa Grứ chỉ được múa với đội hình số lẻ 3, 5, 7, hoặc 9 người.

Múa Khiêl:
Điệu múa Khiêl của người Ê-đê, một hình thức múa võ có lịch sử lâu đời và tồn tại đến ngày nay. Người múa mặc trang phục khá đặc trưng, đầu quấn khăn đỏ, thả hai đuôi khăn về phía trước trán, mặc áo hở ngực, đóng khố kơtel, tay trái cầm Khiêl, tay phải cầm gươm, nhảy múa với động tác mạnh mẽ đầy uy lực, nhưng phải phối hợp với âm nhạc lúc trầm, bổng, lên cao. Múa khiêl thường múa thành từng cặp, từng nhóm. Vì vậy, người múa phải có sự phối hợp hài hoà và chính xác để tránh những va chạm tai nạn. Điệu múa này thường được sử dụng trong các nghi lễ như đâm trâu, bỏ mả.

Đàn K'ni của dân tộc Ê Đê và dân tộc Gia Rai.

Nhạc cụ:
Hát dân gian thường gắn liền với việc sử dụng nhạc cụ cổ truyền.


Thân đàn là một khúc nứa, tre hoặc gỗ tròn nhỏ, không có bầu cộng hưởng. Trên thân có gắn phím bấm. Dây đàn được mắc dọc theo thân đàn. Cung kéo chỉ là một đoạn tre nhỏ hoặc một thanh tre khi diễn tấu người ta cọ phần cật vào dây. Âm lượng nhỏ và với đặc tính như trên, k’ni chủ yếu là nhạc khí để bộc lộ tâm sự, tình cảm của các chàng trai với các cô gái vào những lúc thanh vắng tĩnh mịch. Đôi khi người Ê-đê cũng dùng k’ni để đệm cho hát khóc trong lễ tang

Ống sáo trúc: người Ê đê gọi là Đing, bao gồm:
A. Đing Năm: (5 theo tiếng Ê đê là 6) gồm 6 ống nứa dài ngắn khác nhau được xếp thành hai bè. Tất cả đều được cắm một đầu vào trái bầu khô. Trên lưng mỗi ống được khoét một lỗ ở những vị trí khác nhau để tạo thành nhạc. Tên và cao độ của mỗi ống dựa theo tên và cao độ của các chiêng Knah.

Hình thức diễn tấu: người biểu diễn ngồi hoặc đứng hoặc vừa đi vừa thổi. Khi thổi để Đinh Năm ngang ngực, đầu các ống hơi hướng lên trên, miệng ngậm vào đầu núm bầu, tay phải đỡ dưới hàng ống trên, ngón cái đặt vào lỗ của ống thứ nhất ở bên cạnh, ngón trỏ và ngón giữa đặt vào 2 lỗ của ống thứ 2 và 3, 2 ngón còn lại có chức năng nâng và giữ. Tay phải đỡ hàng ống dưới, các ngón như tay trái.

Thưởng thức tiếng khèn Đing Tak Tar (Đinh Tắt Tà), câu hát truyền thống của bà con dân tộc Ê Đê.

B. Đing Tak Tar: Nhạc cụ này gồm một ống nứa có ba lỗ, được cắm một đầu vào trái bầu khô.
Khi biểu diễn, người biểu diễn ngồi hoặc đứng, đặt Đinh Tak Tar ngang ngực, phần ống nằm ngang người. Ngón trỏ và ngón giữa tay phải kẹp vào phần ống nứa phía sau, ngón cái bịt đầu ống.Tay trái nắm phần ống dài phía trước, ngón cái bịt lỗ bên cạnh phải, ngón trỏ, ngón giữa đặt lên 2 lỗ nằm phía trên.
Ngoài ra còn có các loại đinh như: Đing buốt chốc, Đing ring, Đing téc.
C. Đinh Buôt Kliă: là cây sáo dọc, làm bằng ống nứa, có 4 lỗ bấm và mỗi lỗ là 1 nốt.
Hình thức diễn tấu: người biểu diễn ngồi hoặc đứng, cây sáo để dọc, phần đuôi hơi hướng ra ngoài, miệng ngậm vào đầu thổi. tay phải ở trên, tay trái ở dưới, ngón cái đặt phía sau, ngón trỏ và ngón áp út đặt lên các lỗ bấm. Ngón giữa có nhiệm vụ giữ ống.

