Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Cống
Showing posts with label ₪ Dân tộc Cống. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Cống. Show all posts

Sunday, March 19, 2017

Lễ Cưới Hỏi Truyền Thống Của Dân Tộc Cống - Điện Biên (Đàm Thị Lượng)

 Các đôi trai gái dân tộc Cống nao nức trong mùa cưới

Người Cống ở tỉnh Điện Biên là một dân tộc thiểu số có dân số tương đối ít (theo số liệu thống kê năm 2009 là 871 người), sinh sống tập trung tại 2 huyện Điện Biên và Mường Nhé. Mặc dù có dân số ít nhưng đời sống văn hóa của dân tộc Cống rất phong phú với nhiều phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Một trong những phong tục đặc trưng đó là lễ cưới hỏi truyền thống.

Đối với dân tộc Cống, trai, gái từ 14-15 tuổi trở lên đã được coi là trưởng thành và có thể bắt đầu quá trình tìm hiểu để xây dựng gia đình. Trước đây họ không có cơ hội để tìm bạn đời là người khác tộc và cũng không ai vượt qua được trở ngại về mặt tâm lý để kết hôn với những thành viên thuộc dân tộc khác đang sinh sống cạnh kề như Thái, H’Mông, Si La… Do vậy người Cống không tránh khỏi vấn đề hôn nhân cận huyết, bởi lẽ dân tộc Cống có số dân khá ít, lại sinh sống tập trung nên giữa các gia đình người Cống hầu như đều có mối quan hệ chằng chéo với nhau. Mùa cưới của người Cống cũng giống như nhiều tộc người khác thường được tổ chức vào tháng 11, 12 âm lịch là thời điểm nông nhàn đồng thời cũng là thời điểm sửa sang nhà cửa để đón năm mới và dựng vợ gả chồng cho con cái.

Thiếu nữ chăm chỉ trong mùa đón chờ mùa cưới đến

Đối với các chàng trai người Cống đến tuổi trưởng thành và muốn lập tổ ấm của riêng mình, chàng trai sẽ tìm hiểu và lựa chọn người thiếu nữ khác họ mà mình thầm yêu trộm nhớ. Khi đã tìm được người ưng ý, buổi tối chàng trai sẽ đến chọc sàn và rủ cô gái đó ra ngoài để trò chuyện tâm sự. Qua trò chuyện, nếu có sự đồng cảm và yêu nhau (pông lang cái) nhưng chưa công khai thì đôi trai gái vẫn chỉ được tâm sự với nhau ở dưới nhà sàn hoặc ở ngoài sàn. Khi đã bén duyên cô gái (lêm mạ) phải thưa chuyện với bố (a pa), mẹ (a má). Sau đó người con trai (lêm phạ) đến nhà người yêu mình thì lên tiếng từ cầu thang. Không ưng, họ sẽ không ra mở cửa và chàng trai sẽ hiểu rằng gia đình không bằng lòng với tình yêu của hai người. Còn ngược lại, nếu đồng ý, bố mẹ cô gái sẽ mở cửa cho vào nhà. Sau khi nhận được tín hiệu chấp thuận, chàng trai mới được vào nhà trò chuyện cùng gia đình cô gái.

Hoa Ban nở trắng một vùng, báo hiệu mùa xuân, mùa cưới Điện Biên

Nếu thuận thì một thời gian sau sẽ làm lễ đặt rể (mì tạp xái). Đây là lễ để chàng trai đi ở rể nhà người yêu. Lễ này thường được tổ chức vào tháng 1 âm lịch. Khi tổ chức lễ đặt rể, bên nhà trai gồm: bố, mẹ, anh em họ hàng (cũng có khi cả bản) đến nhà gái. Trong lễ này nhất thiết bố, mẹ chàng trai phải cùng đi, nếu một trong hai người đã mất thì phải mượn vợ chồng bác hoặc vợ chồng chú hoặc cô ruột (những  người ngang hàng với cha mẹ chàng trai) đi thay và phải đi cả đôi, không được đi lẻ bởi đồng bào Cống quan niệm rằng đi lẻ là không hạnh phúc, không may mắn.

Trong thành phần nhà trai đi lễ đặt rể hay bất cứ lễ nào liên quan đến hôn nhân của dân tộc Cống đều có ông mối (po xứ) hoặc bà mối (me lam) đi cùng. Điều kiện chọn người làm ông mối, bà mối phải là người khỏe mạnh, hiền lành, tốt bụng, con đàn cháu đống càng tốt, đặc biệt phải là những người không chết vợ hay không chết chồng. Trong lễ đặt tên này nhà trai cũng thường chọn những người hát hay, hát giỏi đi theo để khi đến nhà gái có thể phải hát đối đáp.

Đôi trai, gái người Cống bên mâm cơm ngày sang nhà gái

 * LỄ ĐI Ở RỄ.

