Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Hà Nhì
Showing posts with label ₪ Dân tộc Hà Nhì. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Hà Nhì. Show all posts

Sunday, April 9, 2017

Lễ hội trùm chăn của người Hà Nhì (Thùy Dung)

Lễ hội trùm chăn là một lễ hội đặc sắc của người Hà Nhì, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Đó là lễ hội cúng thần gió, thần đất, còn gọi là K'Hô Igià Igià. Lễ hội tổ chức vào tháng 6 âm lịch hàng năm trong 3 ngày, ngày Thìn là ngày khai hội.
Lễ hội này được người Hà Nhì đen tổ chức ở 2 địa điểm:
Địa điểm thứ nhất: lễ hội được tổ chức ở nhà và gia chủ sẽ phải chuẩn bị đồ cúng, bao gồm: 5 cái bánh dày, 1 bát thịt trâu luộc, 1 bát nước gừng pha nước và 4 cái bát con úp xuống đất trước bàn thờ (theo phong tục ở đây, các món đồ cúng sẽ do gia chủ - người vợ chế biến; nếu người vợ đi vắng phải do con gái cả làm và dù con gái cả đã đi lấy chồng rồi cũng vẫn phải về giúp đỡ gia đình lúc này); sau khi đồ cúng được chuẩn bị xong, gia chủ sẽ cúng đầu tiên, tiếp đó là tới các con - lần lượt từ con trai út cho đến con trai cả vào lễ.

Kết thúc lễ tạ, chủ nhà lấy bát nước gừng chia cho mỗi người trong gia đình uống một ngụm, ăn một ít thịt trâu luộc để hưởng lộc; bánh dày và gừng rượu được dành cho ông Táo, đặt ở bếp. 


Địa điểm thứ 2: lễ hội được tổ chức ở rừng cấm - nằm tại trung tâm bản mà ngày thường không ai được vào. Trong khu rừng này có nhiều cây gỗ quí lâu năm được mọi người cùng gìn giữ, có một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ quý, mái lợp gianh, rộng hơn chục m² do dân bản dựng để cho người già và con trẻ ngồi khi tham dự lễ hội.

Lễ cúng tiến hành vào ban đêm (vì làm như thế, các thần gió, thần đất sẽ được nghỉ ngơi yên tĩnh). Thầy cúng không nhất thiết phải là người chuyên nghiệp, chỉ cần là người 50 tuổi trở lên và không gặp điều rủi nào trong năm là được. Sau khi cúng, mọi người đều được mời ăn các lễ vật cúng và phải ăn cho hết, không được mang về.

Ngày hôm sau không khí lễ hội tưng bừng hơn: trai, gái trong bản rủ nhau vào rừng, mỗi người lấy sáu cành củi nhỏ về nộp cho lễ hội. Đến ngày thứ ba, tất cả dân bản tập trung lại để già làng - người cao tuổi nhất, cắt da trâu chia cho từng gia đình. Nếu số da trâu chia đủ cho mỗi gia đình hai chiếc thì năm đó làm ăn sẽ không thuận, còn số da trâu đã chia hết mà còn lẻ một, tức là năm đó dân bản được mùa.

Tại điểm trung tâm của lễ hội, già làng đánh đàn hoóttờơ, bà già nhảy múa còn thanh niên nam nữ hát đối nhau. Cùng với những điệu múa, trong ngày hội còn có một số trò chơi: trò đu dây, đu quay và hát giao duyên... đây là dịp để trai gái trong bản gặp gỡ và tìm hiểu nhau.

Bên cạnh các nghi thức tín ngưỡng và các trò chơi dân gian phổ biến, lễ hội còn có một phong tục lạ mắt và hết sức độc đáo, đó là tục trùm chăn. Trước khi đi hội “Khô già già”, bao giờ các chàng trai chưa vợ cũng đem theo một cái chăn chiên mới. Gần tới nơi, họ giấu cái chăn ở một hốc đá, bụi cây hoặc có khi ở... trong áo.

Tại lễ hội, chàng trai tham gia một cách hào hứng, chủ động, đặc biệt với các trò chơi đòi hỏi phải thể hiện hết năng lực và bản lĩnh đàn ông. Mục đích của họ nhằm thu hút sự chú ý của “phái đẹp”. Qua ánh mắt các cô gái, sự nhạy cảm của tuổi đang yêu sẽ “mách” cho các chàng trai biết cô gái nào có cảm tình với mình và cảm tình ở mức nào. Vào thời điểm thích hợp, chàng trai lặng lẽ tách khỏi cuộc chơi chung, tìm cách tiếp cận người đẹp. Những lời hỏi han, mời mọc, bông đùa và dĩ nhiên cả lời ướm thử, được các chàng trai thực hiện với mục đích thăm dò, xem phản ứng của “đối tác” ra sao. Khi “cá đã cắn câu”, chàng trai tiến thêm một bước táo bạo hơn, nắm lấy tay cô gái và... lôi đi. Dĩ nhiên cô gái sẽ chống cự, nhưng là sự chống cự cho “phải phép”; tay có vẻ nhùng nhằng nhưng miệng thì cười quyến rũ và chân lại... bước theo người ta. Chàng trai lập tức lấy cái chăn mà mình đã giấu sẵn, trùm lên đầu cô gái, rồi dẫn cô gái ra bìa rừng, bờ suối hoặc chỗ nào đó, hai người ngồi bên nhau tâm sự.

Qua tâm sự, nếu cảm thấy không thể tiếp tục tình yêu được, thì họ sẽ chia tay và không bao giờ lặp lại chuyện trùm chăn nữa. Trường hợp cả hai bên đều hài lòng về nhau, thì đợi lúc gần sáng chàng trai sẽ vác cô gái về “giấu” ở nhà mình. Sau đó ít ngày, nhà trai cử người sang nhà gái mối mai, xin với nhà gái cho đôi trẻ được tự do tìm hiểu trên quan điểm đi đến hôn nhân. Trùm chăn, thực ra là bước đầu tiên của tục “cướp vợ”, tương tự như tục “cướp vợ” của dân tộc Mông. Song chính động tác trùm chăn đã tạo nên sự khác biệt, độc đáo, phản ánh một nét văn hoá hôn nhân của người Hà Nhì, so với các dân tộc anh em nói chung và dân tộc Mông nói riêng.

Hiện nay ở nhiều vùng người Hà Nhì, tục trùm chăn vẫn còn duy trì trong cuộc sống đời thường, đặc biệt tại các lễ hội hoặc liên hoan văn hoá các dân tộc ít người. Đó là một nét văn hoá truyền thống mang bản sắc Hà Nhì, rất chung mà lại rất riêng...
Thùy Dung

Wednesday, June 15, 2016

Lễ cúng cây đu của dân tộc Hà Nhì ở Lai Châu ( Lý Văn Sùng)

Thầy cúng lấy thức ăn trên mâm cúng đặt lên ván đu.

Lễ cúng cây đu trong Tết mùa mưa, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình và bản làng ấm no, là một trong những lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa độc đáo của người Hà Nhì, xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

Tết mùa mưa của người Hà Nhì được tổ chức định kỳ vào tháng 6 Âm lịch hàng năm. Để chuẩn bị cho Tết mùa mưa, người ta phải dựng 2 cây đu là đu lăng, đu quay và 2 cái bập bênh là bập bênh lên xuống, bập bênh quay. Theo quan niệm của người Hà Nhì, cái đu lăng vươn cao hàng chục mét với ngọn lá xum xuê thể hiện khát vọng của con người về một sự phát triển tốt đẹp. Còn cái đu quay trông như cái guồng nước to tròn phản ánh mong muốn về sự no đủ.

