Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Ra Glai
Showing posts with label ₪ Dân tộc Ra Glai. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Ra Glai. Show all posts

Friday, August 19, 2016

Tah rughơm - làn điệu Dân ca độc đáocủa người Raglai ở Khánh Hòa (Hứa Ban Mai)

Cùng với các loại hình văn học - nghệ thuật truyền thống khác, dân ca có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người Raglai ở Khánh Hòa. Người Raglai ở Khánh Hòa có nhiều làn điệu dân ca như: Alơu, Du, Majieng, Ritu, Siri, Tah rughơm, Sangơi, Mađu, Akhacađam..., mỗi làn điệu có từng nội dung và đặc điểm diễn xướng riêng, song tất cả đều mộc mạc, gần gũi. Trong số các làn điệu dân ca trên đây, làn điệu Alơu, Du, Majieng, Ritu, Siri… khá phổ biến, được đồng bào yêu thích và hát ở nhiều nơi. Bên cạnh đó, Tah rughơm lại là một làn điệu dân ca ít được đồng bào Raglai nhắc đến, hoặc nhắc đến nhưng không dám hát bởi nó ẩn chứa những điều đặc biệt đối với đồng bào nơi núi rừng, nương rẫy.

1. Môi trường diễn xướng và nội dung của làn điệu Tah rughơm
Tah rughơm là một làn điệu dân ca cổ xưa của người Raglai. Do có một sự ràng buộc nào đó về mặt tâm linh nên đồng bào không dám hát làn điệu Tah rughơm, vì vậy ngày nay số người biết về làn điệu dân ca này rất hạn chế.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế Sang tuy chưa được nghe hát làn điệu Tah rughơm, song ông cũng có được một vài thông tin về làn điệu do đồng bào kể lại. Theo ông Nguyễn Thế Sang tìm hiểu, Tah rughơm là điệu hát đối đáp nam nữ - khúc hát về tình yêu. Nhân vật nam đóng vai TAXER, tức là CỌP NGƯỜI, khi đến với con người thì CỌP trở thành CON NGƯỜI, nhưng khi vào rừng lại hóa ra CỌP. Ông bà Raglai xưa truyền lại rằng: thuở xa xưa có đôi nam nữ yêu nhau, họ yêu hết gan hết bụng mà không thể nào lấy được nhau làm vợ làm chồng chỉ vì người nam là TAXER. Người nữ Raglai biết chắc chắn rằng không thể lấy được TAXER, nhưng vẫn yêu. Còn TAXER cũng không thể quên được mối tình chung thủy. Do đó, họ vẫn gặp nhau và mỗi lần gặp nhau là một lần TAXER phải tiễn người yêu về làng, cuộc chia tay nào cũng bịn rịn…

Theo thông tin của ông Nguyễn Thế Sang, Tah rughơm là điệu hát nói về mối tình trong trắng, cao thượng mà dang dở. Do vậy, khi hát nghe rất thống thiết và đến đoạn chia tay nhau, người nữ phải hát đối lại, hát ngược lại để tiễn TAXER về rừng, nếu không thì thương quá, nhớ quá! Phải hát đối lại như vậy để TAXER ra về được yên lòng, nếu không thì có thể “bị quở, bị bắt”...!

Cũng là làn điệu Tah rughơm, nhưng chúng tôi lại được ông Mấu Quốc Tiến - một người con của đồng bào dân tộc Raglai, đồng thời là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cung cấp thông tin theo vấn đề khác. Ông Mấu Quốc Tiến cho biết, trong tiếng Raglai từ  “ruh”có nghĩa là cọp, “ghơm” là sấm sét, tức là nói đến cọp là nói đến sấm sét, rất ghê gớm. Như vậy, Tah rughơm là làn điệu hát về cọp với hai bài: Cọp đến và Cọp đi.