Tù Và dân tộc Ê Đê.

Ki Pah: Là chiếc tù bằng sừng trâu (ki là sừng, pá là vỗ). Một đầu sừng rỗng, đầu nhọn cưa đi để thành 1 khe hẹp, ở giữa gần phần đầu nhỏ có nhô lên 1 cuôp (lưỡi gà) hình chữ nhật gắn kín bằng sáp ong làm núm ngậm vào để thổi. Khi thổi người ta dùng lòng bàn tay vỗ vào miệng tù và để tạo nên âm thanh vang xa.
Hình thức diễn tấu: đặt nằm ngang, tay trái nắm thân chiếc tù bằng 4 ngón tay, ngón cái bịt đầu ống nhỏ để thay đổi cao độ, âm thanh. Miệng ngậm vào cuoop, dùng hơi thổi.

Nhạc cụ bằng dây, như:
Brố: Gồm một nửa quả bầu khô có đường kính từ 14 – 20 cm, phần núm được gắn với một cần đàn dài từ 1,2m – 1,4m (bằng gỗ). Có hai tay bằng tre để mắc dây và lên dây. Trên cần đàn có năm phím bấm lam bằng bông gòn trộn với sáp ông đen, mỗi phím cách nhau từ 5 – 6 cm.

Cồng chiêng Ê Đê

Cồng chiêng:
Phổ biến và được đồng bào yêu thích là bộ nhạc khí bằng đồng, cồng (Knah) và chiêng (ching). Bộ cồng cỡ nhỏ không núm gồm 6 chiếc, từ nhỏ đến lớn bỏ lọt vào nhau đánh bằng dùi gỗ. Mỗi cái đều có tên riêng và chức năng riêng theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là:
1) Knah
2) Lhiang (còn gọi là ana lhiang)
3) Mdu Khơk (còn gọi là Knak Khơk)
4) Hluê Khơk (còn gọi là mong)
5) Hluê lhiang
6) Hluê khơk diêt (còn gọi là k’khiêk)

Chiêng thì có núm, lớn hơn knah và gồm 3 chiếc to nhỏ khác nhau, đứng đầu là ana, thứ đến là mdu, sau nữa là mong. Người cử nhạc dùng dùi gỗ có bọc vải đánh vào mặt núm. Bên cạnh đó, còn có char là cái lớn nhất không có núm, dùng để cầm nhịp. Dàn nhạc Ê đê còn có trống cái, hgơr đi kèm, đồng thời đóng vai trò mở đầu và kết thúc một bản hoà tấu.

Hình thức diễn tấu: thường diễn tấu trong nhà dài, ngồi trên ghế Kơ pan (K’pan) quay mặt về hướng Đông, cồng và chiêng để hơi chếch trên đùi. Tay phải cầm rùi, đánh vào mặt của chiêng và cồng, tay trái xòe ra, áp vào mặt ngoài (mặt phẳng). Khi diễn tấu, tay trái mở ra hoặc áp vào hoặc gõ các ngón tay trên mặt phẳng phía sau. Riêng Mđụ đặt nằm xuống ghế, dưới kê vải hoặc 1 lớp bao bố để ngăn bớt độ vang.

Ngoài ra, người Ê đê còn có một loại chiêng là chiêng ống (ching Kôk): gồm 7 ống lồ ô to bằng cổ tay, 1 đầu bịt bằng các mắt ống, 1 đầu rỗng. sáu ống được cắt vát khoảng 1 nửa ống ở đầu rỗng, 1 ống để nguyên. Khi diễn tấu, cầm lỏng tay theo chiều thẳng đứng (phần đầu ống bịt ở phía trên) bằng các ngón của tay trái ở đầu nguyên, không bị vát, cách đầu ống khoảng 5-7 cm. Tay phải cầm rùi tre hoặc gỗ, 1 đầu rùi được bịt vải, hoặc cao su.