Để chuẩn bị cho lễ cúng, đồng bào lo dọn dẹp và chỉnh trang không gian dự định tổ chức lễ, dựng cây đu và chuẩn bị lễ. Trong lễ Giế Khừ Già, đồng bào tiến hành thịt lợn để làm lễ cúng, trong đó, thịt được để sống, gồm đầu lợn, thịt... Khi thịt lợn, phải chú ý để nguyên vẹn lá gan của con lợn được thịt, lá gan đó phải dính nguyên mật lợn và sẽ được đặt lên trên mâm cúng cho thầy cúng xem. Việc xem lá gan của con lợn sẽ báo cho thầy cúng biết điềm gở hay điềm lành đến với bản và gia đình trong năm.

Đồ lễ gồm: đầu lợn, thịt lợn, bánh dày, trứng gà luộc, rượu trắng, giỏ đựng bát, muối, gạo, đũa, chén rượu và một số vật dụng như mâm tre, ống tre, lá chuối, cây đu, trống...

Theo quan niệm của người Hà Nhì, vào lễ hội mùa mưa năm nay, nếu con lợn sau khi thịt nặng hơn con lợn thịt của năm cũ thì bản làng năm nay sẽ làm ăn phát triển hơn năm cũ. Nếu không được như ý thì người ta cũng vẫn nói là lợn thịt năm nay nặng hơn, để mong muốn mọi sự tốt lành, phát triển đến với cả bản và các gia đình.

Thầy cúng lễ phải là người do dân bản bầu ra, thường là người thầy cúng của năm trước đó đã cúng cho dân bản năm đó được khỏe mạnh, không ốm đau, bệnh tật, làm ăn, chăn nuôi phát triển, mùa màng bội thu. Khi đồ cúng lễ đã sửa soạn xong, thầy cúng hướng dẫn mọi người sắp mâm cúng dâng lên các thần linh. Mâm cúng được đặt cạnh cây đu. Thầy cúng sẽ tiến hành xem bói gan lợn, sau đó, thầy cúng khấn thần linh, lời khấn có nội dung rằng: “Hôm nay ngày lành tháng tốt, ngày con rắn đầu tiên của tháng 7, theo luật lý ông cha ta để lại cho chúng con có con lợn, quả trứng, xôi, bánh dầy, rượu ngon kính dâng lên các thần linh trên trời dưới đất, linh hồn của tổ tiên người Hà Nhì phù hộ cho con cháu người Hà Nhì trồng ngô, ngô có hạt, trồng lúa lúa có bông, bông to, hạt mẩy, trâu bò lợn gà biết sinh sôi, nảy nở, bà con trong bản khỏe mạnh để năm sau con cháu lại cúng tết mùa mưa năm sau to hơn năm trước”. Tất cả thành viên cúi lạy theo thầy cúng. Khấn xong thầy cúng tháo dây buộc ở tấm ván đu rồi lấy thức ăn trên mâm cúng đặt lên ván đu, mỗi loại một ít rồi đu đi đu lại ba lần bằng tay để cho điều xấu thì bị cuốn đi, điều lành thì được mang lại.

Dân bản uống rượu chúc phúc. Ảnh

Sau đó, thầy cúng lên ván của cây đu, thầy cúng vừa đặt lời khấn vừa đu. Thầy cúng và gia chủ uống rượu chúc phúc cho mình trước và sau đó là chúc phúc cho bà con dân bản. Cuối cùng, tất cả anh em, con cháu, mọi người trong bản cùng uống rượu, hát những bài dân ca để chúc nhau, cùng nhau đánh trống, múa hát, chơi đu và các trò chơi dân gian.

Vui chơi văn nghệ, đánh trống truyền thống.

Đây là một phong tục mang đậm nét văn hóa độc đáo của người Hà Nhì ở xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu thu hút sự quan tâm của du khách. Cần bảo tồn những nét văn hóa đặc sắc của người Hà Nhì nói riêng cũng như những bản sắc văn hóa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lai Châu gắn với phát triển du lịch cộng đồng.

Lý Văn Sùng (sưu tầm)

Tục cúng của người dân tộc Hà nhì (Lý Thào)

Nghi thức trong lễ cúng bản.

Điện Biên hiện đang sở hữu rất nhiều Lễ hội quan trọng: Hạn Khuống (Dân tộc Thái), Lễ mừng măng mọc, Pang Ả, Pang Phóong (Dân tộc Kháng), mừng cơm mới (Dân tộc Xinh Mun), Ma Khô (của người Mông Xanh), Tủ Cải (Dân tộc dao)… và một Lễ hội đặc sắc đó là Gạ Ma Thú - Lễ hội cúng bản - một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì ở xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.

Sinh sống ở vùng núi cao nên đặc điểm nổi bật trong lễ hội truyền thống của dân tộc Hà Nhì là sự gắn bó giữa con người với môi trường xung quanh, đó là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Lễ hội là dịp con người giải tỏa, giãi bày phiền muộn lo âu với thần linh, mong được giúp đỡ che chở vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống hàng ngày.
Lễ cúng bản của người Hà Nhì ở Sín Thầu được tổ chức vào những ngày con hổ (Khà là), con trâu (Nhù no), con dê (Gió no) của tháng 2 âm lịch hằng năm; nhưng đặc biệt là vào ngày con Hổ được coi là ngày đẹp, khỏe, nhiều may mắn, đây cũng là khoảng thời gian dân bản phát nương làm rẫy chuẩn bị gieo trồng vụ mới. Đây là lễ hội được người Hà Nhì rất coi trọng.
 