Người Raglai luôn coi mình là người con của núi rừng, họ tôn kính núi rừng vì bao đời nay họ gắn bó với núi rừng, sinh ra từ núi rừng và chết đi cũng ở núi rừng. Đồng bào quan niệm, Giàng nơi núi rừng rất linh thiêng, Giàng có thể cứu giúp con người hay trừng phạt con người. Từ những quan niệm này mà người Raglai gọi những con vật thiêng của núi rừng là Ông, là Bà như Ông Voi, Bà Voi. Khác với nhiều dân tộc, người Raglai không hành nghề săn bắn. Một con heo nếu bị sa bẫy bảo vệ mùa màng thì con heo đó không được làm của tư để đổi gạo, áo…vì đây là của trời cho nên miếng thịt phải được chia cho mọi gia đình. Không được bắt con vật ở rừng để cúng kính ông bà. Bởi vậy, việc giữ nương rẫy của người Raglai ở đây chỉ là để muông thú không phá hoại mùa màng, họ coi muông thú là con vật thiêng của núi rừng thiêng nên không bắn giết mà chỉ đuổi bằng tiếng kèn, tiếng sáo, hay những thanh đá kêu.  

Cọp là con vật thiêng của rừng thiêng và được đồng bào Raglai tôn kính gọi là Chúa Sơn Lâm. Nếu con người làm những việc sai trái thì cọp sẽ thế Trời, thế Giàng để trừng phạt. Xưa kia, vùng Thành Sơn và Sơn Lâm của huyện Khánh Sơn xuất hiện nhiều cọp, cọp hoành hành rất ghê gớm. Trong thời kỳ chống Pháp, cọp đã bắt rất nhiều người. Theo người Raglai, khi làm nhà cần chú ý đến hướng của người nằm sao cho đầu gối biển, chân gác núi vì cọp chỉ bắt người đằng đầu chứ không bắt đằng chân. Người Raglai cho rằng, nếu con người hiền với cọp thì cọp sẽ hiền lại, nếu con người ác với cọp thì cọp ác lại.

Như vậy, theo những gì mà chúng tôi ghi nhận được qua điền dã thì làn điệu Tah rughơm thực chất là hát về cọp. Vì người Raglai coi cọp là con vật thiêng nên họ “kiêng” hát làn điệu Tah rughơm, nếu có cũng chỉ hát trong hội mùa, trong lúc đông người, trong cuộc vui tập thể. Ông Mấu Quốc Tiến cho biết thêm: “theo các cụ, nếu đi rừng mà hát bài này một mình, hát không đủ câu, họ (cọp) đến mà không có đồ để nạp thì họ sẽ giận dữ, bắt người, bắt heo, bắt gà”

Ông Mấu Quốc Tiến “mạnh dạn” hát bài Cọp đến với lời ca được ghi theo ký tự tiếng Raglai như sau: 
“Vrai rai dighơm sađơm grơm manhĩ changđìq mũ changđơm grơm nãu manhĩ. Carang vang seq chưq khal valìq main si anghùq yư ghơu awan. Chapa wa wơn  va yuơn pathau main si garau va yuơn tuviaq. A pui si asaq mãq mal valìq main si culìq main sujau. Main si garau va liưq ralong lumah pu prong lumah cuơn. Avih thut anau va vilan vahrơu anãq urang catrơu va yuơn tuviaq. Anãq urang catrơu cong wang tubuaiq pròq jang huaiq pròq jang titua, anĩ tinhã pa hara inã lakieng. Uliơr oh truh laduh tacuai main si vinãi sabai tasi, nhơm jơng cuhìq nhơm jơng sijau. Main si garau va yuơn tuviaq apui si asaq mãq mal valìq” .