Nhà trai phải mang tư trang sinh hoạt và lao động cho chàng trai sang bên nhà gái. Thông thường công việc mang tư trang này dành cho các cô gái như: chị gái, em gái hay chị em họ... Riêng lễ vật để trong một cái túi do mẹ chú rể (hoặc người ngang hàng) mang sang nhà gái gồm: một cuộn dây gai (ý niệm thắt chặt đôi nam nữ và đôi bên gia đình), một gói muối (biểu hiện cho sự mặn mà), một ít thuốc lào hoặc thuốc lá.

Khi đến nhà gái, nhà trai không lên ngay mà thường lên tiếng dưới chân cầu thang bằng những câu hát chào, hỏi nhà gái. Nhà gái cũng có những người hát giỏi hát đối với nhà trai (thường là đồng ý cho lên nhà vì việc này đã có những thông tin trước với nhau để hai bên cùng chuẩn bị). Người làm mối sẽ thưa chuyện với nhà gái hỏi xin thời gian được ở rể (khơi tặp). Điều đặc biệt trong màn hỏi thời gian ở rể là người Cống không hỏi thời gian bằng năm mà hỏi bằng ngày. Bên nhà gái trả lời hai ngày, ba ngày hay bảy ngày tương ứng với thời gian thực tế là hai năm, ba năm hay bảy năm. Trước đây thời gian ở rể của dân tộc Cống rất dài, có khi 12 năm nhưng ngày nay thường là hai đến ba năm.

Khi đã có người đến ở rể nhà mình, cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu của người con gái Cống đã có chồng. Thời gian ở rể, họ có quyền sinh con đẻ cái, khi hết thời gian ở rể mới được làm lễ cưới để đưa cô dâu gái về nhà chồng. Thời gian ở rể là thời gian thử thách chàng rể phải cố gắng thể hiện mình trên phương diện đối nhân xử thế, trong lao động sản xuất để đến khi cưới cha mẹ chia của cho.

Trước khi tổ chức cưới, người Cống còn làm lễ đặt hỏi (ăng mì thám ế). Đây là lễ xin chọn một ngày tốt để cưới cho đôi vợ chồng đã hết thời gian ở rể. Việc chọn ngày để làm lễ đặt hỏi cũng thường vào những ngày tốt và những ngày tháng giáp tết (do việc đi ở rể cũng vào những ngày tháng giáp tết và ở rể thường tròn năm)

Những món đồ tự tay người Cống làm cho con gái trước lễ cưới

LỄ CƯỚI 

Để chuẩn bị cho lễ cưới nhà trai, nhà gái đều phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, cá, gạo và các thực phẩm khác để làm cỗ ăn uống tại nhà. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái là một con lợn, 9 đôi cá (phải là cá có vảy), một chum rượu cần (có hai cần hút), rượu trắng và một con gà, bạc trắng. Những lễ vật trên được để vào mâm cỗ đem sang nhà gái này phải là anh rể hoặc em rể mang đi. Người đeo chum rượu thường là chị hoặc em và đoàn nhà trai theo sau.

Phần nhà trai mang những lễ vật sang (theo thỏa thuận từ trước) đặt vào nơi thờ để làm lễ, cúng thờ tổ tiên. Lúc này cũng là lúc nhà gái thách thức chàng rể bằng công việc giết gà. Chàng rể phải thực hiện việc giết mổ gà từ khâu đun nước, cắt tiết đến vặt lông mà không được ai hỗ trợ. Mổ xong, chú rể phải đem gà đi luộc, sau đó chặt đầu và chân để xem, còn lại chặt nhỏ cho mỗi mâm một ít. Trong lúc chàng trai mổ gà, hai bên gia đình trai gái tổ chức hát đối đáp (nế lế hê). Đến bữa ăn họ hàng hai bên chúc tụng nhau có thể bằng lời hay bằng hát. Nhà trai thường có hai cô (chị hoặc em gái chú rể) tay bưng khay rượu, thịt và đi chúc rượu từng người.

Mọi người vui tươi trong lễ cưới hỏi

Đến giờ đón dâu, cô dâu, chú rể lạy 3 lạy hai họ và chúc bố mẹ hai bên mỗi người một chén rượu. Họ nhà trai mang tư trang của cô dâu đi trước và chọn một số thanh niên nam nữ xinh đẹp, khỏe mạnh làm lý giằng co đưa cô dâu về. Nhà gái cũng bố trí một số nam nữ thanh niên khỏe mạnh, xinh đẹp giữ cô dâu lại trong sự lôi kéo của nhà trai để tỏ sự lưu luyến, nhớ thương... Ngoài ra đoàn nhà gái còn té nước (nước ngâm tro) vào những người đang giằng kéo con gái của phía nhà trai chuẩn bị ra về. Nước té càng nhiều, càng nhiều người ướt đám cưới càng vui, vì đồng bào Cống quan niệm đó là điều may mắn, nhiều lộc cho đôi vợ chồng trẻ. Việc đón dâu phải diễn ra vào lúc còn mặt trời và vào những giờ hơn. Khi về đến nhà trai, bố mẹ chồng và chồng dẫn cô dâu vào nhà, cô dâu, chú rể quỳ xuống trước mặt là chum rượu cần có hai cần và một bên là bố mẹ. Cô dâu, chú rể sẽ lạy ba lạy về phía bàn thờ, sau đó vắt chéo cần rồi cùng nhau uống rượu trước sự chứng kiến của bố mẹ và anh em họ hàng. Lễ cưới đến đây là kết thúc.
Có thể nói, lễ cưới hỏi truyền thống của dân tộc Cống mang đầy những nghi thức tốt đẹp thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đến hạnh phúc nam nữ. Sau khi kết thúc các nghi lễ cưới hỏi, đôi vợ chồng trẻ sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Từ nay trở đi đôi vợ chồng trẻ sẽ tự lo làm ăn và vun đắp cho hạnh phúc của mình.
 Đàm Thị Lượng