Để lễ cúng bản được diễn ra suôn sẻ, trước ngày lễ diễn ra mọi người dân trong bản phải họp bàn, phân công chuẩn bị đồ lễ cúng, chọn thầy cúng, đó là những yếu tố quan trọng quyết định thành công cho buổi lễ.
Nghi lễ diễn ra trong vòng 01 ngày, phải có đủ 6 mâm cúng. 
Mâm cúng đầu bản:
Là mâm cúng chính, quan trọng hơn cả, lễ vật phải to hơn các mâm khác, do thầy cúng chính làm chủ lễ. Đây là mâm cúng chính cho cả bản nên vị trí đặt mâm cúng phải ở vị trí linh thiêng, phải ở đầu bản và là vị trí cố định không thay đổi, nơi đặt mâm cúng chính là vị trí gốc một cây Si cổ thụ, trên một quả đồi nằm ở phía Đông Bắc của bản. Vị trí này đã được dân bản lựa chọn cố định không thay đổi, được xem là nơi linh thiêng không cho phép bất kỳ một ai tùy tiện ra vào khu vực này. Chỉ khi nào dân bản tổ chức cúng bản thì mới được phép vào phát cỏ và dọn dẹp sạch sẽ để làm lễ cúng cho dân bản, với mong muốn cầu cho cả bản được tốt lành, cho đủ hoa màu, cho mọi người không bị ốm đau, gia súc gia cầm sinh sôi phát triển, tiền bạc nhiều.Mâm cúng cổng bản: 
Cổng bản là lối đi lại ra vào của người dân trong bản cũng như khách thập phương khi muốn vào bản. Người Hà Nhì quan niệm rằng cổng bản cũng là nơi mà những thế lực tà ma hay những cái xấu xa đen tối cũng theo đó mà vào bản quấy nhiễu cuộc sống của dân bản nên mỗi khi làm lễ cúng không thể không cúng cổng bản, từ đó nhằm ngăn chặn xua đuổi tà ma, các thế lực xấu xa đen tối không cho vào bản, đồng thời cầu mong hạnh phúc niềm vui và sự no đủ cho dân bản. Trong lễ cúng bản của người Hà Nhì có rất nhiều điều cấm kỵ, trong đó có tục cấm bản, khi cổng bản được dựng lên, lễ cúng bản bắt đầu thì việc cấm bản có hiệu lực, theo đó, mọi người trong bản không được phép ra ngoài, người ngoài bản cũng không được tự ý vào bản. Mâm cúng thần núi (Phía Tây)
Người Hà Nhì lâu nay sinh sống trong môi trường rừng núi cuộc sống hoàn toàn dựa vào thiên nhiên, kể cả những hoạt động sản xuất vì vậy người Hà Nhì gửi gắm vào thế lực siêu nhiên niềm tin và những ước nguyện của mình và trong đó có Thần núi. Mâm cúng có ý nghĩa cầu sức khỏe cho dân bản, cầu cho cây lúa, cây ngô tốt tươi.
Mâm Cúng thần lửa (Phía Nam)
Người ta thực hiện lễ cúng Thần lửa với ý nghĩa diệt lửa, cúng diệt lửa để cầu mong không gây hỏa hoạn cháy rừng, cháy nhà, cháy vật nuôi gia súc chăn thả trên rừng. Lửa sẽ sưởi ấm cho con người, cây trồng và vật nuôi khi đêm đông giá buốt; lửa cũng giúp cho linh hồn của những người chẳng may bị hỏa hoạn mà chết sẽ được siêu thoát.
Mâm Cúng thần đất (Phía Bắc)
Thần đất được người Hà Nhì gọi là Thủ Tý, nghi lễ cúng thần đất được diễn ra dưới gốc một cây Si cổ thụ (cây Si là cây sống lâu năm dẻo dai được xem như sự trường tồn, khỏe mạnh của dân bản). Lời cúng mang ý nghĩa mong thần phù hộ cho dân bản sống khỏe mạnh, không cho thú dữ phá hoại mùa màng, không nhiễu hại dân bản, bảo vệ ruộng nương.
Mâm Cúng thần Rừng (Phía Đông)
Sinh sống lâu đời trong môi trường tự nhiên có sự cân bằng sinh thái với đầy đủ các yếu tố cho cuộc sống con người, rừng lấy gỗ dựng nhà, làm chất đốt và đất để làm nương, rẫy lấy lương thực. Theo quan niệm của người Hà Nhì thì mọi thứ đều có người cai quản, việc thờ cúng Thần rừng để thần giữ rừng cho dân, theo họ, giữ được rừng là giữ chính cuộc sống của họ. Từ đó, giúp dân tộc Hà Nhì củng cố thêm luật tục của tổ tiên trong đó có luật tục bảo vệ cái cây, ngọn cỏ, muôn thú, tất cả những gì mà cha ông họ đã giữ gìn và truyền lại.
Trong ngày diễn ra lễ cúng bản, những hoạt động văn nghệ, các trò chơi dân gian cũng được diễn ra song song, nhưng trò chơi chủ yếu là đu quay, ném còn, đánh cù....ngoài ra còn có các điệu múa truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Tất cả các thành viên trong bản không kể già trẻ, trai gái, mọi người đều tham gia.
Lễ cúng bản của dân tộc Hà Nhì là lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc cần được bảo tồn và phát huy giá trị, góp phần phát triển nền văn hóa tỉnh Điện Biên nói riêng và của Việt Nam nói chung "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”./. 

Liên hoan sau lễ cúng
Lý  Thào  (sưu tầm)

Phong tục cưới truyền thống của người dân tộc Hà Nhì (Lý Văn Sùng)

Điệu múa trống chiêng của người dân tộc Hà nhì

Trong quan hệ hôn nhân, người Hà Nhì ít chịu sự ràng buộc của những lễ giáo phong kiến. Nam nữ thanh niên được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau trước khi cưới. Người Hà Nhì có hai hình thức cưới: do bố mẹ đi hỏi và không qua lễ hỏi.

Cưới do bố mẹ đi hỏi: sau khi trai gái tìm hiểu nhau người con trai nói với bố mẹ ý định của mình và xin bố mẹ lo liệu việc cưới. Tùy từng vùng việc cưới xin có các phong tục tập quán khác nhau. Ở Bát Xát, lễ dạm hỏi gồm ba bước. Lần đầu người mối mang một chai rượu, quả trứng và hai gói cơm nếp sang nhà gái nói chuyện về việc cưới xin. Lần hai, ông mối mang thêm một đồng bạc trắng biếu cô dâu tương lai. Lần thứ ba, ông mối sang xin nhà gái định ngày cưới. Mỗi cặp vợ chồng đều trải qua hai lần cưới.
Cưới lần thứ nhất: Người con trai rủ vài người bạn đến nhà người yêu hay một nơi nào đấy đã hẹn sẵn. Khi gặp nhau, người con gái trả lại bạn trai một đồng bạc trắng mà người làm mối đã đưa sang hôm dạm. Họ đưa nhau về nhà trai chào bố mẹ và cúng tổ tiên. Hôm đó nhà trai cũng như nhà gái đều làm bữa cơm thân mật mời bà con hàng xóm mừng hạnh phúc cho hai con. Từ đó, cô dâu ở hẳn bên nhà chồng. Sáng hôm sau, nhà trai sang nhà gái với lễ vật gồm trai rượu, cơm nếp và một quả trứng để hỏi về đồ thách cưới trong lễ cưới lần hai.

Cưới lần thứ hai: Trước kia nghi lễ này khá tốn kém, nhà gái thường ăn uống tiếp khách trong một ngày, nhà trai hai ngày. Số lượng tiền gạo chi tiêu cho ngày cưới khá lớn. Vì tốn kém như thế nên người Hà Nhì chỉ tổ chức đám cưới khi gia đình làm ăn khám khá. Nhiều người 50, 60 năm sau khi đã có con cháu mới đủ khả năng tổ chức lễ cưới lần hai. Có người cho đến lúc chết vẫn chưa cưới xong. Với những trường hợp này lúc chết trước khi làm ma, người ta phải làm lễ cưới tượng trưng với lễ vật là một con gà và ba gói xôi.

Người dân tộc Hà Nhì còn có hình thức cưới không qua lễ hỏi. Trai gái yêu nhau tự định ngày cưới. Người con trai nói trước với bố mẹ mình điều đó, còn người con gái có thể không nói cho bố mẹ biết vì lễ cưới này thường xảy ra khi bố mẹ cô gái không đồng ý cuộc hôn nhân. Lễ cưới được tổ chức giống như lễ cưới lần thứ nhất của hình thức cưới có đi hỏi. Trong trường hợp này không cần tổ chức lễ cưới lần hai nữa.

Lý văn Sùng (sưu tầm)

Tuesday, June 14, 2016

Lễ tảo mộ của dân tộc Hà Nhì (Lý văn Sùng)

Xuân năm nay ở Y Tý đẹp và trong trẻo với nắng vàng rót mật cùng biển mây trắng xốp. Ngày xuân đẹp trời, người Hà Nhì trong thôn bản ở Y Tý đang nô nức chuẩn bị cho lễ tảo mộ của một vài nhà trong bản.
Từ sáng sớm, những người phụ nữ Hà Nhì đã thức dậy chuẩn bị chu đáo trang phục truyền thống để mặc trong lễ tảo mộ. Họ cũng sắm sửa đồ lễ như gà trống, gạo nếp, trứng luộc, vàng hương… và mang theo ra khu phần mộ để cúng tế.