Lời ca của bài hát Cọp đến  tạm dịch nghĩa tiếng Việt là:
“Gió ngàn thổi tiếng vi vu, cọp thiêng đến, cọp thiêng của nơi rừng thiêng, cọp thiêng của đất, của trời, của sấm kêu. Cọp đột nhiên hoành hành chính là ông trời giáng hạ trừng phạt chúng ta, như trời cho sét đánh. Sợ cọp bắt giết hại nên người giả con vật để tránh nhưng không thể nào tránh được, hãy đừng có đùa với Chúa Sơn Lâm. Cọp của rừng thiêng để cho ăn nhiều thịt khéo ăn nhầm cả con người. Người có lỗi sẽ bị trời sai quan lớn bắt tội. Người để mất giống má mùa màng thiêng liêng sẽ đáng phạt, hết năm cũ sang năm mới không nghi lễ ăn đầu lúa và tết lúa mới sẽ bị cọp thế trời dạy đời. Con người như sóc đi kiếm ăn, cũng phải ra khỏi nhà, rất nguy hiểm vì sự rình rập của nanh vuốt. Xin cúi đầu chào Chúa Sơn Lâm, con vật của rừng thiêng. Không đùa chơi với nanh vuốt, tránh sự trả thù nhau giữa loài người và cọp”.

Ông Mấu Quốc Tiến - người hát bài Cọp đến của làn điệu Tah rughơm

2. Một vài đặc điểm âm nhạc
- Về cấu trúc
Với cảm hứng tự nhiên, người Raglai đã hình thành cấu trúc bài hát Cọp đến của làn điệu Tah rughơm từ việc nhắc lại nhiều lần trên cơ sở một nét giai điệu chủ đạo ban đầu. Mỗi lần nhắc lại, nét giai điệu chủ đạo ban đầu được làm mới bằng những biến hóa đơn giản, cũng có khi là sự nhắc lại nguyên dạng.

Ví dụ sau đây cho thấy nét giai điệu chủ đạo gồm 7 nhịp đầu tiên, sau đó nét giai điệu được nhắc lại nguyên dạng (từ nhịp 8 đến 14)

Hưa Ban Mai (sưu tầm)

Nghi lễ truyền thống của người Raglai (Đỗ Mai Chử)

Trong tổ chức đời sống văn hoá tinh thần của người Raglai có nhiều nghi lễ truyền thống chứa đựng giá trị bản sắc văn hoá độc đáo. Trong đó, có nghi lễ ăn lúa mới (Mbeng Akaok Padai), nghi lễ cưới hỏi và nghi lễ bỏ mả (Ngap Padhi). Thông qua, việc thực hiện nghi lễ người Raglai mang những bộ mả la ra trình diễn nghệ thuật âm nhạc. Có thể nói rằng, chính nghi lễ là cái nôi nuôi dưỡng và làm hồi sinh cội nguồn văn hoá tộc người Raglai.
Người Raglai ở Việt Nam
Tộc người Raglai đã sinh sống lâu đời ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Raglai ở Việt Nam có dân số 122.245 người, có mặt tại 18 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Raglai cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (58.911 người, chiếm 48,2% tổng số người Raglai tại Việt Nam), Khánh Hòa (45.915 người, chiếm 37,6% tổng số người Raglai tại Việt Nam), Bình Thuận (15.440 người) và Lâm Đồng (1.517 người). Tộc người Raglai thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polinésien (Mã Lai-Đa Đảo), cùng chung nhóm này có tộc người Chăm, Rađê, Churu và Gia Rai. Văn hoá tộc người Raglai có nhiều nét tương đồng với tộc người Chăm. Hàng năm, khi người Chăm tổ chức lễ hội Katê trên các đền tháp Champa thì người Raglai mang Y Trang xuống cúng lễ. Ngược lại, khi người Raglai tổ chức lễ hội Po Nai Tangya thì người Chăm đến tham dự cùng nhau phối hợp hành lễ chung. Bởi vậy, trong dân gian lưu truyền câu nói: “Chăm sa-ai Raglai adei” (Người Chăm là anh còn người Raglai là con gái út). Hiện nay, người Chăm và người Raglai vẫn còn bảo tồn chế độ mẫu hệ, hôn nhân cư trú bên nhà vợ.