Thursday, August 11, 2016

Lễ Cưới Hỏi Truyền Thống Của Dân Tộc Cống (Hoàng Thị Lê)

Các đôi trai gái dân tộc Cống nao nức trong mùa cưới

Người Cống ở tỉnh Điện Biên là một dân tộc thiểu số có dân số tương đối ít (theo số liệu thống kê năm 2009 là 871 người), sinh sống tập trung tại 2 huyện Điện Biên và Mường Nhé. Mặc dù có dân số ít nhưng đời sống văn hóa của dân tộc Cống rất phong phú với nhiều phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Một trong những phong tục đặc trưng đó là lễ cưới hỏi truyền thống.

Đối với dân tộc Cống, trai, gái từ 14-15 tuổi trở lên đã được coi là trưởng thành và có thể bắt đầu quá trình tìm hiểu để xây dựng gia đình. Trước đây họ không có cơ hội để tìm bạn đời là người khác tộc và cũng không ai vượt qua được trở ngại về mặt tâm lý để kết hôn với những thành viên thuộc dân tộc khác đang sinh sống cạnh kề như Thái, H’Mông, Si La… Do vậy người Cống không tránh khỏi vấn đề hôn nhân cận huyết, bởi lẽ dân tộc Cống có số dân khá ít, lại sinh sống tập trung nên giữa các gia đình người Cống hầu như đều có mối quan hệ chằng chéo với nhau. Mùa cưới của người Cống cũng giống như nhiều tộc người khác thường được tổ chức vào tháng 11, 12 âm lịch là thời điểm nông nhàn đồng thời cũng là thời điểm sửa sang nhà cửa để đón năm mới và dựng vợ gả chồng cho con cái.

Thiếu nữ chăm chỉ trong mùa đón chờ mùa cưới đến

Đối với các chàng trai người Cống đến tuổi trưởng thành và muốn lập tổ ấm của riêng mình, chàng trai sẽ tìm hiểu và lựa chọn người thiếu nữ khác họ mà mình thầm yêu trộm nhớ. Khi đã tìm được người ưng ý, buổi tối chàng trai sẽ đến chọc sàn và rủ cô gái đó ra ngoài để trò chuyện tâm sự. Qua trò chuyện, nếu có sự đồng cảm và yêu nhau (pông lang cái) nhưng chưa công khai thì đôi trai gái vẫn chỉ được tâm sự với nhau ở dưới nhà sàn hoặc ở ngoài sàn. Khi đã bén duyên cô gái (lêm mạ) phải thưa chuyện với bố (a pa), mẹ (a má). Sau đó người con trai (lêm phạ) đến nhà người yêu mình thì lên tiếng từ cầu thang. Không ưng, họ sẽ không ra mở cửa và chàng trai sẽ hiểu rằng gia đình không bằng lòng với tình yêu của hai người. Còn ngược lại, nếu đồng ý, bố mẹ cô gái sẽ mở cửa cho vào nhà. Sau khi nhận được tín hiệu chấp thuận, chàng trai mới được vào nhà trò chuyện cùng gia đình cô gái.

Hoa Ban nở trắng một vùng, báo hiệu mùa xuân, mùa cưới Điện Biên

Nếu thuận thì một thời gian sau sẽ làm lễ đặt rể (mì tạp xái). Đây là lễ để chàng trai đi ở rể nhà người yêu. Lễ này thường được tổ chức vào tháng 1 âm lịch. Khi tổ chức lễ đặt rể, bên nhà trai gồm: bố, mẹ, anh em họ hàng (cũng có khi cả bản) đến nhà gái. Trong lễ này nhất thiết bố, mẹ chàng trai phải cùng đi, nếu một trong hai người đã mất thì phải mượn vợ chồng bác hoặc vợ chồng chú hoặc cô ruột (những  người ngang hàng với cha mẹ chàng trai) đi thay và phải đi cả đôi, không được đi lẻ bởi đồng bào Cống quan niệm rằng đi lẻ là không hạnh phúc, không may mắn.

