Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Hrê
Showing posts with label ₪ Dân tộc Hrê. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Hrê. Show all posts

Wednesday, July 13, 2016

Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của dân tộc H'rê (Lăng Văn Định)

Dân tộc Hrê còn có các tên gọi khác Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ,  Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me. Dân tộc Hrê cư trú chủ yếu ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão (Bình Ðịnh).

Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn… đều cúng bái. Vì vậy hàng năm họ đều tổ chức những nghi lễ hay lễ hội để xua đi những xúi xẻo, của dịch bệnh, cầu mong điều an bình trong cuộc sống.

Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của dân tộc Hrê (Lăng Văn Định)
Người Hrê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy với kỹ thuật canh tác lúa nước như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi nhằm phục vụ các lễ cúng bái. Vì vậy, Tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa, khi gieo cấy và khi thu hoạch, cất lúa vào kho.

Vị trí người đàn bà chủ lúa – vợ chủ nhà là người quản lý lương thực được coi là có liên hệ thần bí với hồn lúa. Ngày cúng cơm mới, bà ta lấy lúa từ ruộng rẫy về rang, giã gạo, nấu cơm rồi chịu lễ và một mình ăn cơm nấu trong “nồi thiêng”. Cũng chỉ bà mới được tỉa lúa làm phép, đem gùi lúa đầu tiên về nhập kho.

Lễ hội đâm trâu
Lễ hội đâm trâu của người Hrê luôn thu hút đông đảo dân làng, người quen đến dự. Người Hrê tổ chức lễ hội nhằm cầu an, ngăn ngừa bệnh tật. Ðây là nghi lễ mang tính chất cộng đồng.

Bước đầu tiên của lễ cúng trâu là dựng cây nêu (cọc buộc trâu để đâm), Cây nêu như một trục thông linh. Thời gian chuẩn bị cây nêu káo dài cả tháng, với sự tham gia của những người thợ thủ công điêu luyện.

Các trai tráng trong làng được giao nhiệm vụ vào rừng chặt hạ 5 cây gỗ, mỗi cây có đường kính 15cm và dài trên 20m, để nguyên cả cành, lá. Ngày nay, người ta lấy cây tre để làm cây nêu (giống người Kinh). Dùng 1,2m phía gốc để chôn, còn lại chia làm 3 phần để chạm khắc: hình răng cưa tượng trưng cho núi đồi; đường lượn sóng tượng trưng cho sông, suối; các hình ô vuông tượng trưng cho ruộng đồng; các hình tam giác đối đỉnh tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra còn chạm trổ hình các con vật như khỉ, hươu, nai, chim chèo bẻo, tu hú, sóc, chim sẻ… cây cối, mặt trời, mặt trăng…Đầu cột nêu là hình 1 cái lá dài 1,5m được đan bằng sợi dây mây chẻ nhỏ, giữa lá có hình chim chèo bẻo bằng gỗ, màu vàng. Đó là biểu tượng của họ, bởi theo họ, chim chèo bẻo là một loài chim hiền lành, trung thực, yêu lao động, ghét lười biếng và ngoan cường. Việc chôn cây, theo họ còn là sự giao thoa giữa âm và dương. Nơi đâm trâu phải là nơi khu rừng nhỏ, nơi ấy gọi là đất thiêng.

Sau khi chủ lễ và thầy cúng xin phép thần linh, người ta dẫn trâu ra buộc ở cây nêu. Rồi thầy cúng mời thần linh về nhận lễ, mọi người vừa đánh chiêng, trống, vừa nhảy múa ca hát xung quanh con trâu.

Vị chủ lễ mặc quần áo dài đen, đầu chít khăn, tay cầm hộp trầm hương bốc khói đi quanh con trâu, miệng lầm rầm bài cúng cầu mong thần linh phù hộ cho gia đình, làng bản.

Sau khi hoàn tất thủ tục, chủ lễ đâm nhát dao đầu tiên vào con trâu (đối với lễ gia đình). Đối với lễ đâm trâu cộng đồng, hai trai làng cầm giáo dài xông vào đâm trâu như 2 chiến binh. Tiếp đến là những thanh niên khoẻ mạnh, tay cầm giáo mác nối đuôi nhau vừa ca hát, nhảy múa, vừa đâm trâu.

Con trâu ngã xuống, người ta lấy máu trâu bôi lên hoa văn của cây nêu, xả thịt trâu một phần chia về bếp các hộ gia đình, bếp làng có người chế biến đồ cúng cho thần linh.

Tiếp đó người ta thịt heo, gà để tế thần và trọn vẹn “tam sinh”. Khi tế thần, phụ nữ được phân việc dâng rượu. Mọi người cùng nhảy múa, ca hát, tiếng hú dài xen lẫn nhịp trống, chiêng làm náo động cả một vùng. Lễ đâm trâu thường kéo dài 2 đến 3 ngày đêm. Ở người Hrê, cũng kéo dài tới 5, 7 ngày đêm… thu hút nhiều làng bản lân cận cùng tham dự.

Trong các lễ hội văn hóa – thể thao, cúng trâu, cúng được mùa là dịp để trai gái trong và ngoài làng cùng uống rượu, cùng múa hát và mạnh dạn tỏ tình với nhau.
Lăng Văn Định (suu tầm)

Tục mai mối vợ chồng của dân tộc H'rê (Hứa Ban Mai)

Mỗi cộng đồng tộc người đều có phong tục tập quán, nghi thức dựng vợ gả chồng. Dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi, chuyện dựng vợ gả chồng trưc tiên là do người đi mai mối (đi hỏi) gầy dựng nên, hoặc là do hai bên gia đình kết bạn làm sui gia với nhau, tức cha mẹ sắp đặt con cái lấy vợ lấy chồng theo ý của mình, làm sui với nhau lúc con còn nhỏ chưa tuổi kết hôn (tảo hôn), gọi là “Ta proi enh ‘yoh”, thậm chí còn đang trong bụng mẹ, gọi là “Ta proi enh cleack”.

Tuy nhiên, khi đến lúc chuẩn bị tổ chức đám cưới cho đôi vợ chồng cũng phải có người mai mối do hai bên gia đình thống nhất mời, hoặc một bên gia đình mời. Người mai mối vợ chồng, vùng Ba Tơ gọi là “Coq xan ” (nghĩa là con chó săn), hay còn gọi là “Ngai hpôch ong mai”; vùng Sơn Hà gọi là “Ngai paro/Ngai axrêu”. Người mai mối vợ chồng cũng có thể là đàn ông hoặc đàn bà đã lớn tuổi, có khiếu ăn nói, được nhiều người trong cộng đồng quý trọng, và cũng có thể là người thân, họ hàng gia đình bên trai hoặc bên gái.

Tục cúng trước khi đám cưới của người Hrê ở Ba Tơ.
Để cho công việc được chắc chắn hơn, thường thì người mai mối tìm hiểu, thăm dò tình cảm người con gái trước, rồi mới thăm dò con trai. Nếu thấy hai người có vẻ ưng ý, có cảm tình với nhau thì người mai mối tiếp tục tìm hiểu, thăm dò cha mẹ của hai bên. Cảm thấy thuận buồm xuôi gió thì người mai mối mới đến tận nhà hai bên gia đình, đặt vấn đề chính thức. 

Khi hai bên đều đã đồng ý, lúc này người mai mối có nhiệm vụ làm trung gian mối liên hệ giữa hai bên gia đình. Tất cả mọi hoạt động quan trọng của hai bên gia đình đều có sự tham gia góp ý kiến của người mai mối, xem như một thành viên của hai gia đình vậy, được hai bên gia đình hết sức quý trọng, tiếp đãi chu đáo.

Từ khi đã đồng ý làm sui với nhau, hai bên gia đình thống nhất ngày để nhà gái cõng củi cho nhà trai, gọi là “Pôơq loang unh ca proi”. Nhà gái chọn các chị em phụ nữ trong làng khoảng 20 - 30 người (tùy theo khả năng) đi lên rừng kiếm củi để cõng về cho nhà trai. Nhà trai chuẩn bị cơm, rượu ngon để tiếp đãi đoàn cõng củi nhà gái. Một thời gian sau nhà gái cũng tổ chức công việc gì đó để cho nhà trai làm. Và đây cũng là dịp để cho chú rể tương lai thể hiện tài năng của mình đối với gia đình nhà vợ.

Sau đó có thể trong năm, hoặc một hai năm sau, thậm chí lâu hơn nữa mới có thể tổ chức đám cưới cho đôi vợ chồng trẻ. Trong thời gian chưa tổ chức đám cưới, người mai mối luôn giữ mối liên hệ mật thiết với hai bên gia đình; đồng thời theo dõi diễn biến tâm tư tình cảm của hai đứa trẻ, phòng ngừa những dèm pha của thiên hạ, khi nào được tổ chức đám cưới xong mới được xem là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Công việc mai mối vợ chồng xem ra khá thú vị, nó mang nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết nam nữ thanh niên người Hrê tự tìm hiểu bạn tình và tự quyết định lấy vợ lấy chồng cho mình, không có sự sắp đặt của cha mẹ như thời xưa nữa. Và một số nét đẹp văn hóa trong đám cưới của người Hrê hầu như không còn, trong đó có tục mai mối vợ chồng. 

Hứa Ban Mai (sưu tầm)

Dân tộc H'rê (Long Chí Đức)

Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ra-ngói

Dân tộc Hrê ở nước ta cư trú chủ yếu ở Quảng Ngãi và Bình Định kinh. Dân tộc Hrê còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy. Theo số liệu thống kê năm 2009 ở tỉnh Yên Bái có 02 người dân tộc

Hrê sống tại huyện Mù cang Chải.
Tiếng nói của người Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ môn-Khme. Nghề truyền thống của người Hrê là sản xuất lúa nước, người Hrê sống ở nhà sàn. Trang phục của người Hrê trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai.

Long chí Đức (sưu tầm)

Nét đẹp văn hóa trong lễ cưới của người H'rê An Lão (Từ Duy Tốn)

Uống rượu cần là dịp để trai, gái tỏ tình…

Huyện An Lão hiện có hơn 30 ngàn người, với 3 dân tộc cùng sinh sống là Kinh, Hrê và Ba Na, trong đó người Hrê chiếm hơn 1/3 dân số toàn huyện. Trước đây tộc người Hrê có nhiều tên gọi khác nhau như Chăm Rế, Thạch Bích… nhưng sau này chính thức được gọi là Hrê. Dân tộc Hrê thường sinh sống theo các plây (làng). Mỗi plây thường có từ 15 - 25 nóc nhà dựng theo ven các sông, suối hoặc trên khu đất đồi thấp gần nguồn nước. Một nét đẹp trong nếp sống của người Hrê là có sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Hầu hết người Hrê sinh ra đều lấy họ Đinh phỏng theo họ người Kinh…

Trong các lễ hội văn hoá - thể thao, cúng trâu, cúng được mùa là dịp để trai gái trong và ngoài làng cùng uống rượu, cùng múa hát và mạnh dạn tỏ tình với nhau. Đến khi những chóe rượu cần đã nhạt, thức ăn trong cái bụng, cái đáp đã cạn thì họ chia tay và hẹn gặp nhau ở làng bên vào một dịp khác. Một khi trai gái đã ưng cái bụng, đôi mắt cùng liếc, đôi lòng cùng ưa thì về thưa với cha mẹ đến hỏi hoặc nhờ người làm mai mối. Khi cha mẹ hai bên đồng ý thì hẹn ngày tổ chức đám cưới, tiệc cưới được tổ chức một ngày ở nhà trai và một ngày ở nhà gái. Không nhất thiết phải đón dâu hay ở rể, bên nào muốn lấy người về thì phải đem quần áo, kiềng bạc đưa cho nhà kia gọi là đồ dẫn cưới. Ngày cưới hàng xóm mang rượu đến chúc mừng và họ ăn uống với nhau suốt 2, 3 ngày liền.

Trong lễ cưới truyền thống của người Hrê có một sắc thái riêng trong từng tuần tự nghi lễ, mang ý nghĩa giáo dục thiêng liêng ràng buộc sống thuỷ chung. Lễ cưới thường được tổ chức lúc nửa đêm trở về sáng. Người Hrê cho rằng đây là giờ phút giao hòa của trời đất, các thần linh mới ứng nghiệm nhất để chứng kiến nghi lễ và lòng thành của đôi vợ chồng trẻ và ban cho họ hạnh phúc và no ấm. Ngày cưới họ hàng hai bên đều ăn mặc đẹp với những chiếc ly tu (váy) có viền hoa văn, áo mới màu xanh hoặc nâu, tay và cổ đeo nhiều trang sức bằng cườm sặc sỡ màu sắc và vòng bạc thật óng ánh, chỉ riêng cô dâu và phụ dâu lại ăn mặc rất giản dị, đầu trùm che kín mặt để không ai nhận ra, đánh lừa được “ma quỷ”, có như thế cô dâu mới đến được nhà trai một cách an toàn. Khi đoàn đưa dâu đến cầu thang nhà sàn thì tiếng cồng chiêng của nhà trai nổi lên rộn rã để đón dâu và mừng nhà họ gái nhập môn, lúc này cô dâu phải huơ chân lên khóm lửa đã đốt sẵn ở cầu thang để làm lễ nhập hồn. Kế tiếp là phần nghi lễ xói chóe rượu cần. Bốn người được uống rượu cúng là ông mai, già làng, đại diện nhà họ gái và thầy cúng. Giây phút linh thiêng nhất, quan trọng nhất, ý nghĩa nhất của lễ cưới là đôi vợ chồng trẻ thực hiện nghi lễ nhận vợ, nhận chồng.Trong sự chứng kiến của già làng, thầy cúng cùng gia đình hai bên, chú rể trân trọng đeo vào cổ cô dâu một sợi chỉ đỏ và cô dâu cũng làm tương tự. Sau đó hai sợi chỉ được lấy ra và cột chặt vào nhau, cất ở nơi kín đáo nhất trong nhà, nó sẽ là vật quý được đôi vợ chồng trẻ giữ gìn như một báu vật. Mỗi sợi chỉ tượng trưng cho cuộc đời mỗi người và từ đây họ mãi mãi suốt đời gắn bó với nhau. Cùng với lễ trao sợi chỉ đỏ là nghi lễ trao nắm cơm cũng không kém phần quan trọng. Ngay sau đó vợ chồng trẻ trao cho nhau mỗi người một nắm cơm và ăn hết nắm cơm đó thể hiện tình cảm vợ chồng trao gửi cho nhau, phải quan tâm đến nhau suốt đời như cơm ăn hàng ngày vậy. Khi một trong hai người chết trước, người còn sống vẫn phải giữ kỷ vật là nắm cơm và sợi chỉ đỏ cho đến khi mình chết thì được đem chôn chung. Việc làm này còn thể hiện tấm lòng chung thuỷ son sắc trong hôn nhân của người Hrê, một khi đã cưới nhau thì mãi mãi không được làm vợ, làm chồng của ai khác vì họ đã là hồn của nhau. Kết thúc các nghi lễ, già làng thường có câu chúc phúc cô dâu chú rể: “Từ nay về sau hai người sống làm người của nhau, chết làm con ma của nhau, sinh con trai, con gái khỏe mạnh để làng có thêm người đánh cái chiêng vui, múa hát giỏi, làm ra nhiều hạt lúa, khoai lang…”
 Phong tục hôn nhân của người Hrê cũng có những cấm kỵ khắc khe như người đồng tông không được lấy nhau, trai gái không được quan hệ bất chính trong làng, ai vi phạm sẽ bị dân làng phạt vạ rất nặng. Vi phạm lỗi nhẹ thì phạt rượu, gà, lợn, trâu, nặng thì tịch thu tài sản chia đều cho hai họ, hoặc trục xuất ra khỏi làng…
Ngày nay, hôn nhân của người Hrê An Lão đã bớt đi những ràng buộc mang tính hủ tục, nếu người vợ hoặc người chồng chẳng may bị qua đời thì sau một năm người kia có thể kết hôn với người khác. Đám cưới của người Hrê cũng được tổ chức theo nếp sống mới văn minh hiện đại như người miền xuôi. 