Chinh Kram (chiêng tre) – người tập đánh chiêng thường bắt đầu từ bộ chiêng này. Người Ê Đê thường ngồi khi đánh chiêng. Trong nhà sàn, ghế dài (kpan) dựng sát vách là chỗ ngồi của đội chiêng. (ảnh Báo Đắc Lắc.)

Chiêng tre
Bộ Cing kram (chiêng tre) thường có từ 5 – 9 chiếc, đôi khi cũng tăng lên gần 20 chiếc. Cũng giống như dàn chiêng bằng đồng, mỗi dàn chiêng tre là một hợp xướng âm thanh, tương ứng với dàn Chiêng đồng.

Hình thức diễn tấu: mỗi nghệ nhân đặt ngang thanh tre trên đùi, dùng rùi gõ vào mặt hơi cong lên (mặt cật) của thanh tre. Nếu có cộng hưởng sẽ kẹp giữa 2 bắp chân của nghệ nhân, phía dưới thanh tre. Khi diễn tấu, nghệ nhân cầm lỏng thanh tre bằng ngón cái hoặc ngón trỏ.

Chọn rồi, cây tre được đưa về phơi khô chừng hai tháng, không để nứt nẻ, sau đó tùy vào đường kính của ống tre mà cắt theo kích cỡ dài, ngắn khác nhau, để tạo âm thanh trầm, bổng, du dương… (thông thường, dài từ 30 – 45 cm, đường kính từ 8 – 10 cm). Khó nhất là quá trình thẩm âm của chiêng tre.

Mỗi cặp chiêng (ống tre và thanh tre) phải có một loại âm thanh, giai điệu tương ứng với một lá chiêng đồng. Chính vì thế, bộ chiêng tre cũng được cấu tạo các kích cỡ, âm thanh khác nhau, có hệ thống như bộ chiêng đồng với biên chế tương ứng. Và các nghệ nhân để sử dụng và diễn tấu được cồng chiêng bằng đồng, trước đó đều phải sử dụng thuần thục chiêng tre.

Trải qua năm tháng, do thời tiết thay đổi, âm thanh của từng chiếc chiêng tre cũng bị thay đổi theo, bị lạc “giọng”. Người chỉnh chiêng tre phải vừa có đôi tai thẩm âm kỳ tài, vừa có bàn tay khéo léo, bởi đồ nghề để chỉnh chiêng tre không phải búa, đe… như chỉnh chiêng đồng, mà chủ yếu là dùng cưa tay, dao lát cắt, gọt bớt miệng ống tre… làm cho âm thanh của nó cao hơn hoặc thấp hơn, tiếng chiêng tròn, vang hơn, đúng với chức năng của nó trong dàn chiêng.

Cồng chiêng Ê Đê.

Nhạc Chiêng
Tiếng chiêng Ê Đê có âm thanh chắc, khỏe, dồn dập, ngân và vang xa như khát vọng của chàng Đam San từ thuở nào dám chống lại luật tục mẫu hệ ngàn đời của cộng đồng là ước mơ bắt cả Nữ thần Mặt Trời về làm vợ…

Chiêng Ê Đê mang đậm tính tiết tấu mặc dù những yếu tố còn lại như giai điệu, hòa thanh… vẫn không bị lấn át. Trong 9 chiếc chiêng của cả dàn, trừ chiếc Sar lớn nhất giữ nhiệm vụ bè trầm thì 2 chiếc có núm là M’đú và Ana ching đảm nhiệm phần tiết tấu, 6 chiếc còn lại là 6 chiếc chiêng bằngK’lác là K’na ti, H’lang, Khơc, H’luê khơc, H’luê liang và M’đú khớc diết thực hiện phần giai điệu. Người Ê Đê chỉ dùng dùi đánh vào phía trong các chiêng bằng và vào phía ngoài đối với những chiêng có núm.