Trong thành phần nhà trai đi lễ đặt rể hay bất cứ lễ nào liên quan đến hôn nhân của dân tộc Cống đều có ông mối (po xứ) hoặc bà mối (me lam) đi cùng. Điều kiện chọn người làm ông mối, bà mối phải là người khỏe mạnh, hiền lành, tốt bụng, con đàn cháu đống càng tốt, đặc biệt phải là những người không chết vợ hay không chết chồng. Trong lễ đặt tên này nhà trai cũng thường chọn những người hát hay, hát giỏi đi theo để khi đến nhà gái có thể phải hát đối đáp.

Đôi trai, gái người Cống bên mâm cơm ngày sang nhà gái

 * LỄ ĐI Ở RỄ.
Nhà trai phải mang tư trang sinh hoạt và lao động cho chàng trai sang bên nhà gái. Thông thường công việc mang tư trang này dành cho các cô gái như: chị gái, em gái hay chị em họ... Riêng lễ vật để trong một cái túi do mẹ chú rể (hoặc người ngang hàng) mang sang nhà gái gồm: một cuộn dây gai (ý niệm thắt chặt đôi nam nữ và đôi bên gia đình), một gói muối (biểu hiện cho sự mặn mà), một ít thuốc lào hoặc thuốc lá.

Khi đến nhà gái, nhà trai không lên ngay mà thường lên tiếng dưới chân cầu thang bằng những câu hát chào, hỏi nhà gái. Nhà gái cũng có những người hát giỏi hát đối với nhà trai (thường là đồng ý cho lên nhà vì việc này đã có những thông tin trước với nhau để hai bên cùng chuẩn bị). Người làm mối sẽ thưa chuyện với nhà gái hỏi xin thời gian được ở rể (khơi tặp). Điều đặc biệt trong màn hỏi thời gian ở rể là người Cống không hỏi thời gian bằng năm mà hỏi bằng ngày. Bên nhà gái trả lời hai ngày, ba ngày hay bảy ngày tương ứng với thời gian thực tế là hai năm, ba năm hay bảy năm. Trước đây thời gian ở rể của dân tộc Cống rất dài, có khi 12 năm nhưng ngày nay thường là hai đến ba năm.

Khi đã có người đến ở rể nhà mình, cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu của người con gái Cống đã có chồng. Thời gian ở rể, họ có quyền sinh con đẻ cái, khi hết thời gian ở rể mới được làm lễ cưới để đưa cô dâu gái về nhà chồng. Thời gian ở rể là thời gian thử thách chàng rể phải cố gắng thể hiện mình trên phương diện đối nhân xử thế, trong lao động sản xuất để đến khi cưới cha mẹ chia của cho.

Trước khi tổ chức cưới, người Cống còn làm lễ đặt hỏi (ăng mì thám ế). Đây là lễ xin chọn một ngày tốt để cưới cho đôi vợ chồng đã hết thời gian ở rể. Việc chọn ngày để làm lễ đặt hỏi cũng thường vào những ngày tốt và những ngày tháng giáp tết (do việc đi ở rể cũng vào những ngày tháng giáp tết và ở rể thường tròn năm)

Những món đồ tự tay người Cống làm cho con gái trước lễ cưới

 LỄ CƯỚI (* ĂN MÌ TỒ Ế)
Để chuẩn bị cho lễ cưới nhà trai, nhà gái đều phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, cá, gạo và các thực phẩm khác để làm cỗ ăn uống tại nhà. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái là một con lợn, 9 đôi cá (phải là cá có vảy), một chum rượu cần (có hai cần hút), rượu trắng và một con gà, bạc trắng. Những lễ vật trên được để vào mâm cỗ đem sang nhà gái này phải là anh rể hoặc em rể mang đi. Người đeo chum rượu thường là chị hoặc em và đoàn nhà trai theo sau.



Phần nhà trai mang những lễ vật sang (theo thỏa thuận từ trước) đặt vào nơi thờ để làm lễ, cúng thờ tổ tiên. Lúc này cũng là lúc nhà gái thách thức chàng rể bằng công việc giết gà. Chàng rể phải thực hiện việc giết mổ gà từ khâu đun nước, cắt tiết đến vặt lông mà không được ai hỗ trợ. Mổ xong, chú rể phải đem gà đi luộc, sau đó chặt đầu và chân để xem, còn lại chặt nhỏ cho mỗi mâm một ít. Trong lúc chàng trai mổ gà, hai bên gia đình trai gái tổ chức hát đối đáp (nế lế hê). Đến bữa ăn họ hàng hai bên chúc tụng nhau có thể bằng lời hay bằng hát. Nhà trai thường có hai cô (chị hoặc em gái chú rể) tay bưng khay rượu, thịt và đi chúc rượu từng người.