 Từ Duy Tốn (sưu tầm) 

Văn hóa truyền thống của dân tộc H’rê - Quảng Ngãi (Mai Thúy Hằng)

Như nhiều dân tộc khác trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, đồng bào dân tộc H’rê có một nền văn hoá khá độc đáo. Văn hóa truyền thống của dân tộc H’rê mang đậm nét bản địa, chứa đựng nhiều giá trị đặc trưng của yếu tố Trường Sơn - Tây Nguyên.

Người H’rê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy, săn bắn, hái lượm, đánh cá, dệt, rèn là những nghề phụ, nhưng có ý nghĩa đáng kể. Những con vật nuôi thông thường trong gia đình là trâu, chó, heo, gà, dê…

Trình độ canh tác nương rẫy ruộng nước của người H’rê đã ở mức phát triển cao. Đồng bào biết tận dụng thung lũng bằng địa, đất ven sông suối và chọn cây lúa nước làm cây trồng chính. Người H’rê lợi dụng địa hình để vỡ ruộng. Từ ruộng bậc thang trên đất dốc đến ruộng lầy thụt ở thung lũng, đầm cạn đều có thể cải tạo để canh tác lúa nước.

Mùa rẫy chỉ có một vụ kéo dài từ tháng ba tới tháng chín âm lịch. Bà con dùng rìu phát rẫy dùng rựa phát cỏ chờ khô rồi đốt theo lối hỏa canh. Canh tác rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, coi rẫy bằng chòi cao đề phòng chim thú phá rẫy và đợi đến làm cỏ, thu hoạch. Đặc biệt, săp tới mùa thu lúa rẫy bà con thường sử dụng bộ nhạc cụ đá, tre nứa nguyên sơ với suối nước tạo thành tiếng để xua đuổi chim thú.
Người H’rê định cư thành từng làng (plây) ở nhà sàn và có cả nhà trệt, có già làng đứng đầu trưởng thôn. Làng truyền thống của đồng bào H’rê có tên gọi theo địa danh đồi núi, sông suối tự nhiên nơi cư trú. Làng dựng ở nơi có nguồn nước sinh hoạt và sản xuất gắn liền với vùng canh tác. Đồng bào không du cư trường hợp thật đặc biệt như thiên tai địch họa, dịch bệnh mới dời làng. Mỗi làng thường có từ 40-50 nóc nhà.

Tục lệ H’rê khi ngủ nằm ngang sàn đầu quay về hướng đất thấp mặt thoáng, chân hướng về phía đất cao dốc núi. Bên trái đầu nhà nơi đàn ông ngủ và tiếp khách gia đình cuối nhà phía bên phải nơi ở của đàn bà, con trẻ. Nhà có hai cầu thang phía trước và phía sau. Trong nhà có hai bếp lửa bếp chính và bếp phụ.

Vận hành làng truyền thống của người H’rê gồm có người đứng đầu làng, người hòa giải, người cúng bái. Người đứng đầu làng thường là bậc cao niên từng trải, am hiểu rộng về luật tục về xã hội và vùng đất cư trú, kinh tế nổi trội được cộng đồng tín nhiệm.

Người H’rê trước kia không có họ, có tên đệm. Ngày nay, đồng bào tự nhận mình mang các dòng họ Đinh, Phạm, Nguyễn. Đàn ông người H’rê thường mặc khố (kapen) mặc áo màu đen, ống tay dài, cài khuy ở trước, áo dài không quá thắt lưng có viền vải đỏ trang trí bằng chỉ đỏ. Họ thường dùng 2 loại khăn bịt đầu: khăn đen quấn nhiều vòng, khăn trắng để quấn thành vòng, 2 đầu khăn cài phía trên hai vai, khi đi xa họ chít khăn màu đỏ.

Phụ nữ H’rê mặc váy (cà tu) khâu thành ống, dài trung bình 1,2 mét, khoảng giữa hẹp hơn, đoạn trên và đoạn dưới của váy bằng nhau. Rộng 5, 6 tấc, trang trí bằng sợi màu ở hai đầu váy, khi mặc trông như váy 2 tầng, phủ xuống dưới bắp chân. Áo cổ truyền của người phụ nữ 5 thân, nhuộm màu chàm sẫm, ống tay dài và hẹp, cài khuy bên phải gấu áo, sống lưng và bờ áo đều viền chỉ trắng, chỉ đỏ, mặc trong là yếm che ngực. Xưa, người H’rê có tục khi trưởng thành cắt 6 chiếc răng của hàm trên, tục này nay đã xóa bỏ.

Hôn nhân người H’rê không mang tính chất mua bán. Hiện tượng kết hôn với người khác tộc chưa phổ biến. Tùy hoàn cảnh gia đình của mỗi bên, càng rể có thể về nhà vợ hay cô dâu về nhà chồng. Khi vợ chồng sinh con đầu lòng thì tách khỏi cha mẹ làm nhà ở riêng thành đơn vị kinh tế độc lập. Đám cưới tùy theo bên nào đón người về (làm dâu hoặc ở rể) thì tổ chức nghi lễ lớn hơn. Họ mở tiệc mặn có rượu cần, ca hát vui vẻ. Gia đình chuẩn bị sẵn một bếp dành làm nơi ngủ cho đôi vợ chồng mới, tại đây diễn ra nghi thức tượng trưng cho sự gắn bó vợ chồng: Hai người trao nhau miếng trầu, bát rượu, quàng chung một vòng chỉ.

Người H’rê cho rằng lực lượng siêu nhiên gồm nhiều loại thần linh mang tên gọi khác nhau nhưng trong đó tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa lúa, khi gieo cấy và khi thu hoạch cất lúa vào kho.

Hàng năm cùng với việc canh tác họ thực hiện những nghi thức nhằm giữ gìn thần lúa, thần núi, thần sông, thần mưa, thần cây, thần đá phù hộ, cầu mong mưa thuận gió hòa, cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu… con vật hữu sinh, người người bình an.

Cho đến nay trong tâm thức của đồng bào dân tộc H’rê, coi lễ hội cầu mưa là sự gắn liền hoạt động con người đối với các đấng siêu nhân, là sự giao thoa tâm linh của con người và các thần linh. Lễ hội cầu mưa được tổ chức từ 2 đến 3 năm một lần, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng.

Đồng bào H’rê có truyền thống đấu tranh giữ làng giữ nước từ xa xưa. Từ ngày có Đảng và Chính phủ bà con một lòng đi theo cách mạng, tham gia tích cực vào các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng bào đã hoàn thành công tác định canh định cư và đang từng bước xóa đói giảm nghèo ổn định đời sống đồng thời phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống được đồng bào thực hiện gắn với cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa.

Mai Thúy Hằng (sưu tầm)

Dân tộc H're (Lý A Sùng)

Người Hrê sống chủ yếu ở tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hrê ở Việt Nam có dân số 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hrê cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Ngãi (115.268 người, chiếm 90,5% tổng số người Hrê tại Việt Nam), Bình Định (9.201 người), Kon Tum (1.547 người), Đắk Lắk (341 người), Gia Lai (128 người)[1].
Đặc điểm kinh tế
Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ và làm nương rẫy trồng các loại lúa rẫy, mì, chối... Người Hrê chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.
Từ khi đất nước phát triển đi lên, nền kinh tế chủ lực của người H're trồng mi, mía,keo đã tạo nhiều đổi mới cho sự phát triển kinh tế cộng đồng xã hội và hộ gia đình.

Tổ chức cộng đồng
Trong làng người Hrê, "già làng" có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt họ Đinh, gần đây một số người lấy họ Nguyễn, Hà, Phạm... Hình thức gia đình nhỏ rất phổ biến ở dân tộc Hrê.
- Họ Đinh. Ngày xưa dưới sự đô hộ của thực dân pháp xâm lược, người dân H're phải làm sâu, đi Đinh lao động nghĩa vụ hành năm cho thực dân pháp; trong danh sách lập Đinh1, Đinh2 kiểm công lao động; với tên gọi đó lâu ngày mỗi người dân H're được có cái hộ Đinh như bây giờ.
- Họ Phạm. Để thể hiện lòng tôn kính và trung thành với cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là người con cách mạng ưu của đất Quảng Ngãi người H're Ba tơ và Tư Nghĩa đã lấy họ Phạm như bây giờ.
- Còm các họ Nguyễn, Lê, Trần, Hà..Ha.. Là xuất phát trong thời kỳ chống Pháp, Nhật, Mỹ nhiều người con cách mạng H're hoạt động bí mật nằm vùng phải sửa họ và tên để đảm bảo bí mật.
Công đồng người H're ở theo từng làng, bản (Pờ-Lây) hay (Ngùng), người H're sống rất hòa thuận trong bản làng, nước uống chung giếng, chung máng nước, nhà này cách nhà kia không có hàng rào để phân biệt đất riêng hộ gia đình.

Văn hóa
Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của người Hrê. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đọ tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ra-ngói, pơ-pen, trống... Những nhạc cụ được người Hrê quí nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.
Ngày xưa người H're sống bằng tự cung, tự cấp những món hàng trao đổi buôn bán là dùng bằng nồi bung, nồi bảy (Ca - Bung, Ca -Bê) hay trâu, ché, ruộng và lúa.
Bản sắc của người H're cuộc sống cộng động cũng gắn liền với cây tre, cây cau, lá trầu như dân tộc Kinh. Con vật hoang giả được người dân H're sùng bái tôn trọng nhất là con chó sói (Cọ-Ziêng); người H're không bao giờ ăn thịt chó sói, nếu lên rừng làm nương rẫy, hay đi săn bán gặp chó sói người H're đều không săn chó sói, nếu gặp chó sói bị nạn người H're sẽ cứu giúp.
- Cưới hỏi:
Dưới thời phong kiến người H're thực hiện gia chủ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, hai bên gia đình có con trai, con gái hứa hẹn sẽ gả con cho nhau được goi là (Pờ-roi). Việc cưới hỏi này chủ yếu tìm người về làm dâu, làm rể là để lao động giúp gia đình. Đôi khí có những anh tràng được cha mẹ bắt lấy vợ tuổi còn nhỏ, cô dâu lớn hơn chú rể 5, 7 tuổi. Trước đây người H're mà gàu có và quyền lực họ được phép lấy nhiều vợ. Đám cưới tổ chức phụ thuộc vào từng điều kiện kính tế gia đình hộ; bà con đi đám cưới chủ yếu là mang rươu và gạo đưa cho gia đình đám cưới. Người H're không phân biệt trai hay gái họ rất bình đẳng, trong việc chia của cải cha mẹ cho con cũng bình đẳng; cũng như hôn nhân gia đình không quan niệm (Thuyền theo lái, gai phải theo chồng và cũng không đối xử mẹ chồng nàng dâu trong thời phong kiên).
Trước đây người H're rất hiếu khách đến nhà thăm chơi, họ rất niềm mở mời cơm; phong tục tiếp khách cũng là miếng trầu, rượu, thuốc lá, nước trè.
Tinh thần của người H're họ sống rất lạc quan, yêu đời một khi đã thân thiết họ rất thành thật và chung thành trong cuộc sống; nhưng nếu ai đó làm cho họ bị thất vọng, thì khó lấy lại được niềm tim với họ, vì lòng tự trọng và ty khác cao.
- Tổ chức ma chay:
Khi bản làng (Pờ-Lây) có người mất bà con xa gần được thông báo đến viếng người mất, mang theo chiếu, vãi, rượu tùy theo điều kiện kinh tế của mối gia đình đến viếng. Khi đặt người mất vào quan tài không đậy nắp ngồi xung quanh quan tài là con cháu và người thân khóc, cách khóc của người H're (khóc gọi là: moi) có theo giai điệu, nhằm kể lễ công lao của người chết khi còn sống và chia sẽ tình cảm cho con cháu, anh em làng xóm gần xa. Mỗi người đến viếng được anh em trong gia đình đưa một ly rượu để uống phép một ít, còn lại đổ vào trai rượu hay ché để bên canh quan tài thể hiện lòng thương nhớ việc chia tay với người chết. chôn mộ (người chết) tại Ka-Rầng; đào huyệt đầu người chết được đặt lên núi, chân quây về mặt thấp như suối, sông, ruông....Di quan đưa người chết đi chôn chân đi trước, hạ quan tài mở ra lần cuối để bà con, họ hàng nhìn lần cuối và được xem mặt trời cuối cùng, mỗi người đi viếng chôn bỏ một nắm đất và gom những que cây khô nhỏ làm thành bó củi nhỏ bằng nắm tay, cho người chết về thế giới bên kia có củi để đốt, một phần củi để nộp lại cho âm phủ khi mới đến. Ngày xưa ngôi nhà mộ được chôn bốn cây cột lõ (Ké) nhà mồ có mái lợp tranh và gắn với đầu con trâu đã cúng cho người mất; các tài sản chia cho người mất mang theo như Chiêng, ché, nồi bung, đục thủng đáy chôn xung quanh mộ. Lễ cúng hàng năm cho đã khuất người H're không dẩy mộ tại Ka-Rầng. nơi Ka-Rầng là nơi linh thiêng không được ai đến phá chặt cây tại Ka-Rầng.