Với người Ê Đê, việc tấu chiêng thường là ở trong nhà. Tại đó những nghệ nhân ngồi tấu chiêng trên chiếc K’pan (ghế dài – được đẽo gọt từ một thân gỗ, không chắp nối) truyền thống. Các bài chiêng cụ thể đã có quy định chặt chẽ nhưng tính ngẫu hứng, tính dân chủ và sự sáng tạo lại là đặc điểm nổi bật trong sinh hoạt đối với cồng chiêng.

Chiêng Ê Đê có khá nhiều chủng loại như: K’do, Ngansa, M’nhum, Luir, Kur, Loa với các nhóm (nhánh) K’pă, M’thur vàAdham, riêng nhóm Ê Đê Bih có chiêng Vắcvei (đặc biệt hơn các nhánh khác từ trang phục cũng như dàn chiêng), cả dàn gồm 6 chiếc nhưng đều là chiêng núm, nếu xếp lồng vào nhau thì các vòng tròn từ cái lớn nhất đến cái nhỏ nhất đường kính của chúng cách đều một đốt ngón tay cái (theo thứ tự)… Các dàn chiêng Ê Đê nhìn chung đã có âm hưởng giống nhau nhưng âm khí lại khác nhau, tuy vậy khoảng cách về cao độ giữa mỗi chiếc trong cả dàn vẫn phải là những hằng số.

Học hỏi.

Đôi điều về Cồng Chiêng Ê Đê
I.Giới thiệu sơ lược:
Đăklăk, vùng đất bazan hùng vĩ, nơi tập trung sinh sống của người Ê đê hay Ra đê… biến âm tên gọi của cụm từ Yang Aê Diê có nghĩa là (Con cái của trời). Người Ê đê là cộng đồng thống nhất về ý thức tộc người, theo chế độ mẫu hệ. Vì vậy, trong gia đình chủ nhà là phụ nữ, họ chủ động trong hôn nhân. Đàn ông khi được cưới về sẽ cư trú luôn bên nhà vợ, con cái mang họ mẹ…

Ngoài trồng trọt nông sản như lúa, ngô, khoai… họ còn chăn nuôi trâu, lợn, gà… Ngày nay do sự thay đổi và phát triển của xã hội họ chuyển sang trồng cây công nghiệp là chính. Người Ê đê có một nền văn hóa độc đáo và phong phú, đáng kể là các sử thi (Khan), nghệ thuật điêu khắc và độc đáo nhất là âm nhạc dân gian mà cụ thể hơn là âm nhạc Cồng chiêng Ê đê, một trong những thành tố góp phần để tổ chức UNESCO công nhận không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên là di sản phi vật thể của nhân loại.

II.Khái niệm, tên gọi Cồng Chiêng Ê đê:
1. Khái niệm:
Cồng Chiêng là tên người Kinh gọi để chỉ loại nhạc cụ được đúc hay gò bằng đồng, Cồng có núm ở giữa, Chiêng không có núm ở giữa.

Tên gọi: Cả Cồng và Chiêng người Ê đê gọi chung là Cing (Ching).

1.2. Ching Ê đê: Được gọi là nhạc cụ thuộc bộ gõ định âm vì khi diễn tấu phát ra cao độ, tiết tấu, trường độ và âm sắc. Đó là những thuộc tính của âm thanh có tính nhạc.

1.3 Cũng như các dân tộc Tây Nguyên khác: Cồng Chiêng được xem là nhạc cụ linh thiêng nên thời kỳ đầu, chinh Ê đê sử dụng để kết nối giữa con người và thần linh, về sau mới được sử dụng trong các lễ hội dân gian.

1.4 Ching Ê đê: còn có tên gọi khác là Ching Knăh.


2. Lịch sử, nguồn gốc Ching Ê đê:
Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng Ching Ê đê có nguồn gốc từ Cồng Chiêng đá (Gong lu) có nhiều ở Đăklăk và Đăknông. Tiếp đến họ sử dụng tre nứa để làm Ching vì vật liệu này có sẵn và dễ tìm hơn đá phát ra âm thanh. Người Ê đê gọi nó là Ching Kram (Chiêng tre). Đến thời đại đồ đồng, Cồng Chiêng đồng mới ra đời.