Mọi người vui tươi trong lễ cưới hỏi

Đến giờ đón dâu, cô dâu, chú rể lạy 3 lạy hai họ và chúc bố mẹ hai bên mỗi người một chén rượu. Họ nhà trai mang tư trang của cô dâu đi trước và chọn một số thanh niên nam nữ xinh đẹp, khỏe mạnh làm lý giằng co đưa cô dâu về. Nhà gái cũng bố trí một số nam nữ thanh niên khỏe mạnh, xinh đẹp giữ cô dâu lại trong sự lôi kéo của nhà trai để tỏ sự lưu luyến, nhớ thương... Ngoài ra đoàn nhà gái còn té nước (nước ngâm tro) vào những người đang giằng kéo con gái của phía nhà trai chuẩn bị ra về. Nước té càng nhiều, càng nhiều người ướt đám cưới càng vui, vì đồng bào Cống quan niệm đó là điều may mắn, nhiều lộc cho đôi vợ chồng trẻ. Việc đón dâu phải diễn ra vào lúc còn mặt trời và vào những giờ hơn. Khi về đến nhà trai, bố mẹ chồng và chồng dẫn cô dâu vào nhà, cô dâu, chú rể quỳ xuống trước mặt là chum rượu cần có hai cần và một bên là bố mẹ. Cô dâu, chú rể sẽ lạy ba lạy về phía bàn thờ, sau đó vắt chéo cần rồi cùng nhau uống rượu trước sự chứng kiến của bố mẹ và anh em họ hàng. Lễ cưới đến đây là kết thúc.

Có thể nói, lễ cưới hỏi truyền thống của dân tộc Cống mang đầy những nghi thức tốt đẹp thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đến hạnh phúc nam nữ. Sau khi kết thúc các nghi lễ cưới hỏi, đôi vợ chồng trẻ sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Từ nay trở đi đôi vợ chồng trẻ sẽ tự lo làm ăn và vun đắp cho hạnh phúc của mình.
 Hoàng Thị Lê (sưu tầm)

Tết cơm mới dân tộc Cống, Điện Biên (Lý Thị Ninh)

Tết cơm mới là lễ hội lớn trong năm của người Cống

Khi những bông lúa trên nương đã bắt đầu uốn câu, hạt thóc ngả màu vàng tươi là dấu hiệu mùa thu hoạch lúa nương đang đến gần, người Cống (Điện Biên) lại náo nức chuẩn bị tổ chức Tết cơm mới.
Sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp nương rẫy nên người Cống tổ chức nhiều nghi thức cúng lễ liên quan đến lĩnh vực này. Tết cơm mới là lễ hội lớn trong năm của họ. Đồng bào quan niệm từ khi phát nương, chọc lỗ, gieo hạt, họ đã nhận được sự giúp đỡ của ma lúa, linh hồn tổ tiên, ma rừng nên khi thu hoạch lúa họ phải làm lễ xin phép. Đồng thời, đây cũng là dịp để người Cống dâng lễ vật tạ ơn các thế lực siêu nhiên.    

Thời gian tổ chức Tết cơm mới thường được tiến hành vào khoảng tháng 8 Âm lịch. Lễ vật bao gồm: thịt sóc, chuột, cá, quả dưa, bí, khoai sọ, mía… tất cả được sắp theo đôi. Người Cống cho rằng ma tổ tiên chỉ nhận đồ lễ có số chẵn chứ không nhận số lẻ. Ngoài ra, khi cúng cơm mới, người Cống còn để những dụng cụ lao động như: lưỡi dao, lưỡi thuổng lên một chiếc mẹt và rắc chấu cốm lên trên, với quan niệm, những vật dụng này đã giúp con người phát nương, cuốc rẫy nên khi con người thu lúa nó cũng phải được chia phần. Trong đó, cơm cốm là lễ vật đặc biệt, không thể thiếu. Nó còn là món quà biếu đầy ý nghĩa cho bố mẹ họ hàng.

Tết cơm mới của người Cống thường diễn ra trong hai ngày: Ngày thứ nhất cúng mời tổ tiên, thần linh về nhận lễ lúa mới. Khi xưa, địa điểm cúng cơm mới thường được tổ chức ở gốc cây trên rừng cạnh bản. Ngày nay, địa điểm cúng thường là nhà của chủ dòng họ. Trước khi bắt đầu lễ cúng, ông chủ dòng họ buộc ta leo lên phía trên các cửa ra vào nhà. Khác với người Thái, ta leo của người Cống không đan hình mắt cáo mà được làm từ ba chiếc lạt đan vào với nhau. Mỗi chiếc được buộc thắt ở hai đầu với ý niệm những nút buộc này sẽ trói chân ma dữ ở lại ngoài cửa, không cho nó vào nhà; đồng thời buộc vía những người trong nhà, để vía của họ ở lại với thể xác, giúp cho cơ thể khỏe mạnh, không bị ốm đau.

Giờ cúng cơm mới thường được bắt đầu từ 4 giờ chiều. Theo các cụ già người Cống đây là giờ mà tổ tiên có thể về nhà nhận lễ cơm mới. Ông chủ dòng họ ngồi bên cạnh mâm lễ vật, khấn mời ma tổ tiên về ăn lúa mới. Cúng xong, ông cầm con gà lên dùng dao cắt tiết, rồi bôi một chút máu lên cây tre với ý niệm mời ma tổ tiên ăn. Sau đó ông cúi người vít cần rượu mời tổ tiên uống. Bên cạnh việc cúng tổ tiên, ma lúa, người Cống còn có nghi thức cúng gọi hồn và cầu sức khỏe cho những đứa trẻ trong nhà nhân dịp Tết cơm mới.