Nhà cửa
H'rê xưa ở nhà sàn dài. Nay hầu như nhà dài không còn nữa. Nóc nhà có hai mái chính lợp cỏ tranh, hộ gia đình nào giàu có thì họ lợp mái nhà dày 35 cmđến 40 cm, độ bền có thể lên đến 15 -20 năm; hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào trong hai mái chính. Mái này có lớp ngoài còn thêm một lớp nạp giống như ở vách nhà. Chỏm đầu đốc có "bộ sừng" trang trí với các kiểu khác nhau. Vách, lớp trong bằng cỏ tranh, bên ngoài có một lớp nẹp rất chắc chắn. Hai gian đầu hồi để trống.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản giống như nhà của nhiều cư dân khác ở Tây Nguyên.
Trong nhà (trừ hai gian đầu hồi) không có vách ngăn. Với nhà người Hrê còn có đặc điểm ít thấy ở nhà các dân tộc khác: thường thì nhà ở cửa mặt trước hoặc hai đầu hồi. Mặt trước nhà nhìn xuống phía đất thấp, lưng nhà dựa vào thế đất cao. Người nằm trong nhà đầu quay về phía đất cao. Nhưng với người Hrê thì hoàn toàn ngược lại.

Gian hồi bên phải (nhìn vào mặt nhà) (A) dành cho sinh hoạt của nam và khách. Gian hồi bên trái (C) dành cho sinh hoạt của nữ. Giáp vách gian hồi bên phải đặt bếp chính. Gian chính giữa đặt bếp phụ. Gian giáp vách với gian hồi bên trái đặt cối giã gạo. Trước đây người H're muốn làm được ngôi nhà sàn cho mình thì phải chặt cây góp dần gần 03 năm; dây dùng để buộc nhà chủ yếu bằng mây (si-ry) phần gầm sạp nhà thì buộc bằng dây Chiều (si-K-ruột); phần sàn nhà và tường nhà dùng cây tre đập bẹp ra, buộc nẹp chắc. Tuy tường nhà
Trong ngôi nhà Người H're chọn một cây cột nhà chính ở giam giữa làm cột chính để thời cúng hàng năm họ buộc cây cúng vào; người H're quan niệm cây cột chính này như sự vận mệnh cả gia chủ nhà và gia đình. Điểm đặt cối giả gạo trong nhà gần bếp hay ngoài trái nhà sau; Người H're rất chú trọng việc đặt cối giả gạo. Ngày xưa mỗi lần con trai đi săm trên rừng hay đi bộ đội ra chiến trận thì người mẹ chỉ cho con trai đi ra cửa nhà sau phía bếp và người mẹ lấy cái chổi bỏ vào trong cái cối giả gạo đọc cầu nguyện may mắn cho con trai và quét lên người con xong, người con đi luôn cửa sau và không cho ngoảnh mặt nhìn lại. Người H're ngày xưa rất kiêng kị khi khách đến nhà đứng trên bậc thang không vào, hay vào nhà ngồi trên khung cửa vào nhà chính.
Phong tục người H're trước đây họ tâm niệm thần linh khác năng; nên mỗi gia đình họ điều có các sản vật lạ để trong nhà như: Đầu chim Tù Thịt (Chim Lợn), đầu con mèo, đầu chim Cú Mèo và đầu con chó để khô treo trên giàn bếp và cất kỷ, chỉ chủ nhà mới được đụng đến. Người H're quan niệm có những cái đầu của các con vật trên để trong nhà là nương rẫy không bị các vật hoang giã trên rừng phá hoại mùa màng và có ai đó ác ý thù (cúng) thành viên gia đình thì linh hồn của các đầu thú kia đi thay cho linh hồn gia chủ, gia đình luôn tránh được sự đau ốm, chết chóc.

Trang phục
Có biểu hiện giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được xóa bỏ.

Lý A Sùng (sưu tầm)

Đặc sắc văn hóa dân tộc H'rê (Minh Huệ)

Như nhiều dân tộc khác trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, đồng bào dân tộc H’rê có một nền văn hoá khá độc đáo. Văn hóa truyền thống của dân tộc H’rê mang đậm nét bản địa, chứa đựng nhiều giá trị đặc trưng của yếu tố Trường Sơn - Tây Nguyên.
 Người H’rê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy, săn bắn, hái lượm, đánh cá, dệt, rèn là những nghề phụ, nhưng có ý nghĩa đáng kể. Những con vật nuôi thông thường trong gia đình là trâu, chó, heo, gà, dê…

Langvanhoahre
Trình độ canh tác nương rẫy ruộng nước của người H’rê đã ở mức phát triển cao. Đồng bào biết tận dụng thung lũng bằng địa, đất ven sông suối và chọn cây lúa nước làm cây trồng chính. Người H’rê lợi dụng địa hình để vỡ ruộng. Từ ruộng bậc thang trên đất dốc đến ruộng lầy thụt ở thung lũng, đầm cạn đều có thể cải tạo để canh tác lúa nước.

Mùa rẫy chỉ có một vụ kéo dài từ tháng ba tới tháng chín âm lịch. Bà con dùng rìu phát rẫy dùng rựa phát cỏ chờ khô rồi đốt theo lối hỏa canh. Canh tác rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, coi rẫy bằng chòi cao đề phòng chim thú phá rẫy và đợi đến làm cỏ, thu hoạch. Đặc biệt, săp tới mùa thu lúa rẫy bà con thường sử dụng bộ nhạc cụ đá, tre nứa nguyên sơ với suối nước tạo thành tiếng để xua đuổi chim thú.

Người H’rê định cư thành từng làng (plây) ở nhà sàn và có cả nhà trệt, có già làng đứng đầu trưởng thôn. Làng truyền thống của đồng bào H’rê có tên gọi theo địa danh đồi núi, sông suối tự nhiên nơi cư trú. Làng dựng ở nơi có nguồn nước sinh hoạt và sản xuất gắn liền với vùng canh tác. Đồng bào không du cư trường hợp thật đặc biệt như thiên tai địch họa, dịch bệnh mới dời làng. Mỗi làng thường có từ 40-50 nóc nhà.

Tục lệ H’rê khi ngủ nằm ngang sàn đầu quay về hướng đất thấp mặt thoáng, chân hướng về phía đất cao dốc núi. Bên trái đầu nhà nơi đàn ông ngủ và tiếp khách gia đình cuối nhà phía bên phải nơi ở của đàn bà, con trẻ. Nhà có hai cầu thang phía trước và phía sau. Trong nhà có hai bếp lửa bếp chính và bếp phụ.

Vận hành làng truyền thống của người H’rê gồm có người đứng đầu làng, người hòa giải, người cúng bái. Người đứng đầu làng thường là bậc cao niên từng trải, am hiểu rộng về luật tục về xã hội và vùng đất cư trú, kinh tế nổi trội được cộng đồng tín nhiệm.

Người H’rê trước kia không có họ, có tên đệm. Ngày nay, đồng bào tự nhận mình mang các dòng họ Đinh, Phạm, Nguyễn. Đàn ông người H’rê thường mặc khố (kapen) mặc áo màu đen, ống tay dài, cài khuy ở trước, áo dài không quá thắt lưng có viền vải đỏ trang trí bằng chỉ đỏ. Họ thường dùng 2 loại khăn bịt đầu: khăn đen quấn nhiều vòng, khăn trắng để quấn thành vòng, 2 đầu khăn cài phía trên hai vai, khi đi xa họ chít khăn màu đỏ.

Phụ nữ H’rê mặc váy (cà tu) khâu thành ống, dài trung bình 1,2 mét, khoảng giữa hẹp hơn, đoạn trên và đoạn dưới của váy bằng nhau. Rộng 5, 6 tấc, trang trí bằng sợi màu ở hai đầu váy, khi mặc trông như váy 2 tầng, phủ xuống dưới bắp chân. Áo cổ truyền của người phụ nữ 5 thân, nhuộm màu chàm sẫm, ống tay dài và hẹp, cài khuy bên phải gấu áo, sống lưng và bờ áo đều viền chỉ trắng, chỉ đỏ, mặc trong là yếm che ngực. Xưa, người H’rê có tục khi trưởng thành cắt 6 chiếc răng của hàm trên, tục này nay đã xóa bỏ.

Hôn nhân người H’rê không mang tính chất mua bán. Hiện tượng kết hôn với người khác tộc chưa phổ biến. Tùy hoàn cảnh gia đình của mỗi bên, càng rể có thể về nhà vợ hay cô dâu về nhà chồng. Khi vợ chồng sinh con đầu lòng thì tách khỏi cha mẹ làm nhà ở riêng thành đơn vị kinh tế độc lập.

Đám cưới tùy theo bên nào đón người về (làm dâu hoặc ở rể) thì tổ chức nghi lễ lớn hơn. Họ mở tiệc mặn có rượu cần, ca hát vui vẻ. Gia đình chuẩn bị sẵn một bếp dành làm nơi ngủ cho đôi vợ chồng mới, tại đây diễn ra nghi thức tượng trưng cho sự gắn bó vợ chồng: Hai người trao nhau miếng trầu, bát rượu, quàng chung một vòng chỉ.

Người H’rê cho rằng lực lượng siêu nhiên gồm nhiều loại thần linh mang tên gọi khác nhau nhưng trong đó tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa lúa, khi gieo cấy và khi thu hoạch cất lúa vào kho.

Hàng năm cùng với việc canh tác họ thực hiện những nghi thức nhằm giữ gìn thần lúa, thần núi, thần sông, thần mưa, thần cây, thần đá phù hộ, cầu mong mưa thuận gió hòa, cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu… con vật hữu sinh, người người bình an.

Cho đến nay trong tâm thức của đồng bào dân tộc H’rê, coi lễ hội cầu mưa là sự gắn liền hoạt động con người đối với các đấng siêu nhân, là sự giao thoa tâm linh của con người và các thần linh. Lễ hội cầu mưa được tổ chức từ 2 đến 3 năm một lần, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng.

Đồng bào H’rê có truyền thống đấu tranh giữ làng giữ nước từ xa xưa. Từ ngày có Đảng và Chính phủ bà con một lòng đi theo cách mạng, tham gia tích cực vào các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng bào đã hoàn thành công tác định canh định cư và đang từng bước xóa đói giảm nghèo ổn định đời sống đồng thời phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống được đồng bào thực hiện gắn với cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa.
Minh Huệ (sưu tầm)

Buộc mây - nhà sàn độc đáo của dân tộc H’rê (Minh Thoa)

Kiến trúc nhà sàn dân tộc Hrê
Nét độc đáo trong kết cấu kiến trúc nhà sàn của người Hrê là cách thức buộc mây để liên kết các bộ phận kiến trúc của ngôi nhà sàn. Phương pháp liên kết bằng cách thức buộc mây là phương pháp phổ biến, độc đáo và là đặt trưng trong ngôi nhà sàn Hrê.

Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Mỗi làng người Hrê cư trú thường có khoảng vài chục ngôi nhà sàn. Nhà sàn của người Hrê được xây dựng quần tụ theo chiều ngang của triền chân đồi. Các ngôi nhà được bố trí theo từng lớp từ thấp đến cao.

Người Hrê gọi làng của mình là plây, cách gọi này giống với cách gọi của các dân tộc Bana, Giarai,… Làng xóm Hrê được xây dựng dọc theo các con sông. Mặc dù tộc người Hrê cư trú trên địa vực rộng lớn của vùng núi rừng miền Tây Quảng Ngãi, song họ vẫn bảo lưu được tập quán xây dựng làng theo lối riêng của dân tộc mình.

Làng Hrê có chung những đặc điểm xây dựng theo địa hình cảnh quang, được bố trí kiến tạo ven theo triền chân đồi, cao ráo, quang đãng. Người Hrê luôn luôn chọn vị trí làng của họ ở về phía Đông, Tây hoặc phía Nam triền chân đồi. Họ lấy quả đồi nơi cư trú hoặc những dãy núi xung quanh để che chắn ngọn gió Bấc của mùa Đông khắt nghiệt. Làng luôn quay mặt về phía có gió nồm để được thoáng mát, đón ánh sáng mặt trời buổi sáng.
Người Hrê ở nhà sàn, mặt nhà sàn cao hơn mặt đất trung bình một mét, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài, hai đầu dốc có hình hai sừng thú. Mỗi đầu sàn nhà đều có một khoảng không gian ngăn cách với trong nhà.

Người Hrê làm nhà vào thời gian tháng 8 và tháng 9 trong năm. Các loại gỗ rắn chắc như gỗ ké, gỗ mít… được ưa chuộng, dùng làm cột sàn, cột vách, kèo, trính. Người Hrê thường đốn cây gỗ vào ngày 29, 30 (âm lịch) của các tháng Hè và Thu, bởi vì trong thời điểm này nhựa thân trở nên ít, khiến cho các thớ gỗ không bị mối mọt phá hoại.

Thời gian để dựng hoàn thành một ngôi nhà sàn Hrê trong vòng từ 4 đến 6 ngày theo một số quy trình và thao tác nhất định.Người Hrêdựng 2 hàng cột sàn và cột vách. Sau đó,họ dựng bộ khung nhà gồm: gác trính, xà qua các đầu cột theo kiểu ngoài buộc dây mây, đồng thời gác tay kèo ở hai đầu hồi và gác đòn tay mái nằm theo chiều dọc của ngôi nhà. Vỏ mái gồm ron, mè kết cấu theo lối buộc nẹp ngang dọc song song nhau và được làm trước ở dưới mặt đất, sau đó đưa lên buộc vào các đòn tay mái để làm vỏ mái.

Một vấn đề quan trọng khác không thể không đề cập trong kết cấu kiến trúc nhà sàn của người Hrê là cách thức buộc mây để liên kết các bộ phận kiến trúc của ngôi nhà sàn. Họ tạo dựng sàn bằng hệ thống cây ngang dọc, có kết cấu với nhau hết sức chặt chec qua hệ thống dây buộc vào cột nhà và cột nâng nhà, sau đó mặt sàn được trải lớp giát sàn bằng tre ken mây phẳng phiu. Vách nhà được làm bằng tre đan phên ken dày, hoặc dùng cây rừng tròn, có đường kính 2- 2,4cm ghép sát vào nhau lấy dây mây buộc chặt.

Phương pháp liên kết bằng cách thức buộc mây là phương pháp phổ biến, độc đáo và là đặt trưng trong ngôi nhà sàn Hrê. Trên mái nhà của người Hrê còn có biểu tương hai cặp sừng trâu bằng rơm. Đặc điểm này làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hoá dựng nhà của người Hrê so với các dân tộc khác.

Nhà sàn là một trong những nét văn hóa rất đặc trưng, là một phần bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc Hrê. Thế nhưng vài năm gần đây, do tác động của một số nguyên nhân, đồng bào dân tộc Hrê cũng đã và đang có xu hướng thoát ly dần với những cái nhà sàn truyền thống. Nhà trệt đã dần thay thế nhà sàn, bóng dáng nhà sàn trong các buôn làng Hrê theo đó cũng thưa dần.

Minh Thoa

Đặc điểm sinh sống của người dân tộc thiếu số H'rê (Hoàng Thị Khuyên)

Người dân tộc thiểu số Hrê còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy. Sử dụng ngôn ngữ Hrê thuộc nhóm Môn-Khmer. Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Bình Định.

Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc thiếu số Hrê ở Việt Nam có khoảng 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Người Hrê cư trú chủ yếu tập trung tại các tỉnh Quảng Ngãi 115.268 người, chiếm tỷ lệ 90,5 % tổng số người Hrê tại Việt Nam, tỉnh Bình Định có 9.201 người, tỉnh Kon Tum có 1.547 người, Tỉnh Đăk Lăk có 341 người, tỉnh Gia Lai có 128 người.

Đặc điểm về kinh tế và tổ chức cộng đồng
Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Người Hrê chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.

Trong làng người Hrê, "già làng" có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt họ Đinh, gần đây một số người lấy họ Nguyễn, Hà, Phạm... Hình thức gia đình nhỏ rất phổ biến ở dân tộc Hrê.

Đặc điểm về văn hóa, nhà cửa và trang phục
Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung của các dân tộc thiểu số sinh sống ở dãy Trường Sơn và Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của người Hrê. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đọ tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại như đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ràng ngói, pơ-pen, trống... Những nhạc cụ được người Hrê quý nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.


Người Hrê dệt vải theo cách thức cổ truyền Inđonêdiêng: Bộ dụng cụ gồm những que, thanh, ống rời nhau đềulàm bằng gỗ, tre. Chỉ khi giăng thảm sợi để dệt,chúng mới liên kết với nhau thành một hệ thống. Hoa văn được dệt cùng với vải

Người dân tộc thiểu số Hrê xưa ở nhà sàn dài. Nay hầu như nhà dài không còn nữa. Nóc nhà có hai mái chính lợp cỏ tranh, hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào trong hai mái chính. Mái này có lớp ngoài còn thêm một lớp nạp giống như ở vách nhà. Chỏm đầu đốc có "bộ sừng" trang trí với các kiểu khác nhau. Vách, lớp trong bằng cỏ tranh, bên ngoài có một lớp nẹp rất chắc chắn. Hai gian đầu hồi để trống. Bộ khung nhà kết cấu đơn giản giống như nhà của nhiều cư dân khác ở Tây Nguyên. Trong nhà, trừ hai gian đầu hồi, không có vách ngăn. Nhà ở của người Hrê còn có đặc điểm ít thấy ở nhà các dân tộc khác như thường nhà ở có cửa mặt trước hoặc hai đầu hồi. Mặt trước nhà nhìn xuống phía đất thấp, lưng nhà dựa vào thế đất cao. Người nằm trong nhà đầu quay về phía đất cao. Nhưng với người Hrê thì hoàn toàn ngược lại. Gian hồi bên phải nhìn vào mặt nhà dành cho sinh hoạt của người nam và khách. Gian hồi bên trái dành cho sinh hoạt của người nữ. Giáp vách gian hồi bên phải đặt bếp chính. Gian chính giữa đặt bếp phụ. Gian giáp vách với gian hồi bên trái đặt cối giã gạo.

Nhà ở của người Hrê thường dựng sóng nhau trên triền đất chân gò, núi cạnh cánh đồng. Trong làng, quanh nhà trường trồng cau, chuối mít, xoài... Mỗi làng ở thành một khu vực mật tập, hoặc gồm vài chòm xóm gần nhau.

Trang phục của người dân tộc thiếu số Hrê có hình thức giống với người dân tộc Kinh. Mặc dù có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người dân tộc Hrê mặc quần áo như người dân tộc Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, người nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được người dân tộc Hrê xóa bỏ.
Hoàng Thị Khuyên (sưu tầm)

Độc đáo làn điệu dân ca dân tộc H'rê, Quảng Ngãi (Quảng Ninh)

Độc đáo làn điệu dân ca dân tộc Hrê

Dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi có nền âm nhạc dân gian khá đa dạng và phong phú. Trong đó, dân ca là một loại hình nghệ thuật diễn xướng được nhiều người yêu thích.
Trong số các nàn điệu dân ca của người H’rê phải kể đến H'chôi. H’chôi gồm có hai loại: "H'chôi i boi" và "H'chôi tăh têu" (hay còn gọi là "Tăh h'chôi"). H'chôi i boi là một làn điệu dân ca có bài bản, có nhịp điệu như một ca khúc mới, có nhiều bài và phổ biến nhất; còn H'chôi tăh têu nó chỉ có một lối hát, một bài mà thôi, là một làn điệu hát đối đáp, nên gọi là H'chôi tăh têu.

hat quangngai
Người Hrê giải thích như sau: "Tăh têu" tức là đối đáp, "Tăh h'chôi" tức là hai người hát đối đáp làn điệu H'chôi tăh têu, hay nói cách khác, H'chôi tăh têu là tên của một làn điệu dân ca, còn Tăh h'chôi là khi hai người hát đối đáp với nhau làn điệu dân ca H'chôi tăh têu, lúc này gọi là "Tăh h'chôi", nên gọi là làn điệu "Tăh h'chôi" cũng được.
H'chôi tăh têu là một làn điệu lối hát tự do, không có nhịp điệu, âm đầu tiên là âm lấy đà, âm thứ hai và âm cuối cùng của câu nhạc thường kéo dài hơi, các âm trong câu thường có chùm (liên) âm và từng âm một, hoặc hai, hát chậm rãi, đôi khi còn xen lời nói, rồi hát. Làn điệu H'chôi tăh têu về giai điệu âm nhạc thì có sẵn, còn phần lời thì người hát tự ứng tác tại chỗ theo nội dung sinh hoạt, nó không có bài bản cụ thể, nên làn điệu h'chôi tăh têu có thể hát nhiều nội dung khác nhau và người ta có thể hát với nhau suốt cả đêm mà không có đoạn kết.
Về nội dung thường thì người ta hát để tỏ tình giao duyên kết bạn, tâm tình kết sui gia, hoặc để trao đổi một công việc gì đó... người ta không tiện nói với nhau bằng lời nói cụ thể mà thông qua bằng âm nhạc, lời thơ dùng những từ ngữ ví von sâu xa, tinh tế, kín đáo, có vần điệu để diễn tả tình cảm của mình mà đối phương hiểu được ý tứ của nó; rồi đối phương đáp lại cũng vậy, dùng những lời thơ tinh tế, sâu sắc nhưng chỉ tập trung vào một nội dung mà hai người đang quan tâm, lời thơ đó phải đúng theo lối hát làn điệu H'chôi tăh têu, cứ thế cuộc "hát lý, nói lý" giữa hai người suốt cả đêm mà không có đoạn kết. Và phần diễn xướng giai điệu cũng vậy, người thể hiện cũng phải biết cách rung giọng, kéo dài hơi một cách khéo léo, hợp lý thì mới có thể tạo ấn tượng cho đối phương, và người nghe.
Đặc biệt, nếu hai người đều biết thổi Rangoiq (kèn môi), kết hợp vừa hát một đoạn, thổi một đoạn thì thật là hấp dẫn, độc đáo hơn nhiều. Nhưng những cặp như vậy không nhiều, bởi những kỹ năng thổi kèn môi khi nó vang lên âm thanh mà người nghe cảm nhận được ý tứ, nội dung của nó, đồng thời vừa suy nghĩ ứng tác những lời thơ sâu sắc, vần điệu và có lối hát ngọt ngào, mênh mông của làn điệu H'chôi tăh têu thật không dễ chút nào, nhất là với những người mới tập hát làn điệu này.
Vào các dịp Tết, cúng, đám cưới, hay sinh hoạt vui chơi, giải trí... ngồi bên ché rượu cần, khi có chút men rượu người ta thường rủ nhau hát làn điệu H'chôi tăh têu để giao lưu, tâm sự, chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, hoặc để thể hiện khả năng tài nghệ hát h'chôi tăh têu, thổi rangoiq của mình với mọi người. Có những cặp hát với nhau suốt cả đêm mà không bên nào chịu kết thúc trước, làm cho không khí ngày vui thêm rộn rã, đầm ấm, và mang nhiều ý nghĩa…

Quảng Ninh (sưu tầm)

Dân tộc H'rê (Hoàng Minh Thắng)

Dân tộc Hrê ở nước ta có khoảng hơn 113.000 người, cư trú chủ yếu ở 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và một số ít ở huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Dân tộc Hrê còn có tên gọi khác là Chăm rê, Chom, Thượng Ba Tơ...
Tiếng nói của người Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, gần gũi với tiếng nói của người Xơđăng, Bahnar. Đơn vị cư trú của người Hrê là làng. Trong làng, già làng là người có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Người Hrê sinh sống trong những ngôi nhà sàn. Mặt nhà sàn cao hơn mặt đất chừng 1 mét, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Trên hai đầu hồi nóc của mỗi ngôi nhà đều có biểu tượng cặp sừng trâu, con vật có ý nghĩa quan trọng trong tín ngưỡng của đồng bào. Mỗi đầu sàn nhà đều có một khoảng không gian ngăn cách với trong nhà, nếu ở đầu sàn này dành cho đàn ông tiếp khách thì ở đầu kia dành cho phụ nữ.

Trước kia, đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt long hoặc ở trần,

Dân tộc Hrê có truyền thống canh tác lúa nước và lúa cạn. Ngoài ra, họ còn trồng hoa màu, cây ăn quả và một số loại cây công nghiệp như thông, quế và cây bông. Trước kia, đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt long hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, chùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim.
Ngày nay, đàn ông Hrê mặc quần áo như người Kinh, phụ nữ mặc váy. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh là đặc trưng trong hoạt động tín ngưỡng của dân tộc Hrê. Hồn lúa giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào, thể hiện qua các nghi lễ khác nhau theo chu kì gieo trồng trong năm.

Trang phục phụ nữ Hrê

Người Hrê thích sáng tác thơ ca và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của đồng bào. Những nhạc cụ được đồng bào quý nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc hoặc 5 chiếc với các nhịp điệu tấu khác nhau.

Hoàng Minh Thắng (sưu tầm)

Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của người H'rê (Mai Thanh)

Lễ hội đâm trâu.
 Dân tộc Hrê còn có các tên gọi khác Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ,  Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me. Dân tộc Hrê cư trú chủ yếu ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão (Bình Ðịnh).

Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn... đều cúng bái. Vì vậy hàng năm họ đều tổ chức những nghi lễ hay lễ hội để xua đi những xúi xẻo, của dịch bệnh, cầu mong điều an bình trong cuộc sống.
Nghi lễ cơm mới
Người Hrê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy với kỹ thuật canh tác lúa nước như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi nhằm phục vụ các lễ cúng bái. Vì vậy, Tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa, khi gieo cấy và khi thu hoạch, cất lúa vào kho.
Vị trí người đàn bà chủ lúa – vợ chủ nhà là người quản lý lương thực được coi là có liên hệ thần bí với hồn lúa. Ngày cúng cơm mới, bà ta lấy lúa từ ruộng rẫy về rang, giã gạo, nấu cơm rồi chịu lễ và một mình ăn cơm nấu trong “nồi thiêng”. Cũng chỉ bà mới được tỉa lúa làm phép, đem gùi lúa đầu tiên về nhập kho.
Lễ hội đâm trâu 
Lễ hội đâm trâu của người Hrê luôn thu hút đông đảo dân làng, người quen đến dự. Người Hrê tổ chức lễ hội nhằm cầu an, ngăn ngừa bệnh tật. Ðây là nghi lễ mang tính chất cộng đồng.
Bước đầu tiên của lễ cúng trâu là dựng cây nêu (cọc buộc trâu để đâm), Cây nêu như một trục thông linh. Thời gian chuẩn bị cây nêu káo dài cả tháng, với sự tham gia của những người thợ thủ công điêu luyện.
Các trai tráng trong làng được giao nhiệm vụ vào rừng chặt hạ 5 cây gỗ, mỗi cây có đường kính 15cm và dài trên 20m, để nguyên cả cành, lá. Ngày nay, người ta lấy cây tre để làm cây nêu (giống người Kinh). Dùng 1,2m phía gốc để chôn, còn lại chia làm 3 phần để chạm khắc: hình răng cưa tượng trưng cho núi đồi; đường lượn sóng tượng trưng cho sông, suối; các hình ô vuông tượng trưng cho ruộng đồng; các hình tam giác đối đỉnh tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra còn chạm trổ hình các con vật như khỉ, hươu, nai, chim chèo bẻo, tu hú, sóc, chim sẻ... cây cối, mặt trời, mặt trăng...Đầu cột nêu là hình 1 cái lá dài 1,5m được đan bằng sợi dây mây chẻ nhỏ, giữa lá có hình chim chèo bẻo bằng gỗ, màu vàng. Đó là biểu tượng của họ, bởi theo họ, chim chèo bẻo là một loài chim hiền lành, trung thực, yêu lao động, ghét lười biếng và ngoan cường. Việc chôn cây, theo họ còn là sự giao thoa giữa âm và dương. Nơi đâm trâu phải là nơi khu rừng nhỏ, nơi ấy gọi là đất thiêng.
Sau khi chủ lễ và thầy cúng xin phép thần linh, người ta dẫn trâu ra buộc ở cây nêu. Rồi thầy cúng mời thần linh về nhận lễ, mọi người vừa đánh chiêng, trống, vừa nhảy múa ca hát xung quanh con trâu.
Vị chủ lễ mặc quần áo dài đen, đầu chít khăn, tay cầm hộp trầm hương bốc khói đi quanh con trâu, miệng lầm rầm bài cúng cầu mong thần linh phù hộ cho gia đình, làng bản.
Sau khi hoàn tất thủ tục, chủ lễ đâm nhát dao đầu tiên vào con trâu (đối với lễ gia đình). Đối với lễ đâm trâu cộng đồng, hai trai làng cầm giáo dài xông vào đâm trâu như 2 chiến binh. Tiếp đến là những thanh niên khoẻ mạnh, tay cầm giáo mác nối đuôi nhau vừa ca hát, nhảy múa, vừa đâm trâu.
Con trâu ngã xuống, người ta lấy máu trâu bôi lên hoa văn của cây nêu, xả thịt trâu một phần chia về bếp các hộ gia đình, bếp làng có người chế biến đồ cúng cho thần linh.
Tiếp đó người ta thịt heo, gà để tế thần và trọn vẹn "tam sinh". Khi tế thần, phụ nữ được phân việc dâng rượu. Mọi người cùng nhảy múa, ca hát, tiếng hú dài xen lẫn nhịp trống, chiêng làm náo động cả một vùng. Lễ đâm trâu thường kéo dài 2 đến 3 ngày đêm. Ở người Hrê, cũng kéo dài tới 5, 7 ngày đêm... thu hút nhiều làng bản lân cận cùng tham dự.
Trong các lễ hội văn hóa – thể thao, cúng trâu, cúng được mùa là dịp để trai gái trong và ngoài làng cùng uống rượu, cùng múa hát và mạnh dạn tỏ tình với nhau./.
Mai Thanh (sưu tầm)

Trang phục truyền thống của dân tộc H'rê ở Quảng Ngãi (Minh Trang)

Bộ trang phục truyền thống lễ hội của dân tộc Hrê.