Có nhiều luồng ý kiến trái ngược nhau về lịch sử nguồn gốc Ching Ê đê: “Ching xuất hiện từ bao giờ, Ching xuất hiện như thế nào? Đó là vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu âm nhạc, dân tộc học khi nghiên cứu dân tộc Ê đê”. (Ngô Đức Thịnh – Văn hóa dân gian Ê đê – giảng viên khoa Âm nhạc Di sản – Học viện Âm nhạc Huế)

Một số nghệ nhân thì nói rằng: “ngày trước, cha ông họ từ Nam Đảo đến Tây Nguyên bằng đường biển, mang theo bộ Chiêng truyền thống của mình nhưng không thể chế tác được Chiêng nữa, họ phải mua ở những vùng miền khác nhưChing Lao (Chiêng Lào) Ching Kur (Chiêng Campuchia) Ching Juăn (Chiêng kinh)… về thẩm âm lại cho phù hợp với hàng âm cao độ của dân tộc mình để sử dụng.

NSND Y Moan đang thẩm âm chiêng.

3. Phân nhóm – Cao độ – Tiết tấu Chiêng Ê đê:

3.1. Phân nhóm: qua chuyến đi khảo sát điền dã tại Tỉnh Đăklăk chúng tôi đã gặp một số nghệ nhân để lấy số liệu, đo đạc và tìm hiểu về cồng chiêng Êđê và đã ghi lại được cao độ tiết tấu bộ chiêng Ê đê sau:
3.1.1. Nhóm (Ching núm)
– Ching Char (Sar)
– Ching Ana
– Ching Mdu
– Ching Moong

3.1.2. Nhóm H’liang (Ching bằng)
– Ching Knah di
– Ching H’ liang
– Ching H’luê H’liang

3.1.3. Nhóm Khơk (Ching bằng)
– Ching Khơk
– Ching H’Luê Khơk
– Ching H’Luê Khơk Điêt
: Con trai lớn
: Con trai thứ hai
: Con trai út
: Con gái lớn
: Con gái thứ hai
: Con gái thứ ba
: Ông
: Mẹ
: Bố
: Cậu

3.2. Cao độ: Ching Ê đê có khá nhiều loại. Vì vậy, không phải dàn Ching Ê đê nào cũng có kích cỡ và cao độ giống nhau, nhưng thường gặp các bộ Chiêng có cao độ gần chuẩn như sau:



3.3. Tiết tấu:
Dù giai điệu và hòa âm nghe rất rõ ràng nhưng tiết tấu vẫn nổi trội lên hàng đầu khi nghe diễn tấu Ching Ê đê. Ching Char làm bè trầm, còn Ching Ana, Ching moong, và Ching Mdu giữ tiết tấu cho các Ching còn lại đi giai điệu.

4. Cách diễn tấu – một số bài bản Ching Ê đê:
4.1. Cách diễn tấu:
Điểm khác biệt ở cách diễn tấu Cồng Chiêng của người Giarai, Banar, M’nông… so với diễn tấu Ching Ê đê là: nghệ nhân xếp thành vòng tròn, luôn di chuyển, người hơi khom lưng về phía trước, thường kết hợp với múa xoan… Còn người Ê đê diễn tấu Cồng Chiêng ngay trong nhà dài, trên ghế K’pan (một loại ghế dài nằm ở phía Tây trong nhà dài). Chỉ vài trường hợp Ching Ê đê được đánh ngoài trời là khi cúng bỏ mả, cúng bến nước, tang lễ… Các Ching núm được đánh bằng dùi gỗ có bọc vải mềm, Ching Bằng đánh bằng dùi gỗ không bọc gì, các Chiêng Bằng đều được đánh vào mặt trong của Chiêng, đó cũng là điểm khác biệt trong cách diễn tấu Cồng Chiêng của người Ê đê với các tộc người Tây Nguyên khác.