Ngày thứ hai chủ yếu là ngày vui liên hoan cộng đồng, gia đình. Họ sẽ đến từng gia đình trong bản để thăm hỏi. Các gia đình dù nghèo hay giầu đều mổ lợn hoặc gà, vịt để ăn mừng. Mâm cơm liên hoan ngày cơm mới có thể ít thịt, thiếu cá, nhưng nhà nào cũng phải có xôi cốm và các loại quả, rượu, măng để mời khách. Sau những ngày đi nương, đi rừng miệt mài kiếm sống, Tết cơm mới là dịp họ gặp nhau để tâm sự, trò chuyện. Cuộc liên hoan thường kéo dài hết cả ngày thứ hai, đến xế chiều dường như men rượu đã ngấm, họ gõ chiêng, chụm chọe, hát múa tưng bừng. Theo lí của người Cống, các cụ bà phải múa trước để mở màn cho cuộc liên hoan văn nghệ, sau đó con cháu mới được múa theo. Bà chủ dòng họ vung gạo vào những người đang múa với ý niệm cầu may mắn. Điệu múa trong ngày cơm mới diễn ra tuy đơn sơ nhưng nồng hậu ấm áp. Động tác múa của nữ giới uốn lượn mềm mại, uyển chuyển; động tác múa của nam giới mạnh mẽ, dứt khoát. Mọi người đến xem hò reo, cổ vũ náo nhiệt, khiến không khí của ngày hội thêm tưng bừng.

Sau lễ cơm mới, người Cống yên tâm, tin tưởng, vui vẻ bước vào những ngày thu hoạch lúa bận rộn miệt mài.

Lý Thị Ninh (sưu tầm)

Lễ hội Tết ngô (Quề la long) của dân tộc Cống (Nông Quang Khải)


Dân tộc Cống là 01 trong 05 dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 1672 của Thủ tướng Chính phủ. Người Cống có khoảng trên 2000 người cư trú chủ yếu ở hai tỉnh là Lai Châu và Điện Biên.
Tại Lai Châu người Cống cư trú chủ yếu sống dọc theo Sông Đà ở 4 bản là Pô Lếch, Nậm Luồng, Nậm Khao, Nậm Pục của  huyện Mường Tè với số dân 1077 người chiếm hơn 50% tộc người Cống trên toàn quốc.

Cũng như các dân tộc anh em khác trên địa bàn, người Cống canh tác chủ yếu trên nương rẫy, ruộng bậc thang, mỗi năm một vụ chính; Cây trồng chính của người cống chủ yếu là Ngô, lúa nước, ngoài ra còn trồng trọt các loại rau màu trên đất bãi ven sông, suối để phát triển nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm phục vụ tết, lễ, sinh hoạt.

Bên cạnh đời sống vật chất, người Cống còn có đời sống tinh thần rất phong phú và đa dạng. Các phong tập quán tốt đẹp của người Cống đang có nguy cơ mai một do việc tái định cư chuyển địa điểm và các văn hoá lai căng xâm nhập. Lễ hội Tết ngô là một trong những lễ hội đang cần được phục dựng và lưu giữ để những nét đẹp về đời sống tinh thần của dân tộc không bị mai một.

Vào những ngày cuối năm theo cách tính của người dân tộc Cống, tức khoảng cuối tháng 5 âm lịch hàng năm. Già trẻ lớn bé trong từng gia đình họp lại phân công nhiệm vụ chuẩn bị cho cái tết gia đình diễn ra tươm tất và theo đúng phong tục.

Với đồng bào người Cống, ngày tết của họ bắt đầu từ đầu tháng 6, khi vụ ngô đã bắt đầu vào kỳ thu hoạch.

Để có một cái tết đầm ấm, vui vẽ và mang đậm bản sắc dân tộc, các gia đình người Cống nhà nhà ai cũng chú trọng đến các món ăn và mâm cổ cúng tổ tiên, thần linh trong ngày cuối năm và đầu năm mới.

Vào ngày đầu năm mới, khi tiếng gà gáy sáng cất lên các hộ dân trong bản Nậm Khao đã sáng đèn để chuẩn bị cho lễ hội tết ngô, lễ hội chính trong năm của dân tộc mình.

Những người phụ nữ trong gia đình lấy từng bắp ngô nạo nhỏ để làm món bánh ngô, món chính của lễ hội tết ngô.

Những bắp ngô được lấy trên nương từ ngày hôm trước vẫn còn thơm mùi ngậm sữa. Dưới bàn tay khéo léo của người phụ nữ Cống được nạo nhuyễn. Bánh ngô được chế biến từ ngô nếp non nạo nhỏ trộn đều với đường sau đó lấy lá chít gói lại to khoảng 2 đầu ngón tay. Bánh ngô được đồ bằng chõ xôi khoảng 1 giờ là ăn được. Cơm ngô là ngô non nạo nhỏ trộn với gạo nếp và cũng được gói trong lá dong thành những gói to đem đồ lên trong chõ xôi, cơm chín có mùi thơm rất quyến rũ của ngô nếp non với hương thơm của gạo nếp. Đây là những món ăn truyền thống được làm bằng ngô non sau khi thu hoạch nên nó mang ý nghĩa biết ơn sâu sắc đến thần linh, tổ tiên.