Trang phục truyền thống là văn hoá ăn mặc của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng tộc người đều có lối ăn mặc riêng, qua cách ăn mặc người ta có thể nhận biết dân tộc này hay dân tộc kia.
Trang phục truyền thống của dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi gồm có hai loại, đó là bộ thổ cẩm và bộ vải thường (kể cả cho nam và cho nữ). Có tên gọi như sau:

Bộ trang phục cho nữ:
- Bộ váy áo thổ cẩm gọi là: "Ca tuư iu 'nhoh" ('Nhoh tức là thổ cẩm);
- Bộ váy áo vải thường gọi là: "Ca tuư iu găm" (Găm tức là màu đen). Tuy nhiên chỉ có váy nhất thiết là màu đen, còn áo thì tùy thích, người ta có thể mặc nhiều màu khác nhau. Vải thổ cẩm nguyên gốc người ta dệt chỉ có ba màu: đen, trắng, đỏ. Trong đó màu đen làm nền chủ đạo. Người dân tộc Hrê thích bộ trang phục màu đen, họ quan niệm màu đen là màu kín đáo, dịu dàng và mạnh mẽ...

Chiếc váy vải thường có ba loại: Chiếc váy chỉ có một lớp, gấu váy tới dưới đầu gối khoảng 20cm hoặc dài tới mắt cá chân, gọi là: "Ca tuư li"; chiếc váy có hai lớp, một lớp gấu váy tới dưới đầu gối khoảng 20cm (lớp ngoài), một lớp dài tới mắt cá chân (lớp trong), gọi là: "Ca tuư mọiq li, moiq hchon"; chiếc váy có hai lớp bằng nhau, dài tới mắt cá chân, gọi là "Ca tuư hjup". Váy thổ cẩm chỉ có một loại, thường người ta may một lớp, dài tới mắt cá chân.

Để cho bộ váy áo của mình đẹp hơn, đặc biệt là bộ váy áo vải thường người ta thường trang trí ở gấu váy, rìa tay áo bằng sợi chỉ, hoặc kết bằng cườm nhỏ màu trắng và màu đỏ, làm cho bộ trang phục hài hòa, nhẹ nhàng.  

Bộ trang phục cho nam:
- Khố (Kpen/Hpen)
- Bộ quần áo vải thường (may kiểu quần áo bà ba)
Khố có hai loại: Chiếc khố loại nhỏ, gọi là: "Hpen dham" dành cho những người trung niên, thanh niên. Chiều rộng của khố khoảng 18cm, chiều dài khoảng 4,5m - 5m, hoạ tiết hoa văn đơn giản, nhẹ nhàng. Thân khố màu đen, có ba đường sọc màu trắng chính giữa, hai đường sọc màu đỏ hai viền; hai đầu chiếc khố có năm đường hoa văn, nhưng không rõ nét như hoa văn của áo, có tua khoảng 15cm. Chiếc khố loại lớn, gọi là: "Hpen vroang" dành cho người già, những người khá giả về kinh tế. Chiều rộng của khố khoảng 20cm, chiều dài khoảng 5m - 5,5m; thân chiếc khố màu đen, có ba đường sọc màu trắng chính giữa, hai đường sọc màu đỏ hai viền như hpen dham nhưng lớn hơn; hai đầu chiếc khố có 7 đường hoa văn sặc sỡ, có tua dài khoảng 20cm.
Bộ quần áo bà ba màu đen, áo cổ tròn, dài tay, có hai túi phía trước, chẻ một tí hai bên hông. Chiếc quần dài tới mắt cá, không có túi. Để cho bộ trang phục của mình đẹp hơn, nam dân tộc Hrê thích trang trí ở những đường rìa quần áo bằng sợi chỉ, hoặc vải màu đỏ.

Bên cạnh bộ trang phục, phụ nữ dân tộc Hrê thích đeo những đồ trang sức ở cổ, tai, cổ tay làm bằng đồng, bằng bạc... rất phong phú, đa dạng. Chiếc khăn đội trên đầu, choàng cổ của những chàng trai, cô gái cũng làm tô điểm duyên dáng vẻ đẹp lung linh, huyền ảo khi người ta ăn mặc lúc đi dự lễ hội, hay trong những ngày sinh hoạt thường ngày của người Hrê xưa.

Minh Trang (sưu tầm)

Dân ca H'rê (Văn Chấn)


Dân tộc Hrê còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me, ngữ hệ Nam Á.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hrê ở Việt Nam có dân số 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hrê cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Ngãi (115.268 người, chiếm 90,5% tổng số người Hrê tại Việt Nam), Bình Định (9.201 người), Kon Tum (1.547 người), Đắk Lắk (341 người), Gia Lai (128 người),

Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Người Hrê chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.
Trong làng người Hrê, “già làng” có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt họ Đinh, gần đây một số người lấy họ Nguyễn, Hà, Phạm… Hình thức gia đình nhỏ rất phổ biến ở dân tộc Hrê.

Đinh Thị Thùy Trang, dân tộc H’rê, trong một cuộc thi Hoa Hậu Dân Tộc.

Hrê xưa ở nhà sàn dài. Nay hầu như nhà dài không còn nữa. Nóc nhà có hai mái chính lợp cỏ tranh, hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào trong hai mái chính. Mái này có lớp ngoài còn thêm một lớp nạp giống như ở vách nhà. Chỏm đầu đốc có “bộ sừng” trang trí với các kiểu khác nhau. Vách, lớp trong bằng cỏ tranh, bên ngoài có một lớp nẹp rất chắc chắn. Hai gian đầu hồi để trống.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản giống như nhà của nhiều cư dân khác ở Tây Nguyên.
Trong nhà (trừ hai gian đầu hồi) không có vách ngăn. Với nhà người Hrê còn có đặc điểm ít thấy ở nhà các dân tộc khác: thường thì nhà ở cửa mặt trước hoặc hai đầu hồi. Mặt trước nhà nhìn xuống phía đất thấp, lưng nhà dựa vào thế đất cao. Người nằm trong nhà đầu quay về phía đất cao. Nhưng với người Hrê thì hoàn toàn ngược lại.
Gian hồi bên phải (nhìn vào mặt nhà) (A) dành cho sinh hoạt của nam và khách. Gian hồi bên trái (C) dành cho sinh hoạt của nữ. Giáp vách gian hồi bên phải đặt bếp chính. Gian chính giữa đặt bếp phụ. Gian giáp vách với gian hồi bên trái đặt cối giã gạo.
Về trang phục người Hrê có biểu hiện giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được xóa bỏ.
Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của người Hrê. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đọ tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ra-ngói, pơ-pen, trống… Những nhạc cụ được người Hrê quí nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.


Trong các dịp lễ hội, nhạc cụ người Hrê thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.
Hai bài dân ca tiêu biểu của người Hrê:
1. Về Đồng Bằng (Dân Ca Hrê)
Còn nhớ ngày nào
Ở dưới vách đá
Trong cái khe âm u
Còn nhớ ngày nào
Ở dưới khóm lá
Trong cái lều mịt mù.
Ðời sống nghèo nàn
Ðời sống tối ám
Trong biết bao nguy nan
Giặc nó về làng
Giặc nó chiếm đóng
Ðau cái lòng vợ chồng.
Nhớ lại ngày nào
Chúng nó bắt chúng ta làm cái dân công
Nhớ lại ngày nào
Chúng nó bắt chúng ta mệt sức nuôi cơm
Nhớ lại ngày nào
Bao đau thương trong buôn
Ôi bao đau thưong!
Rồi có một ngày
Ðời sống khốn khó, ta quyết đi di cư
Rồi có một ngày
Bỏ hết xóm lá, ta quyết lìa rừng già
Ở phía rừng ngoài,

Giặc đến cướp phá, ta kéo nhau đi suôi
Về phía đồng bằng
Về phía quốc gia
Ta có nhiều bạn bè.
Nhớ lại một ngày
Ðã nhất quyết chúng ta về với anh em
Nhớ lại một ngày
Ðã nhất quyết chúng ta tìm lấy an ninh
Nhớ lại một ngày
Ta vui ca trong buôn. Ôi vui trong buôn!
Lập lũy đào hào
Rào kín xóm mới
Trong ấp ta yên vui
Làng buôn người người
Tìm lấy khí giới
Ngăn lũ giặc nghìn đời
Nhiều rẫy làm mùa
Ruộng mới tốt lúa
Bên thác reo vi vu
Ðàn chim rừng già
Bỏ vách núi đá
Thương nhớ người tìm về.

2. Anh Mau Về (Dân Ca Hrê)
Anh ở buôn làng
Là anh ở buôn làng
Ðời sống vui yên lành
Ðời sống vui thanh bình
Sống trong tình nước non
Như đàn chim nhỏ quây quần
Trong tình yêu Việt Nam
Và một tối thê lương
Nghe cú kêu trong rừng
Nghe tiếng xui căm hờn
Tiếng dỗ dành kéo anh xa nhà
Xa cả gia đình, xa tình yêu đàn em
Anh ở trong rừng
Là anh ở trong rừng
Như lũ nai xa đàn
Như lũ beo hung tàn
Kéo nhau về rẫy nương
Ăn càn, nhưng cả dân làng
Xua vào trong rừng hoang
Ðời sống nguy nan
Và đời sống cô đơn
Anh chết sâu trong rừng
Anh chết cao trên ngàn
Chết vô tình, thiếu tay bế bồng
Cha mẹ xa buồn
Không một ai mà chôn.
Anh phải mau về là anh phải mau về
Về với cây tre già
Về với hoa bốn mùa
Với rượu vò, với câu vui đùa
Trong họ trong nhà, ăn mừng anh tự do
Dòng nước xanh lơ
Và dòng suối nên thơ
Vẫn khát khao mong chờ
Cùng với đêm sương mờ
Ðón anh về, bước chân lững lờ
Qua nẻo trăng tà
Trên đường quê ngẩn ngơ…

DÂN TỘC HRÊ
Hrê là tộc người có số dân đứng hàng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau dân tộc Kinh.
Đến năm 2005, dân số Hrê ở Quảng Ngãi có 112.947 người, cư trú ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư Nghĩa. Tuy địa bàn cư trú phân bố rộng như vậy nhưng dân tộc Hrê cư trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Người Hrê sống đan xen với người Kinh ở vùng tây các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa. Các làng Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía đông huyện Sơn Tây và sống đan xen với người Cor ở các xã phía nam của huyện Trà Bồng. Ngoài ra, một vài nhóm nhỏ của dân tộc Hrê cư trú ở huyện Kon Plong (tỉnh Kon Tum) và huyện An Lão (tỉnh Bình Định).
Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Trước kia, dưới thời triều Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý khinh miệt, như “Mọi Đá Vách”, “Mọi Thạch Bích”, “Mọi Sơn Phòng”, “Thượng Ba Tơ”, “Mọi Lũy”, “Mọi Chòm”, “Chăm Rê”, “Chăm Quảng Ngãi”… Tuy nhiên, tên tự gọi của đồng bào Hrê thường theo tên của dòng sông lớn trong vùng. Chẳng hạn ở Minh Longcó sông Rvá nên nhóm Hrê ở đây gọi là người Rvá; ở Ba Tơ có sông Liên nên gọi là người Nước Liên và nơi có sông Rhe thì gọi là người Hrê; ở Sơn Hà có sông Krế nên gọi là người Krế. Lưu vực sông Rhe được coi là ngọn nguồn của dân tộc.
Theo truyền thuyết, nguồn gốc dân tộc Hrê gắn với núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ) và núi Mum (huyện Minh Long). Tiếng Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme và thuộc ngành ngôn ngữ Bahnaric trong khu vực bắc Tây Nguyên. Tỷ lệ từ chung khá cao bên cạnh một số biểu hiện tương đồng giữa tiếng Hrê với tiếng Ba Na và Xơ Đăng. Đặc biệt, trong cộng đồng người Hrê còn lưu truyền văn tự cổ sơ nhất, là “văn tự thắt gút” bằng các gút mây buộc thắt (để đếm).
Người Hrê định cư thành từng làng (plây) với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Làng Hrê xây dựng ven triền đồi, phía dưới là thung lũng. Địa bàn cư trú nằm kề sát khu vực đất đai canh tác và gần nguồn nước. Đồng bào chỉ di chuyển làng khi có dịch bệnh. Nhà sàn Hrê nằm bố trí lớp lớp từ thấp lên cao, dựng ngang triền đồi, nằm gọn trên khoảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Vòng rào làng xưa kia bao quanh vốn ken dày, dựng cao lên nhằm canh phòng kẻ gian và thú dữ, nay đã biến thành bờ dậu của từng nhà, hoặc vẫn rào quanh làng, nhưng chỉ để ngăn gia súc.

Dệt thổ cẩm được phục dựng trong – không gian văn hóa H’re.

Trong xã hội truyền thống của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (krăh plây), là người lớn tuổi am hiểu nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có trong làng. Chủ làng là người cùng với thầy cúng (pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắc máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt, tổ chức chuyển làng… Để làm những việc đó, chủ làng bàn bạc cùng với các thành viên trong hội đồng già làng. Chủ làng hòa mình vào trong đời sống của cộng đồng. Dân làng dành cho chủ làng sự kính trọng và giúp đỡ chủ làng khi ngày mùa bận rộn…
Chủ làng là chức vụ bầu theo lối dân cử, không theo nguyên tắc cha truyền con nối. Mỗi làng Hrê đều có thầy cúng là người thông thạo việc cúng tế thần linh. Ngoài ra ở mỗi gia đình, dòng họ đều có tộc trưởng, đó là những người già đứng đầu gia đình dòng họ. Các tộc trưởng quy tụ trong hội đồng già làng. Chủ làng bàn bạc công việc sản xuất, xử kiện… với các thành viên trong hội đồng già làng. Cuối cùng là các thành viên trong làng, những thành viên này cùng đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong một khối cộng đồng thống nhất.
Xã hội truyền thống xưa kia của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội đó có bốn tầng lớp người: người giàu (proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (lắp ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (pa), người đi ở vì nợ, nô lệ vì nợ (hapoong, dik). Lắp ká và pa thường chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cộng đồng Hrê. Tuy nhiên, những hộ thiếu ăn thường xuyên có khi rơi vào trường hợp đi ở vì nợ.Proong – người giàu, và hapoong – người đi ở, vì nợ thường chiếm tỉ lệ ít trong làng.
Tiêu chí người giàu được xác định là người có nhiều ruộng rẫy tốt, có nhiều trâu, lợn, gà, nhiều chiêng, ché quý, có kho thóc to, nhà cửa dài rộng, lễ tết mặc đồ đẹp, mang nhiều trang sức. Tuy nhiên, người giàu trong xã hội Hrê thường không phải từ bóc lột mà chủ yếu từ sự lao động sản xuất cần cù, tích lũy của cải bằng khả năng lao động của chính mình. Hapoong là lớp người cùng cực nhất trong xã hội Hrê trước kia, vì nợ nần không trả được họ phải ở làm trả công cho chủ nợ, thường bị đối xử thấp hơn so với các thành viên khác trong làng. Ngày nay, trong cộng đồng Hrê không còn sự phân biệt giữa các tầng lớp người như trên.