Ngọn đồi cao giữa bốn bề núi non là nơi tập trung phần mộ của cả bản làng người Hà Nhì. Năm nay, trong làng có một vài phần mộ đã đủ ba năm để thực hiện lễ tảo mộ. Không chỉ riêng gia đình người đã khuất đến để sửa sang, làm sạch mộ phần mà cả bản làng ai ai cũng chung sức một tay đưa người đã khuất rời chuyển nhà mới.

Những người phụ nữ Hà Nhì cho biết, lễ tảo mộ là một trong những lễ chính của mùa xuân. Tảo mộ không có nghĩa là buồn đau, ma chay mất mát mà là vui vẻ sang mộ cho người thân đã khuất. Vì vậy, họ không quá đau buồn trong dịp lễ này mà nhận thấy đây là dịp để sửa sang, thăm viếng phần mộ cho người thân được êm ấm nơi bên kia thế giới.

Người mẹ trẻ cũng địu con đến tham gia lễ tảo mộ. Để con hiểu được từng tập tục nghi lễ khi con còn chưa biết nói, nhưng đã biết lắng nghe, biết quan sát những văn hóa truyền thống của cha ông để lại.


Có thể thấy rõ sự khác nhau trong trang phục truyền thống của người phụ nữ Hà Nhì. Cô gái chưa chồng có khăn đội đầu và áo được trang trí với nhiều cúc bạc, hạt cườm và tua rua bằng các loại chỉ nhiều màu sắc. Áo cài cúc bên nách phải có nẹp ngực được trang trí điểm một hàng đường thêu. 


Phụ nữ có chồng sẽ có vấn tóc tết quấn vòng trên đầu cùng những bông đen vấn chặt. Nhưng nét đặc trưng trong trang phục phụ nữ Hà Nhì chính là áo hình mai rùa và hai màu nổi bật xanh đen.


Lễ cúng đầu tiên bằng tiết gà trống trước cửa mộ. Đầu mộ được dựng cây nêu treo hình các con giống để mọi người cầu nguyện. Gà luộc chín sau khi cúng lễ sẽ được chuẩn bị cho bữa ăn hưởng lộc sau khi đã kết thúc việc cúng tế.


Trai tráng trong làng, người thì lo sửa sang phần mộ, làm sạch cỏ, gia cố, sơn trát trên mộ phần. Người lại làm thịt gà, giết mổ lợn để chuẩn bị cho lễ tế.


Gà chân đen được cắt tiết, luộc nguyên con để cúng trong phần lễ.


Cầu nguyện xong, đàn ông làm thịt lợn ở một góc rừng. Đàn bà làm bánh giày và chuẩn bị đãi tiệc.

Nghi thức chính mời người chết về dùng cỗ được tổ chức ngay tại cửa mộ. Khi tiến hành nghi thức, mọi người tham gia lạy tạ và rót rượu vào một cái tô lớn đặt trên mộ, sau đó những người thân lớn tuổi chia thức ăn vào lá chuối và đặt từng phần lên cửa mộ, họ đốt nhang và đồ giấy.

Sau khi lần lượt người trong bản thắp hương cho mộ phần và đốt vàng mã thì sẽ có bữa ăn hưởng lộc. Đây là bữa ăn thể hiện tình đoàn kết của dân bản với gia chủ.

Lễ tảo mộ không chỉ do gia đình người đã khuất tổ chức mà tất cả các gia đình trong bản đều đóng góp đồ cúng, tham gia dọn dẹp phần mộ. Đây không chỉ là một nét văn hóa truyền thống Hà Nhì mà còn thể hiện vẻ đẹp của tình người trong sự đoàn kết, chia sẻ khó khăn, ngọt bùi của dân tộc Hà Nhì.

Lý Văn Sùng (sưu tầm)

Điện Biên: Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì (Lý Thào)

Điệu xòe đặc trưng của người dân tộc Hà Nhì mang ý nghĩa gắn kết cộng đồng

Những ngày giữa tháng 12, tại xã Leng Su Sìn, huyện Mường Nhé (Điện Biên). Mặc dù thời tiết đang trong những ngày mưa lạnh, nhưng vẫn cảm nhận rõ không khí đón Tết của đồng bào dân tộc Hà Nhì nơi đây.

Người dân tộc Hà Nhì đón năm mới vào ngày Rồng, tháng 12 dương lịch hàng năm và ăn Tết trong 3 ngày. Đây là dịp để mọi người trong gia đình, bạn bè, làng bản gặp gỡ, chuyện trò, ngồi bên nhau nâng ly rượu nồng và chúc nhau một năm mới no ấm, mạnh khỏe, mùa màng bội thu.

Phụ nữ dân tộc Hà Nhì chuẩn bị mâm cơm trong ngày tết cổ truyền.

Chuẩn bị cho những ngày Tết, mỗi gia đình người Hà Nhì mổ một con lợn do chính nhà mình nuôi để cúng năm mới và làm cỗ mời khách. Gan, lá lách lợn được đựng chung vào một đĩa để “làm lý”; những người lớn tuổi nhất trong nhà cùng nhau xem và đoán định một năm mới có thuận lợi và suôn sẻ. Tết của người Hà Nhì bắt đầu với nghi lễ cúng lạy tổ tiên, do người cao tuổi nhất trong gia đình đứng chân chủ lễ. Sau đó, mọi người cùng sum vầy bên mâm cơm, mời nhau những ly rượu thơm. Mâm cỗ tết của người Hà Nhì có những món ăn truyền thống như xôi nếp, lòng dồi, tiết canh, nước chấm mắc có, rau sống, bánh trôi, bánh dày.... Ngoài ra còn có các món luộc, món nướng, món canh... như các dân tộc khác.

Mọi người quây quần bên mâm cơm tết.

Sau bữa ăn, mọi người cùng thưởng thức các điệu múa dân gian của dân tộc như: Múa á mỳ sơ, múa nón Hà Nhì, múa vui sản xuất... và nắm tay nhau say trong điệu xòe đặc trưng của dân tộc. Điệu xòe của người Hà Nhì rất đặc biệt bởi có cả xòe đứng và xòe ngồi; trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, náo nức. Ngoài ra, họ còn tổ chức các trò chơi truyền thống như tù lu, tung còn... nhằm mang lại không khí vui nhộn, lao động hăng say cho bà con trong năm mới.

Người cao tuổi trong gia đình xem gan, lá lách lợn, đoán định những điềm may rủi trong năm mới.

Phụ nữ Hà Nhì nặn bánh trôi, món bánh truyền thống không thể thiếu trong mâm cỗ đón năm mới.

Người dân tộc Hà Nhì, xã Leng Su Sìn, huyện Mường Nhé ăn Tết mộc mạc, giản dị nhưng ấm áp và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Những ai được một lần đón tết với đồng bào Hà Nhì nơi đây, hẳn sẽ không bao giờ quên sự hiếu khách, những món ăn độc đáo và nụ cười, điệu múa duyên dáng của các cô gái Hà Nhì.

Lý Thào (sưu tầm)

Giản dị sắc phục dân tộc Hà Nhì (Lý Thào)

Vẻ đẹp của những bộ trang phục dân tộc Hà Nhì nằm ở sự giản dị nhưng vẫn có những nét độc đáo tạo nên bản sắc riêng.
Ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, những ngày này thời tiết giá lạnh. Người già Hà Nhì ở đây quanh năm ngồi bên bếp lửa, chỉ có người trẻ mới ra ngoài lao động. Giống như các dân tộc khác, trang phục nam giới Hà Nhì rất đơn giản. Cũng chiếc áo cánh, quần dài, cũng hàng cúc vải ngang nhưng bộ trang phục này rất thuận tiện trong lao động, sản xuất.