4.2. Một số bài bản Ching:
4.2.1. Các bài thường:
– Drông Tuê (Đón khách)
– Cing ngăn
– Mời rượu
– Đua tài đánh chiêng

4.2.2. Các bài theo điệu dân ca:
– Ai ray
– Ciricira

4.2.3. Các bài cúng lễ:
– Nga Yang (Cúng Giàng)
– Droong Yang (Gọi Giàng)
– Báo nhà có người chết
– Nga Yang Atâo (Cúng báo ông bà) và một số bài đã thất truyền

Dưới đây là bài Ching Ê Đê


Đôi vợ chồng nghệ nhân du ca truyền thống dân tộc Ê Đê - Già H’Junh & Già Y Gông.

III. Kết luận và đề xuất
Kết luận:
Với phạm vi thời gian và khuôn khổ chật hẹp của một bài giới thiệu, trình độ về Cồng Chiêng Ê đê có hạn nên những vấn đề nói trên vẫn còn đang là chưa thật đầy đủ, nhưng để hỗ trợ cho những người mới làm quen với Ching Ê đê, chúng tôi nghĩ cũng rất cần thiết.

1. Một vài đề xuất:
– Hội thảo xong, chúng ta sẽ làm gì với bộ môn Cồng Chiêng?
Đây là câu hỏi không dành riêng cho ai, có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau trong buổi hội thảo “vấn đề đào tạo âm nhạc di sản khu vực Miền Trung và Tây Nguyên” nhưng chung quy lại vẫn chưa có kết luận cụ thể.
– Học viện Âm nhạc Huế và khoa Âm nhạc Di Sản làm gì khi Việt Nam được công nhận thêm 2 loại hình âm nhạc di sản phi vật thể của nhân loại?
– Là những giảng viên thuộc khoa Âm nhạc Di Sản, chúng tôi rất mong mỏi câu trả lời thẳng thắn và có trách nhiệm hơn từ cấp lãnh đạo Học viện Âm nhạc Huế.

Cồng chiêng - nhạc cụ thiêng của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên.

Các nhạc cụ của người Ê Đê
Người Ê Đê (còn gọi là Rađê) có khoảng gần 35 vạn người, cư trú tập trung ở tỉnh Đắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai, miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên. Người Ê Đê có kho tàng văn hóa dân gian rất phong phú. Trong đó nghệ thuật âm nhạc phát triển rất đặc sắc và độc đáo, giàu bản sắc cùng với sự đa dạng phong phú trong các hình thức biễu diễn. Nhạc cụ của người Ê Đê gồm có: cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Ktuk được nhiều người yêu thích.

Cồng chiêng là nhạc cụ của các dân tộc Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Stieng thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Âm thanh của cồng, chiêng vang như tiếng sấm rền. Đối với các dân tộc ở Việt Nam, cồng, chiêng được coi là nhạc cụ thiêng. Lúc đầu, cồng, chiêng chỉ dùng để tế lễ thần linh, sau này mới được dùng trong các lễ hội dân gian. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Hiện nay, tại các vùng có cồng chiêng như ở Tây Nguyên, hàng năm có tổ chức Lễ hội Cồng chiêng rất hoành tráng.

Vũ điệu cồng chiêng Ê Đê.

Vũ điệu cồng chiêng.
Bro là nhạc dây phổ biến của người Ê Đê. Bro là một ống tre lồ ô dài khoảng 90 đến 100 cm, đường kính từ 5 đến 8 cm. Phần mặt đàn có dây giăng chạy qua, còn phần đối diện mặt đàn, trên thân ống có 1 lỗ để gắn quả bầu, trét mật ong cho kín khe hở. Bro nguyên thủy chỉ có một dây làm bằng xơ dứa se lại và vuốt bằng sáp ong. Loại Bro cải tiến hiện nay có hai dây krom (dây thép). Ngay mặt trên thân ống, phần dưới dây có 3, 4 núm cao làm bằng sáp ong gọi là phím. Bro là nhạc cụ dành cho nam giới, đánh độc tấu hoặc tự đệm trong lúc hát. Khi đàn, chàng trai không mặc áo. Anh ta úp quả bầu tăng âm vào bụng (phần trên rốn). Tay trái bấm phím, những ngón tay phải móc dây đàn, đồng thời úp mở quả bầu để tạo độ rung, vang khác nhau.