Nhìn chung, xã hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng thống nhất, đoàn kết gắn bó giữa các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương trợ, tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với làng dựa trên quan hệ thân tộc hoặc quan hệ láng giềng.
Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của người Hrê là nông nghiệp trồng lúa nước. Các cánh đồng trồng lúa thường nằm men theo triền đồi thấp, tạo thành những vùng ruộng bậc thang đặc trưng. Do địa bàn cư trú xen giữa đồi núi và thung lũng nên người Hrê tận dụng địa hình để mở mang đồng ruộng rất đa dạng, có ruộng trên các dải đất cao, ruộng lầy ngập nước quanh năm, ruộng bậc thang nhỏ hẹp… Trên vùng ruộng đó gieo cấy các loại giống lúa nước mỗi năm hai vụ, nhưng phần lớn chỉ làm được một vụ. Canh tác ruộng nước của người Hrê bằng phương pháp cuốc, cày, bừa, cấy mạ… tương tự như người Kinh ở Quảng Ngãi.
Đặc biệt, phương pháp đắp đập, dẫn thủy nhập điền của người Hrê khá phát triển. Người ta dẫn nước về ruộng bằng con mương đào dài hàng kilômét theo phương pháp thế năng. Ngoài ra, người dân còn làm đập bổi hay kè đá để nước dâng lên ruộng. Ruộng nước được canh tác hai vụ, vụ đông – xuân thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 5, vụ hè – thu thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 9 Âm lịch. Giống như người Kinh, mạ cấy được gieo ở đất khô, đất bãi thành từng luống. Sau khi mạ lớn chừng 10 – 15cm, nhổ bó thành từng bó và cấy. Hiện nay, phổ biến phương pháp gieo sạ. Ruộng được ngâm nước, đất mềm chỉ bừa mà không cần cày.


 Gốc rạ bị bừa giập vùi xuống bùn để mục làm tăng độ phì cho đất. Đồng bào bón phân chuồng vào đất trước khi cấy sạ và chăm sóc lúa bằng các loại phân hóa học cùng với các loại thuốc trừ sâu. Đặc biệt, khi cây lúa lên người ta không tát nước vào ruộng mà chỉ đưa nước vào theo hệ thống mương dẫn từ đám ruộng trên cao xuống dưới thấp. Lúa chín thu hoạch bằng liềm. Người ta cắt lấy bông lúa, bó thành cụm rồi chuyển đến nhà ruộng dựng tại cánh đồng. Sau đó, lúa được vò bằng chân, hoặc dùng máy suốt đạp chân để tuốt lúa.
Nguồn thu nhập từ rẫy chiếm vị trí thứ hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Hrê. Một vụ lúa rẫy kéo dài từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8, tháng 9. Lúa rẫy được canh giữ chim thú từ khi còn nhỏ đến khi thu hoạch. Người ta làm chòi rẫy để giữ lúa, để nghỉ ngơi, tránh nắng mưa khi đang mùa sản xuất và chứa tạm sản phẩm thu hoạch trong lúc chưa kịp chuyển về làng. Rẫy canh tác theo lối luân canh, mỗi đám rẫy chỉ canh tác một vụ rồi trồng thứ khác hoặc bỏ hoang từ 3 – 5 năm, đợi rừng tái sinh mới canh tác tiếp, rồi lại bỏ hoang hóa…
Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh tế tự cung tự cấp. Nghề thủ công truyền thống của người Hrê gồm có nghề dệt, đan lát. Đan lát là nghề của đàn ông, sản phẩm đan lát là các đồ dùng trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Chăn nuôi gia súc, nhất là chăn nuôi trâu và chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển. Sản phẩm chăn nuôi dùng trong buôn bán trao đổi, làm thực phẩm và dùng trong nghi lễ. Vùng cư trú của người Hrê nằm ở vị trí thông thương với Tây Nguyên xuống và đồng bằng lên nên rất thuận lợi trong trao đổi buôn bán. Thương nhân các nơi khác, nhất là người ở vùng xuôi qua lại từng làng Hrê mua hạt cau khô, hồ tiêu, mật ong, trầu, vải dệt… và bán công cụ sắt, áo quần, muối, chè, đồ trang sức…
.
NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI HRÊ
(trích)
* Các loại hình dân ca
Các loại hình dân ca chính của người Hrê ở Quảng Ngãi bao gồm: ta lêu (ca lêu), ca choi (ca chơi), ta jeo, vađhô con…
Dân ca Hrê có giai điệu trong sáng, tình cảm và thang âm phong phú, nên nhiều nhạc sĩ đã mượn làn điệu từ dân ca Hrê để phát triển thành những ca khúc nổi tiếng, như: Phan Huỳnh Điểu với Bóng cây kơnia (thơ Ngọc Anh), Nhật Lai với Thương anh cán bộ, Cánh chim pôngkle, Hái rau tặng anh bộ đội, Phan Quý với Chiều sông Rhe (thơ Nguyễn Ngọc Trạch)…(3).
* Ta lêu
Ta lêu (ở huyện Sơn Hà, và những vùng dưới của huyện Sơn Tây gọi là ca lêu), là điệu hát kể, có tính chất tự sự. Người Hrê thường dùng ta lêu để hát kể cho con cháu nghe bên bếp lửa nhà sàn, trên rẫy vào mùa chờ thu hoạch. Có hai dòng ta lêu là ta lêu cổ và ta lêu mới.
Ta lêu cổ, là loại ta lêu có hệ thống bài bản vốn được truyền từ đời này sang đời khác. Loại ta lêu này có các đề tài như: kể về các loài vật, cây cối; kể về các anh hùng huyền thoại của cộng đồng tộc người, về các vị thần linh, về những con người tài trí, dũng cảm… Đây là loại ta lêu có cốt truyện nên khi hát kể ta lêu, người Hrê gọi là cà eng, vì có những bài ta lêu được các nghệ nhân Hrê hát suốt cả đêm. Trong các truyện cổ dân gian của người Hrê thường có những đoạn xen bằng văn vần, đó chính là những khúc ta lêu cổ.
Ta lêu mới, là loại ta lêu mới được sáng tác ca ngợi cuộc sống mới, về tinh thần hăng say lao động, sản xuất… và đặc biệt là về tình yêu đôi lứa.

* Ca choi
Ca choi (có nơi gọi là ca chơi) là một loại hát đối đáp. Ca có nghĩa là ca hát, choi (hay chơi) có nghĩa là đối lại. Giai điệu của ca choi trong sáng, đơn giản, nhưng rất mượt mà, tình cảm. Nội dung của ca choi thể hiện nhiều đề tài khác nhau: chuyện yêu đương, chuyện gia đình, chuyện xã hội, mừng quê hương, đất nước… Người Hrê còn dùng ca choi để hát đố lẫn nhau.
Ngoài chức năng dùng để đối đáp, người Hrê còn dùng chính giai điệu trong sáng, tình cảm của ca choi để có thể hát những bài hát mang tính chất giãi bày những nỗi niềm riêng tư, như nói về nỗi khổ nhọc, nghèo túng, mồ côi… Những người lớn tuổi thường sử dụng loại ca choi này.
* Điệu ta jeo
Điệu ta jeo là điệu hát cúng thần linh. Người Hrê cũng như các dân tộc miền núi Quảng Ngãi vốn theo tín ngưỡng đa thần, gồm các thiên thần, nhiên thần. Để khấn mời các vị thần linh, thầy cúng phải thuộc lòng các bài ta jeo khác nhau, tùy thuộc vào vị thần nào được khấn mời mà thầy cúng dùng bài hát cúng có nội dung phù hợp với vị thần đó. Giai điệu, tiết tấu cũng thay đổi trong từng đoạn hát cúng. Có các bài hát cúng như cúng thần gió, cúng thần sông, cúng thần suối, cúng ông bà, tổ tiên, cúng gọi hồn…
* Vađhô con
Vađhô con có nghĩa là hát ru con. Cũng như nhiều tộc người khác, hát ru của người Hrê dùng để ru con, ru cháu. Người Hrê có thể hát ru con ngay cả lúc địu con lên nương rẫy. Nội dung chính của các bài hát ru của người Hrê là chủ yếu là mong con ngủ để cha mẹ đi làm ruộng làm rẫy, để đi bẫy con thú, để vào rừng hái rau, hái củi và mong con lớn lên khỏe mạnh, thành người, biết bẫy thú, bẫy chim, biết làm ruộng, làm nương…

Nghệ nhân Phạm Văn Lơi và nghệ nhân Đinh Văn Rút (thị trấn Ba Tơ) biểu diễn bài ca lêu “Chúc nhau ăn Tết vui vẻ”.

Các loại nhạc cụ
Nhạc cụ của người Hrê chủ yếu được chế tác bằng chính bàn tay của các nghệ nhân dân gian, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm, bằng tai nghe, tay làm, mắt thấy, và sự trao truyền từ đời này sang đời khác. Ngoại trừ các bộ chiêng, còn lại hầu hết các loại nhạc cụ đều làm bằng những vật liệu sẵn có.
Người Hrê sử dụng các nhạc cụ dân gian để chơi trong những lúc rỗi rãi, trên nhà sàn, hoặc ngoài nương rẫy, cũng có khi được sử dụng trong các hội mùa, hội ăn trâu, để ru con ngủ, để tỏ tình… Tiêu biểu có các loại nhạc cụ sau:
* Đàn brook
Là một loại đàn phổ biến của nhiều dân tộc ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, với các tên gọi hơi khác biệt chút ít, như brook, bro, vrook… Đàn brook có bầu đàn bằng trái bầu phơi khô, được khoét ruột; cần đàn là một ống lồ ô hoặc ống nứa dài khoảng 60 – 70cm, có đường kính khoảng 3 – 4cm; các phím đàn là những thẻ gỗ cây gạo hoặc bằng cật mây; có 2 dây, gồm một dây chồng (kxi klô) và một dây vợ (kxi kri). Đàn brook dành cho nam giới, dùng để chơi các giai điệu mang tính tự sự, mô phỏng tiếng chiêng, có khi còn để ru con ngủ, dùng trong tang ma của người Hrê…
* Đàn krâu
Cũng là một loại đàn phổ biến của các dân tộc vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, với các tên gọi khác: goong, goong đe, tinh ninh, teng neng, puôi brol, brook tru… Đàn krâu cũng có bầu đàn bằng trái bầu khô, cần đàn ngắn hơn đàn brook (khoảng 50 – 60cm), nhưng đường kính lớn hơn đàn brook, khoảng 5 – 6cm; không có phím đàn. Đàn krâu thường có 8 -15 dây, nhưng phổ biến là 8 dây. Các khóa để căng dây đàn được làm bằng gỗ hoặc tre già. Đàn krâu cũng dành cho nam giới, dùng để chơi các bài ta lêu, đệm hát, mô phỏng các điệu chiêng ba, chiêng năm của người Hrê.
* Đàn chinh kla
Tiếng Hrê chinh có nghĩa là chiêng, kla có nghĩa là tre, chinh kla có nghĩa là chiêng bằng tre. Đây là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất trong tất cả các loại hình nhạc cụ có mặt ở Việt Nam. Đàn chinh kla được làm bằng một đốt tre già, dài khoảng 25 – 30cm, đường kính khoảng 15 – 20cm. Chung quanh ống tre có 8 – 10 dây đàn, được tước ra từ cật tre, hai đầu dây có những thanh gỗ, hoặc thanh tre nhỏ làm ngựa cho dây đàn. Bụng đàn có một lỗ thoát âm, vốn được khoét theo chiều dài của ống tre. Chinh kla cũng dành cho nam giới, dùng để mô phỏng tiếng chiêng, chơi các giai điệu ru con, các điệu ta lêu… Nhiều nơi người Hrê quan niệm, lúc trời giông thì không được chơi loại đàn này, vì nếu chơi trời sẽ nổi giận làm ra nhiều sấm sét, giông bão.
* Đàn rơđoang
Đàn rơđoang là một loại nhạc cụ họ dây kéo, có nơi gọi là k’ny. Đàn chỉ có một dây, được làm bằng gân thú, hoặc dây dứa, dây tơ, dây nilông, dây kẽm. Cung kéo là một thanh tre, hoặc nứa nhỏ (dùng để kéo). Cần đàn là một ống nứa dài khoảng 40 – 50cm, có 4 – 5 phím bằng sáp ong. Một sợi chỉ được buột chặt từ phía dưới thân đàn nối với một miếng kim loại. Khi diễn tấu, ngoài việc dùng cung kéo để kéo vào dây đàn, người diễn còn ngậm vào miếng kim loại để tạo nên một sự cộng hưởng âm thanh từ khoang miệng. Đàn rơđoang cũng chỉ dành cho đàn ông, dùng để chơi các giai điệu tự sự vào những lúc nhàn rỗi, hoặc mối mai vợ chồng…
* Đàn a khung
Được làm bằng 5 ống nứa, ống canh dài hơn 1m, đường kính khoảng 3,5cm; ống con mói dài khoảng 1m, đường kính khoảng 3,2cm; ống con váy dài khoảng hơn 80 cm, đường kính khoảng hơn 3cm; ốngcon pí dài khoảng hơn 70cm, đường kính khoảng 3cm; ống con pun dài khoảng hơn 60cm, đường kính khoảng gần 4cm. Khi diễn tấu đàn a khung phải có 2 người, một nam, một nữ, hoặc cả 2 nữ trong tư thế quỳ, ngồi bệt, hoặc đứng, tùy vị trí đặt đàn. Người ta dùng 2 bàn tay để vỗ vào đầu ống theo các giai điệu giao duyên, mừng ngày tết, hoặc chỉ đơn thuần là giải trí.
* Đàn và pút
Cũng được làm bằng ống nứa, có kích thước to, nhỏ như đàn rơđoang, nhưng chỉ có 3 ống. Cách chơi cũng giống như đàn rơđoang, nhưng thường chỉ được sử dụng vào dịp Tết, hoặc ở trong rừng, trong rẫy, ít thấy sử dụng trong nhà. Nhiều nơi cho rằng chơi và pút tài sản sẽ bay đi hết.
* Sáo tà lía
Là loại sáo dọc dài, được làm bằng ống nứa (trúc) già, có đường kính khoảng 1,5 – 2cm, dài khoảng 40 – 50cm. Sáo có một lỗ thổi ở đầu ống (ra pét) và 5 lỗ bấm dọc đường thẳng thân ống để tạo các thang âm. Sáo tà lía được dùng để hòa âm với các loại đàn brook, krâu, sáo a mó… vào dịp lễ tết, hoặc có khi chỉ để giãi bày tâm sự vào những đêm trăng sáng…
* Sáo a mó
Được làm bằng một ống triêng rừng, có độ dài khoảng 20 – 25cm, chỉ có một lưỡi gà, không có lỗ để bấm (người Cor gọi là a máp). Đây là nhạc cụ chỉ dành cho phụ nữ. Người chơi sẽ vừa thổi một đầu vừa lấy hai bàn tay đặt vào đầu kia làm hộp cộng hưởng… Sáo a mó dùng để hòa tấu cùng các nhạc cụ khác, để gọi con thức dậy vào sáng sớm, để giãi bày tâm sự…

biểu diễn nhạc cụ Tà Vỗ.