Bộ nữ phục người Hà Nhì gồm: quần, áo, yếm. Tất cả đều là một màu đen có trang trí họa tiết xanh. Nét đặc biệt nhất trên bộ nữ phục nằm ở mái tóc giả và chiếc khăn đội đầu. Tóc giả được tết bằng len tạo thành một búi lớn có tác dụng giữ ấm cho đầu giữa thời tiết quanh năm khắc nghiệt này. Ngoài tác dụng giữ ấm, việc đội tóc giả còn mang ý nghĩa riêng.

Lý Thào (sưu tầm)

Tết cầu mưa – nét văn hóa của dân tộc Hà Nhì

Các trò chơi dân gian của người Hà Nhì

Ngày lễ Giế Khừ Gìa – Tết mùa mưa của người Hà  Nhì huyện Phong Thổ  được tổ chức hàng năm vào đúng ngày con rắn đầu tiên (ngày Tị) trong tháng bảy âm lịch.
Người chủ lễ, là người do dân bản bầu ra, thường là khỏe mạnh, không ốm đau, bệnh tật, làm ăn, chăn nuôi phát triển, mùa màng bội thu.


Lá gan của con lợn cúng được xem là điềm báo cho năm mới
Khi đồ cúng được sửa soạn xong, chủ lễ hướng dẫn mọi người sắp mâm cúng dâng lên các thần linh. Mâm cúng được đặt cạnh cây Đu, chủ lễ bắt đầu khấn:“Hôm nay là ngày lành tháng tốt, ngày con rắn đầu tiên của tháng bảy, theo luân lý của ông cha ta để lại cho chúng con có: con lợn, quả trứng, gói xôi, bánh dầy, rượu ngon kính dâng lên các thần linh trên trời , thần linh dười đất, linh hồn của tổ tiên người Hà Nhì phù hộ cho con cháu người Hà Nhì trồng ngô, ngô có hạt; trồng lúa, lúa có bong to, hạt mẩy; trâu bò lợn gà biết sinh sôi, nảy nở, bà con trong bản khỏe mạnh để năm sau con cháu lại cúng Tết mùa mưa năm sau to hơn năm trước…”
Sau khi khấn xong, thầy cúng sẽ tháo dây buộc ở tấm ván đu rồi lấy thức ăn trên mâm cúng đặt lên ván đu, mỗi loại một ít, rồi đu đi, đu lại ba lần để tượng trưng cho điều xấu thì văng đi, điều lành thì đem lại. Sau khi thầy cúng đu xong, ông sẽ chọn ra  một cặp nam nữ (đã được cộng đồng lựa chọn từ trước) lên ván của cây đu, thầy cúng vừa đặt lời khấn vừa đẩy đôi nam nữ  trên ván của cây đu cho đủ ba lượt với ý nghĩa cầu mong sự sinh, nảy nở, xong tất cả các thành viên tham gia cúi lạy theo thầy cúng.
Kết thúc buổi cúng, thầy cúng sẽ chia cho mỗi gia đình một phần lộc (chủ yếu là thịt lợn và xôi) từ đồ cúng để cầu may, ngô và gạo sẽ được thầy vừa hát vừa tung vãi quanh cây Đu để xua đuổi tà ma không cho quấy rầy dân bản. Anh em, con cháu, hàng xóm trong bản cùng uống rượu, hát những bài hát dân ca mừng năm mới để chúc nhau; cùng nhau tham gia vòng xòe, điệu múa truyền thống, chơi đánh đu và các trò chơi dân gian.
Lễ hội diễn ra trong 5 ngày (từ 2 - 6/9) với sự tham gia của đồng bào các dân tộc Mông, Hà Nhì, La Hủ, Mảng, Si La đến từ tỉnh Lai Châu.
Một số hình ảnh lễ hội.

Người Hà Nhì chơi đánh quay

Các trò chơi dân gian

 Lý văn Sùng (sưu tầm)

Đồng bào dân tộc Hà nhì ở Lai châu (Thùy Trang)

Trong bức tranh muôn màu của 20 dân tộc Lai Châu, người dân tộc Hà Nhì được biết đến bởi sự phong phú, đa dạng về bản sắc văn hóa, với bản "Trường ca xa nhà ca" hay những tri thức dân gian về rừng, các lễ hội truyền thống... nhưng không thể không nhắc đến Tết cổ truyền "Có nhè trà" thường tổ chức vào cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch, nhằm ngày con rồng.

Trong các thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của người Hà Nhì ở Tây Bắc Việt Nam từ thế kỷ thứ VIII, nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây và Tết cổ truyền "Có nhè trà" là một trong những bản sắc văn hóa vẫn được lưu truyền, gìn giữ cho tới ngày nay. Tết cổ truyền là dịp để cho mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, các gia đình đi chúc Tết lẫn nhau, từ anh em, họ hàng đến mọi nhà trong bản, sau một năm lao động, thu hoạch mùa vụ và cũng là tròn một năm theo cách tính của người Hà Nhì.
 Vào những ngày giáp Tết, cùng với chủ động dọn dẹp, vệ sinh nhà cửa, các đường đi lối lại trong bản, cũng như các sân chơi, nơi các nam thanh nữ tú và mọi người dân trong bản cùng tổ chức các trò chơi dân gian, bài hát, điệu múa truyền thống của người Hà Nhì trong những ngày Tết, thì trước khi mổ lợn và chế biến các món ăn, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh dày từ gạo nếp nương, đây là lễ vật không thể thiếu được khi dâng cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, lễ vật còn có lợn hoặc gà, tùy theo điều kiện từng gia đình, nhưng hầu như nhà nào cũng mổ lợn, nếu không thì chung nhau.
Theo tín ngưỡng truyền thống, người Hà Nhì thường cúng cả bên nội và bên ngoại (bên ngoại chỉ để tượng trưng) đặt bàn thờ ở bên ngoài phòng của gia chủ, ở một góc nào đó, tuỳ vào sự bố trí, sắp xếp của mỗi gia đình. Bàn thờ của người Hà Nhì được đặt trong buồng của gia chủ và chủ nhà sẽ là người đảm nhiệm các nghi thức cúng lễ trong ngày Tết cổ truyền.

Trong những ngày Tết cổ truyền của người Hà Nhì, từ người già đến trẻ nhỏ, ai cũng đều diện những bộ quần áo mới rực rỡ sắc màu để đi chơi Tết. Ở các sân chơi của bản sẽ diễn ra rất nhiều những trò chơi như: Đu quay, đánh cầu bằng tay, chơi cù... và cả những bài hát, điệu múa, hát vui, hát mừng năm mới, hát dao duyên, đối đáp giữa những chàng trai, cô gái đang đến tuổi cập kê.

 Thùy Trang (sưu tầm)

Trang phục của người Hà Nhì ở Bát Xát, Lào Cai (Hoàng ấm)

Vũ điệu xanh” Hà Nhì.

Người dân tộc Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là tộc người sống gần gũi với thiên nhiên. Có lẽ vì thế mà trang phục của họ thường mang sắc xanh vùng núi rừng Tây Bắc.
Từ xưa tới nay, ngườidân tộc Hà Nhì nổi tiếng về việc chịu thương, chịu khó. Ngoài việc trồng lúa nước trên những thửa ruộng bậc thang, họ còn tự tay trồng bông, dệt vải để thêu dệt ra những bộ trang phục đặc trưng của những chàng trai, cô gái dân tộc mình.