Ngay gian thờ chính của gia đình các dụng cụ sản xuất hàng ngày được đưa vào trong nhà. Các dụng cụ sản xuất thường ngày gồm: Chài, cuốc, xẻng, nỏ… Tất cả các dụng cụ này được lấy từng chiếc bánh ngô ( bê lẹ) và những con cua ( láng tò) buộc. Sau khi quá trình buộc xong   bày biện các đồ dùng sản xuất ra khắp các gian nhà. Riêng cột nhà sẽ được buộc vào một cái giỏ trong đó đựng một quả dưa, một con cua, một đùi gà. Cách thức này mang ý nghĩa tượng trưng cầu cho một năm mới công việc sản xuất sẽ gặp nhiều thuận lợi, mưa thuận gió hoà mùa màng tốt tươi thóc, ngô đầy nhà; săn bắt được nhiều, gia đình sẽ có một năm no đủ.

Khi trong nhà đã trang trí đúng nghi thức, Người chủ của gia đình sẽ bày lễ vật lên bàn thờ.
Việc chọn món ăn và đồ vật cúng được người cống chuẩn bị rất công phu. Mâm cổ cúng tổ tiên của người Cống nhằm mục đích trình báo với thần linh, tổ tiên về những việc mà cả gia đình đã làm được trong năm, cảm tạ sự phù hộ, độ trì của tổ tiên và thần linh cho con cháu khỏe mạnh, chăn nuôi, sản xuất gặp nhiều thuận lợi, mùa màng tươi tốt, thóc, ngô đầy nhà. Không những vậy, qua mâm cổ ấy, người ta còn hiểu hơn về cách nghĩ của người Cống trong quan niệm luân hồi, tâm linh. Tuỳ vào điều kiện của từng gia đình, mâm cỗ có thể nhiều hay ít món. Đây là mâm cúng đầu năm mới, tất cả mọi người trong gia đình đều phải tham gia. Lễ vật dâng lên tổ tiên thường có: thịt lợn (vạ sà) (gồm thủ, đuôi, gan, ruột non), thịt gà (gà sà), nấm rừng (mung xi), rau bí luộc (pa khạm chá công), cua rừng (làng tò).

Trong quan niệm của người Cống, con cua có ý nghĩa to lớn trong quan niệm tâm linh của họ. Trên mâm cỗ, 12 con, tượng trưng cho 12 tháng trong năm và tượng trưng cho 12 con giáp. Với họ, cua là con vật bảo vệ mùa màng. Khi hạt ngô gieo xuống đất, mọc mầm, chim chóc, chuột, sóc đến phá hoại, cua sẽ dùng hai càng cắn đuổi những con vật phá hoại.

Bên cạnh các món ăn đó, trên mâm cỗ của người Cống còn có hai món ăn không thể thiếu. Đó là cơm ngô (sa tu hằng) và bánh ngô (sa tu pe le). Đối với người Cống, mâm cổ giờ đây không chỉ là nơi chứa đựng các món ăn truyền thống mà còn là sự thành tâm dâng cúng thần linh, tổ tiên. Mỗi món ăn, đều góp phần làm cho hương vị ngày tết Ngô truyền thống thêm trọn vẹn.

Sau khi cúng xong các lễ vật được đem ra bày biện để cả nhà cùng quần tụ chúc cho một năm mới tốt lành, các cháu sẽ được bố mẹ, ông bà mừng tuổi và lấy cái giỏ đựng một quả dưa, một con cua, một đùi gà cho mang đi chơi.

Nông Quang Khải (sưu tầm)

Tết Ngô của dân tộc Cống (Hoàng Long)

Tết Ngô (Quề La Loong) là ngày Tết cổ truyền của người Cống ở xã Nậm Khao, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, được tổ chức khi mùa ngô đã được thu hoạch xong với những đồ lễ chính được chế biến từ ngô như bánh ngô, cơm ngô, ngô luộc và những sản vật của núi rừng để dâng lên thần linh trên trời và tổ tiên cầu mong cho Thần Mặt trăng, Thần Mặt trời, tổ tiên phù hộ cho nương ngô lên xanh tươi, chăn nuôi tốt, mọi người có sức khỏe để con cháu hàng năm lại cúng Tết Ngô năm sau to hơn năm trước.

Tết Ngô được gắn liền với những sinh hoạt của tộc người, mang tính cộng đồng cao, là một kho tàng văn hóa dân gian với nhiều loại hình nghệ thuật, xứng đáng được quan tâm đầu tư, bảo tồn và phát huy góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Các thành viên trong gia đình đều có mặt đầy đủ, chủ gia đình châm nến bắt đầu làm lễ cúng với mâm cúng tổ tiên đầu năm mới.