* Sáo tà vố
Sáo tà vố là một nhạc cụ làm bằng đất sét. Đất sét dùng để làm sáo tà vố là loại đất sét màu đỏ, không pha cát, sỏi. Sau khi đập nhuyễn, nặn thành hình tròn như quả trứng, người làm sáo khoét rỗng ruột, làm các lỗ thổi, xong đem phơi khô. Sáo tà vố thường có 3 – 5 lỗ, khi diễn tấu các ngón tay sẽ bịt hoặc thả ra để tạo nên các thang âm. Sáo tà vố là một loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người, là loại nhạc cụ dành cho trẻ em, dùng để gọi bạn tâm tình, khi chăn trâu, hoặc lên rẫy, lên nương.
* Sáo ra ngoái
Còn gọi là đàn ra ngoái, là loại kèn môi, cấu tạo đơn giản: chỉ là một miếng gỗ bằng tre, nứa, hoặc bằng gỗ mứt, và một thanh thép hoặc đồng. Khi diễn tấu, người chơi kẹp hờ hai miếng lại giữa 2 môi, rồi dùng ngón tay bật thanh thép qua lại để tạo ra những bồi âm. Sáo ra ngoái là loại nhạc cụ dành cho cả nam giới lẫn phụ nữ.

Chiêng 3 Hrê.

* Chiêng (chinh)
Người Hrê có bộ chiêng ba chiếc nổi tiếng bằng hợp kim đồng, không có núm. Khi chơi chiêng phải có 3 người chơi, và chỉ đánh bằng nắm tay (không dùng dùi như các dân tộc khác). Bộ chiêng ba của người Hrê gồm:
Chiêng túc: còn gọi là chiêng con, chiêng nhỏ nhất trong 3 chiếc. Khi chơi chiêng người chơi treo chiêng lên xà nhà, lấy tay phải bọc vải để gõ vào mặt ngoài của chiêng, tay trái bịt tiếng mặt trong của chiêng.
Chiêng k’tum: còn gọi là chiêng cha, là chiếc chiêng trung bình. Khi chơi chiêng người chơi tì chiêng lên đùi, tay phải đánh vào mặt chiêng, tay trái bịt âm bằng cả cùi tay.
Chiêng vồng: còn gọi là chiêng mẹ, là chiếc chiêng lớn nhất. Khi diễn tấu người chơi cũng đặt chiêng lên đùi, tay phải vừa đánh chiêng bằng nắm tay, vừa gõ chiêng bằng các đầu ngón tay, tay trái bịt lòng chiêng.
Người Hrê có những giai điệu chiêng ba đặc sắc, như: điệu túc năng, là điệu chiêng vui nhộn, thúc giục; điệu túc k’oa, là điệu chiêng mô phỏng tiếng ếch nhái; điệu túc h’lay, là điệu chiêng mô phỏng âm thanh của nước chảy; điệu tu guốc, là điệu chiêng mô phỏng tiếng chim hót.
Ở một số vùng tiếp giáp với huyện Kon Plông (Kon Tum), người Hrê còn có bộ chiêng 5 chiếc, nhưng không phổ biến.
Chú thích:
(3) – Theo Thế Truyền: Vài nét về âm nhạc dân gian của người Hrê và việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Cẩm Thành số 25, 11.2000, tr. 69.

Đội nghệ nhân huyện Ba Tơ tham gia giao lưu đánh, múa cồng chiêng tại làng văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội.

Độc đáo làn điệu dân ca dân tộc Hrê, Quảng Ngãi
Dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi có nền âm nhạc dân gian khá đa dạng và phong phú. Trong đó, dân ca là một loại hình nghệ thuật diễn xướng được nhiều người yêu thích.
Trong số các nàn điệu dân ca của người H’rê phải kể đến H’chôi. H’chôi gồm có hai loại: “H’chôi i boi” và “H’chôi tăh têu” (hay còn gọi là “Tăh h’chôi”). H’chôi i boi là một làn điệu dân ca có bài bản, có nhịp điệu như một ca khúc mới, có nhiều bài và phổ biến nhất; còn H’chôi tăh têu nó chỉ có một lối hát, một bài mà thôi, là một làn điệu hát đối đáp, nên gọi là H’chôi tăh têu.
Người Hrê giải thích như sau: “Tăh têu” tức là đối đáp, “Tăh h’chôi” tức là hai người hát đối đáp làn điệu H’chôi tăh têu, hay nói cách khác, H’chôi tăh têu là tên của một làn điệu dân ca, còn Tăh h’chôi là khi hai người hát đối đáp với nhau làn điệu dân ca H’chôi tăh têu, lúc này gọi là “Tăh h’chôi”, nên gọi là làn điệu “Tăh h’chôi” cũng được.
H’chôi tăh têu là một làn điệu lối hát tự do, không có nhịp điệu, âm đầu tiên là âm lấy đà, âm thứ hai và âm cuối cùng của câu nhạc thường kéo dài hơi, các âm trong câu thường có chùm (liên) âm và từng âm một, hoặc hai, hát chậm rãi, đôi khi còn xen lời nói, rồi hát. Làn điệu H’chôi tăh têu về giai điệu âm nhạc thì có sẵn, còn phần lời thì người hát tự ứng tác tại chỗ theo nội dung sinh hoạt, nó không có bài bản cụ thể, nên làn điệu h’chôi tăh têu có thể hát nhiều nội dung khác nhau và người ta có thể hát với nhau suốt cả đêm mà không có đoạn kết.
Về nội dung thường thì người ta hát để tỏ tình giao duyên kết bạn, tâm tình kết sui gia, hoặc để trao đổi một công việc gì đó… người ta không tiện nói với nhau bằng lời nói cụ thể mà thông qua bằng âm nhạc, lời thơ dùng những từ ngữ ví von sâu xa, tinh tế, kín đáo, có vần điệu để diễn tả tình cảm của mình mà đối phương hiểu được ý tứ của nó; rồi đối phương đáp lại cũng vậy, dùng những lời thơ tinh tế, sâu sắc nhưng chỉ tập trung vào một nội dung mà hai người đang quan tâm, lời thơ đó phải đúng theo lối hát làn điệu H’chôi tăh têu, cứ thế cuộc “hát lý, nói lý” giữa hai người suốt cả đêm mà không có đoạn kết. Và phần diễn xướng giai điệu cũng vậy, người thể hiện cũng phải biết cách rung giọng, kéo dài hơi một cách khéo léo, hợp lý thì mới có thể tạo ấn tượng cho đối phương, và người nghe.
Đặc biệt, nếu hai người đều biết thổi Rangoiq (kèn môi), kết hợp vừa hát một đoạn, thổi một đoạn thì thật là hấp dẫn, độc đáo hơn nhiều. Nhưng những cặp như vậy không nhiều, bởi những kỹ năng thổi kèn môi khi nó vang lên âm thanh mà người nghe cảm nhận được ý tứ, nội dung của nó, đồng thời vừa suy nghĩ ứng tác những lời thơ sâu sắc, vần điệu và có lối hát ngọt ngào, mênh mông của làn điệu H’chôi tăh têu thật không dễ chút nào, nhất là với những người mới tập hát làn điệu này.
Vào các dịp Tết, cúng, đám cưới, hay sinh hoạt vui chơi, giải trí… ngồi bên ché rượu cần, khi có chút men rượu người ta thường rủ nhau hát làn điệu H’chôi tăh têu để giao lưu, tâm sự, chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, hoặc để thể hiện khả năng tài nghệ hát h’chôi tăh têu, thổi rangoiq của mình với mọi người. Có những cặp hát với nhau suốt cả đêm mà không bên nào chịu kết thúc trước, làm cho không khí ngày vui thêm rộn rã, đầm ấm, và mang nhiều ý nghĩa…

Tiết mục làn điệu H’chôi tăh têu tại Liên hoan Dân ca Việt Nam năm 2011.
H’chôi tăh têu” là một làn điệu dân ca độc đáo của dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi

Cũng như các dân tộc anh em khác, dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi có nền âm nhạc dân gian khá đa dạng và phong phú. Dân ca là một loại hình nghệ thuật diễn xướng được nhiều người yêu thích, trong đó phải kể đến làn điệu H’chôi (Ca chôi).
H’chôi gồm có hai loại: “H’chôi i boi” và “H’chôi tăh têu” (hay còn gọi là “Tăh h’chôi”). H’chôi i boi là một làn điệu dân ca có bài bản, có nhịp điệu như một ca khúc mới, có nhiều bài và phổ biến nhất; còn H’chôi tăh têu nó chỉ có một lối hát, một bài mà thôi, là một làn điệu hát đối đáp, nên gọi là H’chôi tăh têu.
“Tăh têu” tức là đối đáp, “Tăh h’chôi” tức là hai người hát đối đáp làn điệu H’chôi tăh têu, hay nói cách khác, H’chôi tăh têu là tên của một làn điệu dân ca, còn Tăh h’chôi là khi hai người hát đối đáp với nhau làn điệu dân ca H’chôi tăh têu, lúc này gọi là “Tăh h’chôi”, nên gọi là làn điệu “Tăh h’chôi” cũng được.
H’chôi tăh têu là một làn điệu lối hát tự do, không có nhịp điệu, âm đầu tiên là âm lấy đà, âm thứ hai và âm cuối cùng của câu nhạc thường kéo dài hơi, các âm trong câu thường có chùm (liên) âm và từng âm một, hoặc hai, hát chậm rãi, đôi khi còn xen lời nói, rồi hát. Làn điệu H’chôi tăh têu về giai điệu âm nhạc thì có sẵn, còn phần lời thì người hát tự ứng tác tại chỗ theo nội dung sinh hoạt, nó không có bài bản cụ thể, nên làn điệu h’chôi tăh têu có thể hát nhiều nội dung khác nhau và người ta có thể hát với nhau suốt cả đêm mà không có đoạn kết.
Về nội dung thường thì người ta hát để tỏ tình giao duyên kết bạn, tâm tình kết sui gia, hoặc để trao đổi một công việc gì đó… người ta không tiện nói với nhau bằng lời nói cụ thể mà thông qua bằng âm nhạc, lời thơ dùng những từ ngữ ví von sâu xa, tinh tế, kín đáo, có vần điệu để diễn tả tình cảm của mình mà đối phương hiểu được ý tứ của nó; rồi đối phương đáp lại cũng vậy, dùng những lời thơ tinh tế, sâu sắc nhưng chỉ tập trung vào một nội dung mà hai người đang quan tâm, lời thơ đó phải đúng theo lối hát làn điệu H’chôi tăh têu, cứ thế cuộc “hát lý, nói lý” giữa hai người suốt cả đêm mà không có đoạn kết. Và phần diễn xướng giai điệu cũng vậy, người thể hiện cũng phải biết cách rung giọng, kéo dài hơi một cách khéo léo, hợp lý thì mới có thể tạo ấn tượng cho đối phương, và người nghe.
Đặc biệt, nếu hai người đều biết thổi Rangoiq (kèn môi), kết hợp vừa hát một đoạn, thổi một đoạn thì thật là hấp dẫn, độc đáo hơn nhiều. Nhưng những cặp như vậy không nhiều, bởi những kỹ năng thổi kèn môi khi nó vang lên âm thanh mà người nghe cảm nhận được ý tứ, nội dung của nó, đồng thời vừa suy nghĩ ứng tác những lời thơ sâu sắc, vần điệu và có lối hát ngọt ngào, mênh mông của làn điệu H’chôi tăh têu thật không dễ chút nào, nhất là với những người mới tập hát làn điệu này.
Ngày xưa trong các dịp Tết, cúng, đám cưới, hay sinh hoạt vui chơi, giải trí… ngồi bên ché rượu cần, khi có chút men rượu người ta thường rủ nhau hát làn điệu H’chôi tăh têu để giao lưu, tâm sự, chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, hoặc để thể hiện khả năng tài nghệ hát h’chôi tăh têu, thổi rangoiq của mình với mọi người. Có những cặp hát với nhau suốt cả đêm mà không bên nào chịu kết thúc trước, làm cho không khí ngày vui thêm rộn rã, đầm ấm, và mang nhiều ý nghĩa..

Đàn vơ-roác bị thất truyền, nay cũng được khôi phục lại.

Tâm huyết bảo tồn nhạc cụ dân tộc Hrê
Bản sắc văn hóa truyền thống của người Hrê ở Quảng Ngãi rất phong phú và đa dạng, song lại đang có xu hướng bị mai một. Đáng mừng là, một nghệ nhân ở thị trấn Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, năm nay đã hơn 80 tuổi, vẫn miệt mài gìn giữ, lưu truyền nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Đó là nghệ nhân Đinh Văn Ước- một trong số ít người ở huyện Ba Tơ còn có thể chế tạo và sử dụng các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hrê.
Nghệ nhân Đinh Văn Ước giờ đây dù tuổi cao, sức đã yếu nhưng vẫn miệt mài ngồi gọt dũa từng thanh tre, nhặt từng vỏ bầu để làm nên những nhạc cụ truyền thống. Đến nay, nghệ nhân Đinh Văn Ước đã chế tạo lại thành công 4 loại nhạc cụ của người Hrê là đàn Vơ roát, Vơ rao, Ra đong, sáo Ta lía. Những nhạc cụ này đang được lưu giữ tại Bảo tàng Ba Tơ.
Nghệ nhân cho biết: Từ thời ông bà tổ tiên trước đây đã có những nhạc cụ đó rồi, nhưng hiện đã mất gần hết. Bây giờ, mình nhớ được cái gì thì mình chế tạo lại cái đó. Với mong muốn để con cháu có cái mà lưu giữ, học tập nên mình cố gắng làm cho bằng được.
Kinh tế phát triển, đời sống của bà con đồng bào Hrê cũng được nâng lên, giờ đây tuổi trẻ không mấy người mặn mà với những nhạc cụ truyền thống. Các làn điệu quen thuộc của đồng bào Hrê trước đây như cồng chiêng, hát Ta lêu, Ta choi, sáo Ta lía, đàn Vơ Roát, Rơ đong …đang dần bị mai một.
Vì vậy, ngoài việc để lại những nhạc cụ truyền thống, nghệ nhân Đinh Văn Ước còn mong con cháu có thể sử dụng thành thạo những nhạc cụ đó. “Giới trẻ bây giờ cũng có người biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của người Hrê, tuy nhiên họ biểu diễn theo kiểu âm thanh sẵn, làm theo cái máy, hoặc cầm đàn nhảy theo nhạc, không có bài bản gì mà mình thấy đau lòng. Ngoài việc chế tạo lại các nhạc cụ thì mình cũng phải chỉ dạy cho con cháu cách sử dụng để mong sao đời sau vẫn có người giữ được bản sắc của dân tộc”- Nghệ nhân Đinh Văn Ước tâm sự.
Với những đóng góp cụ thể ấy, nghệ nhân Đinh Văn Uớc đã góp phần lưu giữ những nét đẹp truyền thống trong đời sống tinh thần của người Hrê.