Thông thường, một bộ trang phục của phụ nữ Hà Nhì cũng gồm đầy đủ mũ, áo, dây lưng và yếm. Nhưng điểm đáng chú ý nhất của trang phục người Hà Nhì là chiếc mũ đội đầu. Đối với phụ nữ Hà Nhì, những chiếc mũ được tết bằng đuôi ngựa chạy ngang trên trán tạo thành một đoạn tóc giả trang trí rất bắt mắt.
Còn mũ trẻ em thường có màu chàm, hình trụ thấp, mặt trên xẻ múi nhưng khá bằng phẳng và có đính nhiều đồng bạc trắng. Đồng bạc này thể hiện cho ước muốn giàu sang, no đủ và có tác dụng tránh gió độc. Mũ của bé trai có tua rua vải, màu sắc khá sặc sỡ. Mũ của trẻ gái thì diêm dúa hơn, bởi được đính thêm những dải hạt cườm đủ màu sắc. Chiếc mũ trên đầu trẻ em thể hiện con mắt mĩ thuật, tạo hình và sự phối màu dân gian đặc sắc của người Hà Nhì. Quan niệm chiếc mũ giữ hồn vía trẻ thơ, nên người Hà Nhì thể hiện sự nâng niu, yêu quý, tập trung tô vẽ bằng nhiều chất liệu, làm cho em bé trông càng ngộ nghĩnh, xinh xắn hơn.

Mũ của trẻ em Hà Nhì có đính nhiều đồng bạc trắng.

Ngoài chiếc áo cánh với gam màu chủ đạo là màu xanh của thiên nhiên mặc bên ngoài, người Hà Nhì sử dụng chiếc yếm mặc thêm bên trong và hơi lộ ra ngoài để hở những họa tiết, hoa văn riêng. Trang phục của người Hà Nhì nổi bật với những đường viền lượn cong như sóng nước và mây vờn. Những bông hoa được làm thủ công bằng bạc nổi bật lên trên nền xanh đen của bộ áo. Những chiếc khuy vải cũng được tạo hình bông hoa để liên kết mảnh yếm lại.
Người dân tộc Hà Nhì cũng rất quan tâm đến cánh tay của chiếc áo, họ tập trung thêu thêm những họa tiết đặc trưng của dân tộc mình vào đây. Theo những người phụ nữ Hà Nhì, muốn hoàn thiện bộ trang phục phụ nữ và trẻ em thường phải mất tới khoảng hơn một tháng làm thủ công, trong đó việc thêu thêm những hoa văn tại cánh tay áo mất tới cả tuần lễ.

Những tà áo đặc trưng của người Hà Nhì.

Đối với trang phục của đàn ông, quần áo của họ thường màu đen có viền cổ màu xanh, trên đầu là những chiếc khăn vấn thay cho chiếc mũ đội đầu, vừa có tác dụng che nắng và thấm mồ hôi. Cúc áo cài trước ngực tương đối đơn giản nhưng đều làm bằng bạc vì họ quan niệm bạc vừa có thể trừ tà ma lại rất đẹp để trang trí.
Người dân tộc Hà Nhì quanh năm chỉ sử dụng một kiểu trang phục duy nhất. Chính vì vậy mà bộ trang phục này thường được dùng chung cho ngày thường lẫn những dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới hỏi…
Người dân tộc Hà Nhì vất vả trong cuộc sống nhưng họ không quên gìn giữ nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức của mình đó là bộ trang phục, bởi đối với họ bộ trang phục tượng trưng cho văn hóa, cho vẻ đẹp của riêng dân tộc mình.

Hoàng ấm (sưu tầm)

Người Hà Nhì ở Y Tý (Hoàng ấm)

Người dân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý có nghề đan mây tre truyên thống nổi tiếng trong vùng

Y Tý là xã vùng cao, biên giới, nằm ở phía Bắc huyện Bát Xát (Lào Cai). Xã có 16 thôn, bản thì 8 thôn là người Hà Nhì sinh sống. Ở độ cao trên 2.000m, để chống lại cái giá rét của mùa đông, người Hà Nhì thường làm những ngôi nhà bằng đất, tường dày đến vài gang tay.

Người dân tộc Hà Nhì có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước. Họ sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi gia súc, đan lát, dệt vải. Trang phục của người Hà Nhì khá giản dị, đàn ông mặc đồ xanh đen còn phụ nữ mặc yếm xanh thêu hoa văn nổi. Với phụ nữ Hà Nhì, cầu kỳ nhất lại ở mái tóc. Họ đội trên đầu một cuộn tóc giả to, màu đen, được bện bằng sợi tách ra từ vỏ rễ cây. Bộ tóc giả không chỉ để làm đẹp mà còn có tác dụng giữ ấm đầu, làm gối hay khăn quàng cổ.

Trang phục của ngườidân tộc Hà Nhì ở xã Y Tý

Bếp nấu ăn của người dân tộc Hà Nhì được đặt ngay trong nhà

Thôn, bản của người Hà Nhì hôm nay ngày càng khang trang, sạch đẹp. Nhờ có ý thức gìn giữ văn hóa truyền thống nên thôn, bản của người Hà Nhì thu hút khá đông khách du lịch đến trải nghiệm và tìm hiểu. 

Hoàng ấm (sưu tầm)

Tết dân tộc Hà Nhì, Lai Châu (Lý Văn Sùng)

Các gia đình tổ chức gói bánh dày để cúng tổ tiên.

Khác với tết Nguyên đán của người Kinh, theo tập tục truyền thống, tết của dân tộc Hà Nhì ở huyện Mường Tè, Lai Châu được tổ chức vào ngày con Rồng đầu tiên của tháng 12 Dương lịch sau khi được sự bàn bạc thống nhất của hội đồng già làng, trưởng bản.
Tết Nguyên đán người dân tộc Hà Nhì còn có tên gọi là tết Có Nhẹ Chà. Trước kia tết diễn ra trong vòng 7 ngày 7 đêm, nhưng đến nay đã rút lại chỉ còn 3 ngày 3 đêm. Trong những ngày này, các gia đình trong bản sẽ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mà chuẩn bị cỗ, thông thường nhà nào cũng mổ lợn. Đón tết, các thành viên trong gia đình cầu mong sức khỏe, may mắn, mưa thuận gió hòa…

Dịp lễ tết, họ hàng tập trung ở nhà trai trưởng làm lễ cúng bái, nhưng không có hương khói nghi ngút. Ban thờ không thể thiếu thịt lợn, bánh cha lê (bánh trôi), ngoài ra cũng không thể thiếu rượu, gạo và lá chè tươi. Mâm cúng sáng ngày thứ nhất đặt lên bàn thờ tổ tiên ngoài bát nước chè, bánh dày, bánh trôi, rượu, gừng, gói muối ớt, còn phải có thêm thịt lợn, các loại hoa quả, các sản vật trồng trong vườn nhà, mỗi thứ một ít.

Người Hà Nhì hát dân ca mừng tết.