Các thành viên trong gia đình thắp hương và lạy một lạy trước bàn thờ tổ tiên.photo

Gà trống được dùng làm vật thiêng cúng tổ tiên và các thần linh.

Một vũ điệu mạnh mẽ của các chàng trai dân tộc Cống trong Tết Ngô.

Hoàng Long (sưu tầm)

Dân tộc Cống (Đàm Kim Phượng)

Một góc bản làng của người Cống
Dân tộc Cống hiện có khoảng trên 2.000 người, sống tập trung chủ yếu tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên và khu vực ven sông Đà. Dân  tộc Cống còn có các tên gọi khác là Xắm Khống, Mâng Nhé, Xá Xeng.

Người Cống cư trú thành các bản riêng. Bản của người Cống có từ 20 đến 30 nóc nhà sàn. Nhà của người Cống được ngăn thành 3 - 4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ có một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa. Gia đình của người Cống là gia đình phụ hệ. Mỗi họ của người Cống có một trưởng họ, có chung quy định về chỗ đặt bàn thờ tổ tiên và cách cúng bái. Một trong những lễ được người Cống coi trọng là lễ đặt tên cho con khi đứa trẻ đầy tháng. Ông ngoại là người đặt tên cho cháu.
Trang phục truyền thống của phụ nữ Cống

Người Cống thờ cúng tổ tiên 2 - 3 đời. Lễ cúng thực hiện vào những ngày cưới, ăn cơm mới, khi sinh con, khi bố hay mẹ mất. Hàng năm, từng bản người Cống có lễ cúng tập thể mở đầu vụ gieo trồng lúa.

Người Cống chủ yếu sống bằng nghề làm nương rẫy, trồng bông rồi đem đổi lấy vải. Tuy nhiên, nam nữ đều biết đan lát giỏi, trong đó có nghề đan chiếu mây nhuộm đỏ.

Người Cống có kho tàng văn nghệ dân gian khá phong phú với các làn điệu dân ca sâu lắng

Ngày nay, trai gái dân tộc Cống được phép lấy người dân tộc khác. Theo phong tục của người Cống, người cùng họ phải cách nhau 7 đời mới được lấy nhau. Sau lễ hỏi, chàng trai ở rể vài năm còn cô gái búi tóc ngược lên đỉnh đầu thể hiện là mình đã có chồng. Người Cống có kho tàng văn nghệ dân gian khá phong phú với các làn điệu dân ca sâu lắng và thường được hát tập thể vào dịp lễ hội.
 Đàm Kim Phượng (sưu tầm)

Dân tộc Cống (Triệu Minh Phương)

Cây đàn Tính Tẩu trong sinh hoạt

Dân tộc Cống có khoảng 1.300 người ở huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Hiện nay, phần lớn người Cống cư trú ven sông Đà. Dân tộc Cống có các tên gọi khác: Xắm Khống, Mâng Nhé, Xá Xeng. Tiếng Cống thuộc hệ ngôn ngữ Tạng-Miến.

Người Cống sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, canh tác theo lối phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống. Gần đây, đồng bào đã làm nương bằng cuốc và sử dụng trâu bò làm sức kéo. Nhiều thức ăn của đồng bào là tìm kiếm ở trong rừng, kiếm cá dưới suối chủ yếu bắt bằng tay hoặc bả thuốc độc lá cây.
Phụ nữ Cống không biết nghề dệt, chỉ trồng bông đem đổi lấy vải. Song nam nữ đều đan lát giỏi, có nghề đan chiếu mây nhuộm đỏ.

Trang phục của người Cống

Người Cống thường ở nhà sàn, nhà nào cũng ngăn ra thành 3-4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ có một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa. Mỗi họ của người Cống có một trưởng họ, có chung một kiêng cữ, có chung quy định về chỗ đặt bàn thờ tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng, người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả thay thế.

Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số dâu rể là người Thái, Hà Nhì... Theo phong tục Cống, người cùng họ phải cách nhau 7 đời mới được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai chủ động. Sau lễ dạm hỏi, chàng trai bắt đầu ở rể vài năm, còn cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu đã có chồng. Thường họ sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải có bạc trắng làm lễ cưới nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng.

Người Cống có lịch riêng. Năm có 12 tháng (ứng với 12 con vật), tháng có 30 ngày.
Người Cống thờ cúng tổ tiên 2-3 đời. Lễ cúng được thực hiện vào những ngày cưới, ăn cơm mới, khi sinh con, khi bố hay mẹ chết. Cũng như nguời Hà Nhì, La Hủ, từng bản người Cống hàng năm có lễ cúng tập thể mở đầu vụ gieo trồng lúa. Ngoài ra đồng bào còn có một số lễ thức khác nữa nhằm cầu mong mùa màng tươi tốt, nhà nhà no đủ.
Nền văn nghệ dân gian Cống khá phong phú, với các làn điệu dân ca sâu lắng người ta hát vào dịp lễ hội vui chung.
Một bản của người Cống ở Lai Châu

Triệu Minh Phương (sưu tầm)