Ana Kongan loại nhạc cụ bằng đồng thuộc nhóm gõ được tạo âm bằng cách xóc, có hình dáng như chiếc vành khăn đeo vào ngón tay cái (Ana Kongan), ở giữa hình vành khăn có những hạt sỏi nhỏ, khi chơi, người chơi chỉ rung ngón tay cái thì nhạc cụ tạo ra những âm thanh vui tai. An Konganthường được dùng trong các ngày lễ cúng như mừng thọ, bỏ mả, tang ma, rước trống…

Đing Năm là một nhạc cụ họ hơi (họ sáo) của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Nhạc cụ này thường được dùng để thổi theo điệu hát Ayray, trong các lễ hội: Lễ cúng bến nước, lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ lên nhà mới, tăng lễ… Trong các lễ hội này, nhạc cụ được sử dụng thổi theo làn điệu hát. Âm thanh trầm bổng, cao vút, réo rắt, dồn dập thể hiện cách điệu bản chất hoang sơ của núi rừng Tây Nguyên.

Nhạc cụ Bro.

Đing Ktút hay Đinh vuốt là một loại nhạc cụ họ hơi có 4 lỗ trên thân tre như sáo trúc, thiết diện tròn, bên trong rỗng từ đầu này sang đầu kia, dùng phối hợp với thể loại hátKưứt, một người thổi và một người hát. Âm thanh như gió thổi nhẹ, như suối reo róc rách gợi nên được khung cảnh thiên nhiên phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên.

Goong là một ống tre lồ ô dài khoảng 70 đến 90 cm, đường kính từ 5 đến 8 cm, hai đầu ống đều có mấu kín. Phía chân đàn, phần dưới mấu tre có mắc một đầu dây vào, phần đầu dây còn lại quấn vào những trục lên dây bằng gỗ, cắm xuyên qua ống ở phía đầu đàn. Tuy nhiên, có lẽ do ống tre có độ vang kém nên một số nghệ nhân đã nghĩ ra cách gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột ở dưới các dây phía chân đàn để làm tăng độ vang của âm thanh. Đàn goong có nhiều loại, tùy theo thiết kế, đàn có từ 10 dây đến 18 dây. Goong là nhạc thường dùng để diễn lại những bài của cồng chiêng bằng hình thức độc tấu.

Kèn Đing Năm.

Hgor là loại trống da chỉ có những gia đình giàu có mới sử dụng. Trống được làm bằng một thân cây độc mộc khoét rỗng bên trong. Mặt trống rộng chừng 70 cm đến 1m được bịt bằng da trâu, có gắn một hàng lục bằng đồng. Dùi trống bằng gỗ bịt vải, da. Trống Hgor luôn được chơi chung với đàn Ching và do nghệ nhân có tuổi đánh. Trống Hgor còn được đánh lên khi có tin buồn như nhà có người chết.

Ky pá là loại nhạc cụ như tù và làm bằng sừng trâu, khi thổi, người thổi dùng lòng bàn tay vỗ vào miệng tù và tạo tiếng rung, tiếng ngắt. Ky pá có âm lượng rất lớn nên thường được dùng phát hiệu lệnh chiến đấu, đuổi muông thú. Ky pácòn dùng trong lễ tang ma, rước trống, cúng rẫy, cúng thần nước…

Ching là loại nhạc cụ gõ bằng đồng phổ biến và độc đáo.Ching theo quan niệm của người Ê Đê có thể giúp con người tiếp xúc với thần linh (Yang) Vì vậy Ching chỉ xuất hiện trong các lễ lớn và có giá trị vật chất rất cao (Một bộ Ching tốt có thể đổi 1 con voi hay 20 con trâu).

Lễ trưởng thành của người Ê Đê.