Người Hà Nhì vẫn giữ được phong tục truyền thống, sáng ngày mồng một tết, con cháu nội ngoại đến chúc tết ông bà và cúi lạy bàn thờ tổ tiên. Sau khi cúng xong thì cả gia đình cùng ăn bữa cỗ mừng năm mới. Cháu nội, cháu ngoại cũng được ông bà chia lộc và cầu phúc cho lớn nhanh, mau chóng trở thành trụ cột trong gia đình. Con dâu mới trong nhà được mẹ chồng cho lộc cúng bàn thờ và cầu mong cho khoẻ mạnh, gia đình thuận hoà, êm ấm.
Ngày mồng một, người Hà Nhì rất thích các em bé từ 12 tuổi trở xuống, không kể trai gái đến xông nhà, đó là điều may mắn của gia đình. Sau bữa cơm tụ họp gia đình, mọi người lựa chọn bộ trang phục truyền thống dân tộc đẹp nhất để đi hát, đi chúc tết từ bản nọ sang bản kia. Thanh niên thường tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống như: đánh cầu lông gà, hát giao duyên, đánh cù... Có lẽ sôi động nhất là khu vực hát múa cộng đồng, bởi ở đó đông vui, rộn ràng tiếng chiêng, tiếng trống.

Thiếu nữ Hà Nhì xúng xính váy áo đón tết.

Vào ngày thứ 3, kết thúc tết Hồ Sự Chà, tức là ngày con dê (Zo-no), các gia đình làm một mâm lễ cúng trời đất để cảm tạ đã ban sức khoẻ, che chở và cầu mong năm mới mùa màng sẽ bội thu, súc vật đầy đàn, mọi người trong nhà được bình an...
Người dân tộc Hà Nhì chủ yếu trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương, đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vườn cạnh nhà.
Trong thời hiện đại, bản sắc văn hoá truyền thống trong tết người Hà Nhì vẫn còn nguyên vẹn và ngày càng phát huy giá trị của nó trong đời sống cộng đồng dân tộc.

Lý Văn Sùng(sưu tầm)

Trang phục dân tộc Hà Nhì (Lý Thào

Trang phục dân tộc Hà Nhì trong ngày hội
Cũng như bao dân tộc khác, người dân Hà Nhì tự tay trồng bông, dệt vải từ rất sớm, rồi tự thêu những bộ trang phục truyền thống để mặc trong những dịp lễ, tết.
Trang phục truyền thống của người dân tộc Hà Nhì thường là màu chàm đen, màu xanh hay màu trắng. Quần áo của đàn ông thường chỉ có một màu, cúc cài trước ngực, trong khi đó, trang phục của phụ nữ áo cổ tròn, phần cuối vạt trước và sau cắt lượn hình tam giác cân. Ngoài ra, phụ nữ Hà Nhì còn đội chiếc khăn vải được trang trí bằng các đồng xu nhôm, có làm quả bông bằng các loại chỉ màu, làm tua rua đầu quả bông.

Một bộ trang phục đầy đủ của phụ nữ Hà Nhì bao gồm mỹ, áo, dây lưng và yếm. Trang phục của người Hà Nhì nổi bật với những đường viền lượn cong như sóng nước và mây vờn. Những bông hoa được làm thủ công bằng bạc nổi bật lên trên nền xanh đen của bộ áo. Những chiếc khuy vải cũng được tạo hình bông hoa để liên kết mảnh yếm lại.
Người dân tộc Hà Nhì rất quan tâm đến cánh tay của chiếc áo, họ tập trung thêu những họa tiết đặc sắc, đặc trưng của dân tộc mình. Màu sắc chủ đạo mà người Hà Nhì thường sử dụng là màu xanh rất quen thuộc trong đời sống và thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc. Ngoài chiếc áo, phụ nữ Hà Nhì còn sử dụng trang phục Yếm mặc thêm ở bên trong và hơi lộ ra bên ngoài để hở những họa tiết và hoa văn riêng.
Đặc điểm ấn tượng nhất trên trang phục của người phụ nữ Hà Nhì là chiếc mũ đội đầu. Theo truyền thống, mũ được tết bằng đuôi ngựa chạy ngang trên trán tạo thành một đoạn tóc giả trang trí rất bắt mắt. Còn mũ trẻ em thường có màu chàm, hình trụ thấp, mặt trên xẻ múi nhưng khá bằng phẳng và có đính nhiều đồng bạc trắng. Đồng bạc này thể hiện cho ước muốn giàu sang, no đủ và có tác dụng tránh gió độc.
Người dân tộc Hà Nhì có nhiều loại mũ, dành cho nhiều loại đối tượng khác nhau. Mũ cho bé trai thì có tua rua vải, màu sắc khá sặc sỡ, mũ cho bé gái thì diêm dúa hơn và đính thêm dải hạt cườm, mũ dành cho thiếu nữ chưa chồng càng được đầu tư trang trí hoa văn với nhiềucúc bạc, nhiều hạt cườm, nhiều tua rua bằng các loại chỉ màu sặc sỡ, còn mũ cho đàn ông thì đơn giản và chỉ có một màu.

Đối với trang phục của đàn ông, quần áo của họ thường màu đen có viền cổ màu xanh, trên đầu là những chiếc khăn vấn thay cho chiếc mũ đội đầu, vừa có tác dụng che nắng và thấm mồ hôi. Cúc áo cài trước ngực tương đối đơn giản nhưng đều làm bằng bạc vì họ quan niệm bạc vừa có thể trừ tà ma lại rất đẹp để trang trí.
Một bộ trang phục được hoàn thiện mất khoảng hơn 1 tháng, trong khi đó, việc thêu thêm những hoa văn tại cánh tay áo mất tới cả tuần lễ. Người dân Hà Nhì thường sử dụng một bộ trang phục trong ngày thường hoặc dịp lễ, tết hay hội hè, đình đám.
Ngày nay, để thuận tiện trong sinh hoạt, lao động hàng ngày, phụ nữ Hà Nhì mặc quần áo như người Kinh, chỉ buộc thêm một tấm vải vào phía sau. Tấm vải đó có ý nghĩa như một “bức màn” che chắn, thể hiện sự kín đáo, lịch sự và tôn trọng người khác của phụ nữ Hà Nhì.

Lý Thào ( sưu tầm)

Lễ Gạ Ma Thú của dân tộc Hà Nhì (Lý Thào)

 Người dân tộc Hà Nhì có rất nhiều ngày cúng trong năm, nhưng tưng bừng và nhộn nhịp nhất là ngày Gạ Ma Thú (cấm bản). Gạ Ma Thú bao gồm nhiều lễ cúng như: cúng mó nước, cúng rừng cấm, cúng thần mùa màng, cúng đầu bản, cuối bản, cúng thần sét, cúng thần lửa… và điều đặc biệt nhất trong ba ngày cúng bản nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mọi sinh hoạt tín ngưỡng và vui chơi được điều hành bởi thầy cúng và trưởng bản.

Ngày đầu tiên trong ba ngày làm lễ cúng rừng cấm. Trong đời sống người Hà Nhì rừng quan trọng lắm, ông thần rừng che chở cho bản làng, cung cấp cho con người thịt chim thú và rau quả. Chính vì vậy, theo phong tục lễ cúng trên rừng cấm chỉ được tập trung những trai bản khoẻ mạnh, những thợ săn điêu luyện, họ tự mang lợn, gà, nếp thơm mang lên làm lễ vật báo cáo và trả ơn thần trong trong năm qua đã cho thợ săn nhiều con thú, nhiều rau quả tươi xanh. Sau khi cúng xong, họ tự ăn uống chúc tụng nhau đi săn không bị  hổ, gấu vồ, nhà nào cũng có thịt sấy treo đầy trên gác bếp.
Lễ cúng quan trọng thứ hai là lễ cúng bản, diễn ra ở đầu bản và cuối bản. Trong lễ cúng này cả bản đều tham gia để cầu mong trong năm bản làng bình yên, chăn nuôi, cấy trồng mùa màng tươi tốt, không bị dịch, sâu bệnh. Sau lễ cúng người nào cũng cố mời nhau về nhà mình ăn uống, thưởng thức rượu ngô đầu mùa mới nấu, cơm nếp nương dẻo thơm. Theo quan niệm xa xưa, nhà nào có nhiều khách, hết nhiều rượu thì sẽ may mắn. Sau bữa ăn mọi người lấy cơm nếp vo tròn ném vào nhau với ý nguyện mùa sau thóc gạo sẽ dư thùa.