Nghệ nhân Đinh Ngọc Su.

Giao duyên qua tiếng đàn Ra-ngói của người H’re
Ngày xưa, thanh niên nam nữ dân tộc H’re đến tuổi trưởng thành dùng đàn Ra-ngói (đàn môi) để tìm hiểu, giao duyên với nhau. Nhiều đôi nam nữ đã thành vợ thành chồng qua tiếng đàn Ra-ngói.
Có dịp về với buôn làng đồng bào H’re, được nghe, cảm nhận cái hay, cái đẹp của loại nhạc cụ và cũng là phương tiện giao duyên độc đáo này chắc chắn sẽ đọng lại trong mỗi chúng ta bao điều thú vị.
Người H’re gọi đàn môi là Ra-ngói. Về cấu tạo, hình dáng đàn Ra-ngói của người H’re cũng giống như đàn môi của nhiều cộng đồng dân tộc khác. Ra-ngói thường được làm bằng thanh gỗ, hình dáng, kích thước như chiếc ghim đan lưới của bà con vùng biển, ở giữa có thanh thép dẹt. Khi chơi loại nhạc cụ này, người chơi đưa đàn lên môi, một tay giữ, một tay gảy thanh thép, kết hợp với sự điều khiển của đầu lưỡi và đôi làn môi, tạo nên thứ âm thanh trầm, ấm, chuyển tải rất hiệu quả tình cảm yêu thương của con người.
Có lẽ vì Ra-ngói có khả năng thể hiện tình cảm hiệu quả như vậy, nên từ xa xưa thanh niên nam nữ dân tộc H’re thường dùng để giao duyên với nhau. Hình thức giao duyên khá độc đáo này đã trở thành nét đẹp trong đời sống cộng đồng. Nghệ nhân Đinh Ngọc Su khẳng định: “Trước kia người H’re chưa có phương tiện viết thư trao đổi tâm tình, Ra-ngói là phương tiện tỏ tình phổ biến và hiệu quả nhất”.
Cũng có lẽ vì hiệu quả như vậy mà thanh niên nam, nữ dân tộc H’re ngày xưa đến tuổi trưởng thành đều biết chơi đàn Ra-ngói. Trong túi áo họ lúc nào cũng thủ sẵn một chiếc đàn và sẵn sàng rung lên cùng với nhịp đập của trái tim trước người mình yêu thương.
Qua tiếng đàn ra-ngói, người con trai tỏ lòng với người con gái yêu thương thế này:
Em ơi em ơi!
Em có ưng tôi không?
Tôi có đẹp không?
Tôi đẹp, em có ưng tôi thì hai đứa cùng tìm hiểu.
Em chưa chồng, tôi chưa vợ, hãy nói với nhau cho biết!
Nếu người con gái có cảm tình với người con trai, cũng dùng Ra-ngói tỏ rõ lòng mình:
Em chưa có chồng.
Anh thương em thiệt tình thì em cũng thương anh.
Mình đừng phỉnh nhau.
Nếu phỉnh nhau là có lỗi với nhau.
Phải cúng trâu cúng bò tạ lỗi với nhau.
Đó là lời hứa với nhau.
Em hứa với anh,
anh hứa với em thật lòng,
để sau này anh, em thành vợ chồng.
Còn nếu như người con gái đã có người yêu, không thể nhận lời, sẽ khéo léo từ chối. Đại loại như: không ưng anh vì em đã có người này người kia, hay vì hoàn cảnh nào đó. Hoặc em là người thế này, thế nọ, em nghèo, em xấu, không có nhiều trâu, nhiều chinh, ché, không xứng với anh. Hoặc em không ưng không phải do anh xấu, do anh nghèo mà là do số phận, trời không cho chúng mình lấy nhau….
Theo phong tục truyền thống của người H’re, sự chủ động bày tỏ tình cảm lứa đôi không phân biệt nam hay nữ chủ động trước, mà hoàn toàn bình đẳng với nhau. Trước người con trai khỏe mạnh siêng năng, giỏi làm cái rẫy, biết đánh túc-chinh hay, chơi đàn Ra-ngói hay, được người con gái đem lòng yêu thương và chủ động tỏ tình. Với người con gái dùng tiếng đàn Ra-ngói ghẹo người con trai thường ý nhị, kín đáo hơn:
– Anh ơi, lúc giờ anh bận gì không. Anh không bận, về nhà em nói chuyện với nhau.
Hoặc trách khéo:
– Lâu nay sao anh không đến thăm nhà em. Em ưng anh thăm nhà em để có dịp nói chuyện với nhau…
Sau đó tiếp tục gặp nhau tìm hiểu và hợp nhau nên vợ nên chồng.
Ra-ngói với thanh niên nam nữ dân tộc H’re ngày xưa quan trọng như vậy, nên đến tuổi trưởng thành ai cũng học và biết đàn Ra-ngói. Sau một ngày làm việc trên nương, rẫy tối về đi chơi, thanh niên nam, nữ thường thủ sẵn đàn Ra-ngói trong túi áo. Đến nhà người mình yêu, dùng tiếng đàn để tán tỉnh, giao duyên:
Em ơi em, em muốn nghe anh chơi đàn Ra-ngói hay không.
Anh hãy đàn đi. Em sẵn sàng nghe anh đây.
Thế là tiếng đàn Ra-ngói thay tiếng nói con tim, ngân lên nhiều cung bậc, lúc nhẹ nhàng như tiếng xào xạc của lá rừng, lúc dịu nhẹ như giọt sương đêm tinh khiết và lúc tuôn trào như dòng thác, thổn thức lời yêu thương thay tiếng nói con tim.

Người Hrê “vắt đất ra nhạc”
Tại lễ tổng kết 15 năm về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” do Tỉnh Quảng Ngãi tổ chức cuối tháng 5 vừa qua, hơn 250 đại biểu dự hội nghị đã chăm chú lắng nghe nghệ nhân dân gian Đinh Ngọc Su – người dân tộc Hrê, Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi thôn Tà Pa, xã Sơn Thượng, huyện miền núi Sơn Hà biểu diễn một nhạc cụ rất độc đáo mà người Hrê gọi là Tà Vỗ được làm từ đất sét.
Âm thanh của nhạc cụ này đã làm say đắm bao lòng người không những đối với người Hrê, những người dự hội nghị mà còn đối với các dân tộc trong và ngoài nước. Chính vì vậy, ông rất vinh dự được người dân Hrê trân trọng phong tặng cho ông biệt danh- Người “Vắt đất ra nhạc”.
Huyện miền núi Sơn Hà (Quảng Ngãi) có 4 dân tộc anh em cùng chung sống gồm: Hrê, Kinh, Kor, Cadong với tổng dân số trên 71.000 người, dân tộc Hrê chiếm 82%. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, phong phú, độc đáo, đã góp phần tạo nên bức tranh mang sắc thái đa dạng. Tại vùng đất miền núi Sơn Hà đã và đang là mảnh đất có sự giao thoa tinh hoa văn hóa các dân tộc trong tỉnh.
Nghệ nhân dân gian Đinh Ngọc Su năm nay vừa tròn 70 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Làng Ec, thôn Tà Pa, xã vùng cao Sơn Thượng, huyện Sơn Hà. Năm 13 tuổi, Đinh Ngọc Su bắt đầu tham gia cách mạng và được kết nạp vào đảng từ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Sau khi về hưu ông được tín nhiệm giao giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Sơn Thượng. Nay tuổi cao sức yếu, ông giữ chức Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi thôn Tà Pa.
Ông Su tâm sự: “Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên tại xã vùng cao Sơn Thượng, huyện Sơn Hà, nơi luôn có giai điệu âm thanh réo rắt, nhộn nhịp như mời gọi bạn đến nhà. Ngay từ lúc còn bé, bản thân tôi đã say mê, thích thú với những làn điệu dân ca của quê hương, những nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Nhờ được cha mẹ truyền dạy cách biểu diễn các loại nhạc cụ của người Hrê, được nghe các lớp cha anh biểu diễn các loại đàn a khung, prot, krâu, vút, ngói, ra ngoáy.. những âm thanh của các nhạc cụ cứ vang vọng, lúc líu lo như tiếng chim gọi bầy, lúc mênh mang như gió rừng chạy dài trên vách núi của rừng núi đại ngàn, cũng có lúc êm dịu trữ tình như những bản tình ca ca ngợi tình yêu và mùa vàng ngay trên quê hương đã cuốn hút tôi mê say tự lúc nào… Từ đó, tôi dần dần học hỏi, chế tác các nhạc cụ truyền thống và nuôi dưỡng ước mơ truyền dạy các nhạc cụ truyền thống ấy cho con cháu hôm nay…”.
Từ trước đến nay, ngoài việc thực hiện công tác của cơ quan phân công, nhiệm vụ nào được giao ông cũng hoàn thành, ông luôn dành quỹ thời gian để nghiên cứu, sưu tầm các làn điệu dân ca, các loại nhạc cụ dân tộc và chế tác một số nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hrê. Đặc biệt là nhạc cụ Tà Vỗ.
Nghệ nhân Đinh Ngọc Su cho biết: Nhạc cụ Tà Vỗ là loại nhạc cụ đơn giản nhưng rất khó làm để có được âm thanh hay, vì nguyên liệu làm nhạc cụ này chỉ là đất sét được nhào thật nhuyễn, sau đó nắn thành hình như quả cau, to bằng trứng vịt, cắt thành 2 mảnh, dùng dao hoặc cây nhọn khoét rỗng ruột sau đó hai mãnh đất áp lại, khoét một lỗ thổi, một lỗ thông hơi và ba lỗ điều chỉnh âm tiết cao thấp theo ý đồ của người thổi, sau đó đưa ra phơi nắng nhiều ngày cho thật khô, thế là hoàn thành sản phẩm nhạc cụ Tà Vỗ.
Nghệ nhân Đinh Ngọc Su cho biết thêm, ngoài nhạc cụ Tà Vỗ, ông còn chế tác và biểu diễn nhuần nhuyễn các loại nhạc cụ khác của dân tộc Hrê như đàn a khung, krâu, vút, ngói… Đối với nhạc cụ Tà Vỗ, trẻ em thường được sử dụng nhiều nhất là vào thời điểm lúa trên nương rẫy vừa thu hoạch xong, bên những nương lúa chỉ còn trơ gốc rạ, lũ trẻ lùa trâu ra đồng, để trâu gặm cỏ, vừa chăn trâu, vừa thi, thổi làm Tà vỗ, các em sử dụng Tà Vỗ vào những buổi hoàng hôn khi gọi bạn và đàn trâu về.
Còn đối với người lớn, âm thanh ấy là nỗi lòng của người Hrê hiền lành, chất phác, hồn nhiên, là lời nhắn gửi, thăm hỏi chân tình giữa những người thân trong gia đình, giữa những người dân trong bản làng, âm thanh của Tà Vỗ như một bản tình ca về tình yêu quê hương đất nước. Riêng với ông Su, âm thanh của Tà vỗ từ lâu đã trở nên quen thuộc, gắn kết với cuộc đời ông.
Hiện nay trong quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng, nhất là các loại nhạc cụ hiện đại ngày càng nhiều và đang lan tỏa đến mọi miền quê, kể cả vùng núi cao quê ông, các loại nhạc cụ mới phần nào ảnh hưởng đến văn hóa của dân tộc tại địa phương. Trước thực trạng đó ông nghĩ rằng: Những nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Hrê sẽ dần dần mai một, nếu chúng ta không giữ gìn, bảo tồn, phát huy và truyền dạy lại cho con cháu ngay từ bây giờ thì sẽ mất đi nét văn hoá riêng của dân tộc mình.
Chính vì vậy, không dừng lại ở việc nghiên cứu, sưu tầm, chế tác các loại nhạc cụ truyền thống của cha ông, trong nhiều năm qua ông đã chủ động đến các trường tiểu học, trung học cơ sở của xã và một số xã trong huyện để liên hệ với Ban giám hiệu nhà trường truyền dạy cách chế tác, cách sử dụng và biểu diễn các loại nhạc cụ cho các em học sinh, nhất là nhạc cụ Tà Vỗ. Đến nay riêng tại xã Sơn Thượng quê ông đã có trên 35 em học sinh là con em dân tộc Hrê biết chế tạo và biểu diễn thành thục các nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Hrê.
Với nhạc cụ Tà Vỗ của mình, từ trước đến nay qua biết bao lần tham gia hội diễn hoặc liên hoan âm nhạc từ cấp huyện đến cấp quốc gia, lần nào ông cũng nhận được giải thưởng. Tháng 5/2007, ông vinh dự được Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian tặng Bằng công nhận danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”; Năm 2009 tham gia cuộc thi biểu diễn âm nhạc toàn quốc tại Phú Yên ông đoạt giải A; ông được Hội Văn học nghệ thuật tỉnh chọn cùng với một số nghệ nhân khác sang giao lưu với Đoàn nghệ thuật JeIu- Hàn Quốc, mới đây ông được cử đi giao lưu âm nhạc với Đoàn Văn hoá nghệ thuật dân gian Thụy Điển tại Hà Nội và ông đã nhận nhiều Bằng khen của UBND tỉnh Quảng Ngãi về thành tích sưu tầm, nghiên cứu, truyền dạy, chế tác các loại nhạc cụ và công tác xây dựng đời sống văn hóa tỉnh Quảng Ngãi. Nghệ nhân Đinh Ngọc Su là tấm gương tiêu biểu của người Hrê đã góp phần lớn tại địa phương xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đôi nét về nghi lễ, lễ hội của người Hrê

Dân tộc Hrê còn có các tên gọi khác Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me. Dân tộc Hrê cư trú chủ yếu ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão (Bình Ðịnh).
Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn… đều cúng bái. Vì vậy hàng năm họ đều tổ chức những nghi lễ hay lễ hội để xua đi những xúi xẻo, của dịch bệnh, cầu mong điều an bình trong cuộc sống.
Nghi lễ cơm mới
Người Hrê chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy với kỹ thuật canh tác lúa nước như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi nhằm phục vụ các lễ cúng bái. Vì vậy, Tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa, khi gieo cấy và khi thu hoạch, cất lúa vào kho.
Văn Chấn