Các nghi lễ, lễ hội vòng đời người
I. Các nghi lễ
Các dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, có một nền văn hoá nghi lễ – lễ hội vô cùng độc đáo. Nó đi suốt vòng đời của mỗi con người, từ lúc còn nằm trong bụng mẹ đến khi sinh ra, trưởng thành rồi trở về với thế giới tổ tiên ông bà. Đối với dân tộc Êđê có các nghi lễ như sau: Lễ cúng khi người mẹ mang thai, lễ cúng trước khi sinh, lễ cúng đặt tên thổi tai, lễ cúng đầy tháng, lễ cúng đầy một mùa rẫy, lễ cúng đầy ba mùa rẫy, lễ cúng đầy bảy mùa rẫy, lễ cúng tròn 15 mùa rẫy, lễ cúng trưởng thành (tròn 17 mùa rẫy), lễ hỏi chồng, lễ cưới chồng, lễ cúng sức khoẻ cho đôi vợ chồng trẻ, lễ cúng sức khoẻ hàng năm của mỗi gia đình, lễ cúng sức khoẻ cho chủ nhà khi bước vào tuổi 50, 60, 70, 80… lễ cúng vào nhà mới, lễ rước kpan, lễ kết nghĩa anh em, lễ tiếp khách, lễ tang, lễ bỏ mả…
1. Lễ cầu sinh đẻ:

Lễ được tổ chức khi người phụ nữ có mang ba tháng. Với nghi lễ này người phụ nữ mang thai và gia đình tin tưởng rằng đứa trẻ sinh ra sẽ khoẻ mạnh thông minh hơn người.

2. Lễ đặt tên:
Được thực hiện sau khi cháu bé ra đời một ngày. Lễ có hai bước. Bước thứ nhất là cúng Yàng Bah Huê, thần che chở trẻ sơ sinh và con người. Tiếp theo là lễ thổi tai (Băng Kiga) cho trẻ.
Lễ cúng đặt tên là một nghi lễ quan trọng trong hệ thống nghi lễ vòng đời người. Nó là niềm hy vọng của gia đình đứa bé về tương lại tốt đẹp của con mình.
3. Lễ trưởng thành:
Là một trong những lễ quan trọng trong các nghi lễ vòng đời người của dân tộc Êđê. Khi cháu bé mới sinh, trong lễ đặt tên, dăm dei (người cậu) đeo vào tay cho cháu một cái vòng đồng và cúng cho cháu một bộ áo khố, một đôi dép da trâu, một vỏ quả bầu khô đựng nước, một chiếc khiên, một thanh đao. Tất cả được bỏ trong một chiếc gùi và người mẹ cất giữ cẩn thận.

Cháu bé phải trải qua bảy lần cúng sức khoẻ, mỗi lần cúng, người ta đánh dấu vào chiếc vòng một khấc. Khi vòng đủ bảy khấc thì đứa bé đến tuổi trưởng thành (khoảng 17 – 18 tuổi). Sau lễ trưởng thành, chàng trai được tự do đi làm ăn xa, hoặc tìm bạn đời và kết nghĩa anh em với người khác buôn.

4. Lễ hỏi chồng:
Là lễ mở đầu trong bốn lễ cưới. Các cô gái Êđê được tự do lựa chọn người yêu. Nếu cô gái tìm được người vừa ý thì báo với cha mẹ để chuẩn bị làm lễ hỏi. Nhà gái chuẩn bị một lễ hỏi gồm một ché rượu, một vòng đồng để cúng thần. Sau đó gia đình cô gái cùng ông mối đến nhà trai. Nếu nhà trai ở buôn khác thì những người hỏi chồng mang thêm gói cơm nếp. Đến nhà trai ông cậu cầm chiếc vòng đồng hỏi ý kiến chàng trai lần cuối. Chàng trai trả lời ưng thuận. Họ làm lễ trao vòng. Cô gái và chàng trai cùng nắm tay vào chiếc vòng đồng. Đó là lời giao ư
Đàm Minh Phượng (sưu tầm)