Sáng ngày thứ ba, khi con gà rừng chưa gáy, núi rừng còn phủ một màn sương trắng thì cả bản đã thơm lừng mùi cơm nếp, bánh ngô. Trong ba ngày cúng bản, các thiếu nữ váy áo sặc sỡ, tập trung từng tốp chơi cầu. Quả cầu được làm bằng lông gà và vỏ cây chuối khô. Người nào làm rơi cầu sẽ bị cả tốp xúm lại véo tai đến khi hai tai đỏ lừ mới thôi. Tại các gia đình, phụ nữ dậy sớm đồ xôi, làm bánh ngô để làm quà tặng cho những vị khách ở xa đến bản. Người Hà Nhì lâu ngày gặp nhau cũng khóc, chia tay cũng khóc.










Lý Thào (sưu tầm)

Nét văn hóa đặc sắc trong trang phục của dân tộc Hà Nhi (Lý Thào)

Phụ nữ Hà Nhì trong bộ quần áo truyền thống

Đến với Y Tý, một xã vùng cao thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai chúng ta không chỉ được ngắm vẻ đẹp của núi rừng hùng vĩ của mây trời, mà còn cảm nhận được nhiều nét độc đáo của văn hoá cổ truyền, cuộc sống gắn bó với thiên nhiên của người dân tộc Hà Nhì qua cách cư trú, đặc biệt là bộ trang phục mang nhiều nét văn hóa đặc trưng riêng so với các dân tộc ít người đang sinh sống tại huyện Bát Xát.

Trước kia, để làm ra được một bộ trang phục truyền thống, người phụ nữ Hà Nhì phải tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm và tự may trang phục. Những bộ trang phục của nam và nữ đều được may từ vải chàm do họ tự dệt với màu xanh hay màu đen đặc trưng. Còn bây giờ tiện hơn, họ chỉ cần mua vải ở chợ rồi tự nhuộm và may những bộ trang phục truyền thống cho chính gia đình của mình.

Phụ nữ Hà Nhì ai cũng đều biết thêu may quần áo

Thiếu nữ Hà Nhì được mẹ dạy khâu vá

Trong trang phục của người dân tộc Hà Nhì, những người phụ nữ lớn tuổi sẽ mặc những bộ quần áo màu đen hoặc chàm kể cả trong ngày thường hay những dịp lễ Tết quan trọng. Còn đối với thanh niên hay người đã lập gia đình thì sẽ khác hơn, vì quần áo của họ sẽ được trang trí cầu kì hơn. Ở gấu tay áo và gấu quần sẽ được thêu những đường tròn song song màu xanh điểm xuyết với màu trắng. Vào những dịp lễ tết, hội hè, họ mặc thêm một chiếc yếm ở bên ngoài để hở những họa tiết, hoa văn riêng.
Trang phục của người dân tộc Hà Nhì nổi bật với những đường viền lượn cong như sóng nước và mây vờn. Những bông hoa được làm thủ công bằng bạc nổi bật lên trên nền xanh đen của bộ áo. Những chiếc khuy vải cũng được tạo hình bông hoa để liên kết mảnh yếm lại. Màu sắc trên bộ trang phục truyền thống của người Hà Nhì thường là màu xanh tượng trưng cho những cây xanh sống tại đất rừng Y Tý. Những hoa văn uốn lượn thì tượng trưng cho những bông hoa ban trắng. Còn những đường gấp khúc thì tượng trưng cho những thửa ruộng bậc thang. Để hoàn thiện bộ trang phục phụ nữ và trẻ em thường phải mất tới khoảng hơn một tháng làm thủ công, trong đó việc thêu thêm những hoa văn tại cánh tay áo, gấu quần mất tới cả tuần lễ. Đối với trang phục của đàn ông, quần áo của họ thì lại đơn giản hơn, thường chỉ có màu đen hoặc chàm, cùng những hàng cúc vải ngang thuận tiện trong lao động, sản xuất, trên đầu là những chiếc khăn vấn thay cho chiếc mũ đội đầu, vừa có tác dụng che nắng vừa có thể thấm mồ hôi.

Trang phục truyền thống của người già

 
Trang phục nam và nữ dân tộc Hà Nhì

Họa tiết trên gấu quần của người dân tộc Hà Nhì


Trang trí trên yếm của người dân tộc Hà Nhì



Trang phục của đàn ông Hà Nhì

Nét đặc biệt nhất trong trang phục của người Hà Nhì nằm ở mái tóc giả và chiếc khăn đội đầu. Tóc giả được tết thành một búi lớn có tác dụng giữ ấm cho đầu giữa thời tiết quanh năm khắc nghiệt này. Ngoài tác dụng giữ ấm, bộ tóc giả còn được coi là đồ trang sức của người phụ nữ Hà Nhì. Mỗi khi đeo tóc giả, các cô gái thường xõa mái tóc sang bên phải, chải chuốt thật kỹ rồi mới kết nối tóc giả vào, bện chặt với nhau tạo thành những mái tóc dài đến chấm đất. Với những phụ nữ Hà Nhì, mái tóc là một phần quan trọng. Trước kia ngày thường cũng như ngày hội, họ đều không rời mái tóc của mình dù nó rất nặng và bất tiện nhưng bây giờ họ chỉ đội tóc giả khi có lễ tết hoặc những dịp quan trọng.
Cách đội tóc cũng phải theo quy định của người xưa để lại, với những cô gái trẻ hay những người phụ nữ đã lấy chồng có con thì tóc sẽ được vấn sang ngang hay còn gọi là tóc đơn. Nhưng đến khi lên chức bà thì kiểu tóc sẽ thay đổi, tóc sẽ được vấn sang hai bên, gọi là tóc đôi. Do đó chỉ cần nhìn vào kiểu tóc ta có thể xác định được thứ bậc trong gia đình của người phụ nữ. Trước kia, ngày thường cũng như ngày hội, phụ nữ đều không rời bộ tóc giả. Nhưng ngày nay để thuận lợi hơn trong việc đi nương, làm rẫy thì vào những ngày thường người phụ nữ không nhất thiết phải vấn tóc nhưng bắt buộc phải đội khăn. Người già thì đội khăn chàm đen, người trẻ thì đội khăn xanh. Còn vào ngày lễ tết thì bắt buộc phải vấn tóc.
Đến với Y Tý trong những ngày lễ hội, chúng ta không khó để có thể bắt gặp những cô thiếu nữ trong trang phục truyền thống của người Hà Nhì. Dù có vất vả trong cuộc sống nhưng người Hà Nhì vẫn không quên gìn giữ nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức của mình đó là bộ trang phục, mái tóc bởi đối với họ bộ trang phục tượng trưng cho văn hóa, cho vẻ đẹp của riêng dân tộc mình.

Một tiết mục văn nghệ đặc sắc của người Hà Nhì


 Lý Thào (sư tầm)