Nghi lễ ăn lúa mới
Nghi lễ ăn lúa mới là một trong những nghi lễ lớn và quan trọng của người Raglai được tổ chức theo chu kỳ 3 năm hoặc 7 năm một lần tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế gia đình. Nhằm tưởng nhớ về tổ tiên và cầu xin thần linh sự che chở, phù hộ trong năm mới vụ mùa mới được bội thu, cây trồng, vật nuôi sinh sôi và nẩy nở, gia đình được ấm no và hạnh phúc.Để chuẩn bị cho lễ ăn lúa mới gia đình bàn bạc với nhau thật kỹ lượng, chọn ngày lành tháng tốt, mời thầy cúng để tiến hành nghi lễ. Không gian lễ là một cái nhà hình chữ nhật được dựng tạm ngoài trời bằng các nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên như tre, tranh, nứa. Khi gần đến ngày lễ ăn lúa mới các thành viên trong gia đình phân công nhau vào rừng tìm đến các con sông, con suối để bắt con cua và con cá trầu (cá lốc) làm lễ vật dâng cúng. Con cua thì luộc, con cá trầu thì nướng ăn cùng với cơm được vun đầy đặt trên một cái mâm nhỏ làm bằng tre ở trên có cắm 3 đôi đũa.  Đại diện cho gia đình, thầy cúng tấu trình với thần linh và mời tổ tiên về sum họp với gia đình cùng nhau uống rượu cần, ăn cơm, đánh mả la và ca múa. Lời khấn của thầy cúng có đoạn: “Mong tổ tiên hãy nhận cho những lễ vật của con cháu dâng lên và xin hãy phù hộ cho mùa màng được tươi tốt, cây trồng, vật nuôi và con người luôn khoẻ mạnh”. Khi tổ tiên đã nhận lễ vật xong, tiếng mả la được đánh lên, người ta mang cây nêu và mô hình nhà kho lương thực ra ngoài nhà lễ đến một bãi đất trống, để tiễn đưa tổ tiên về với thế giới của ông bà theo quan niệm của người Raglai. Trên đường về những đứa trẻ dùng chảo, nồi bẻ giả làm mả la đánh suốt dọc đường. Sau đó, có 4 đứa trẻ 2 nam và 2 nữ được mời vào nhà lễ để ăn cơm lễ, uống rượu và trả lời câu hỏi của thầy cúng về việc tổ chức ăn lúa mới như thế nào? Những đứa trẻ được dặn dò trả lời là việc tổ chức nghi lễ ăn lúa mới rất tốt. Nghi thức cuối cùng trong chuỗi nghi thức ăn lúa mới là việc cúng 3 ông táo. Những vật lễ dâng cúng được giữ lại một ít phân chia đều cho các ông táo như cơm, canh, thịt và rượu... Cuộc sống của người Raglai có no ấm hay không là nhờ vào các ông táo.Lễ ăn lúa mới của người Raglai mang tính chất như ngày Tết của gia đình. Đây là dịp để tổ tiên và con cháu trong gia đình sum họp, chúc phúc cho nhau. Lễ ăn lúa mới là một nét sinh hoạt văn hoá mang tính cộng đồng của người Raglai, làm hồi sinh những giá trị văn hoá dân gian, nhắc nhở thế hệ sau luôn nhớ về cội nguồn dân tộc.

Nghi lễ cưới hỏi
Người Raglai theo chế độ mẫu hệ, hôn nhân định cư bên nhà vợ. Cũng giống như người Chăm, lễ cưới của người Raglai diễn ra vào ngày thứ tư. Tuy nhiên, về cách thức tổ chức và các nghi thức lễ cưới thì khác nhau. Người Raglai có tín ngưỡng thờ đa thần nên trong lễ cưới không chịu ảnh hưởng bất kỳ yếu tố tôn giáo nào. Trước ngày cưới chính thức một ngày, bên nhà gái lo chuẩn bị tiếp đón chàng rể mới và họ hàng nhà trai. Họ mời thầy cúng làm đại diện gia đình để cúng ché rượu cần khấn báo về việc tổ chức lễ cưới, cầu mong thần linh và tổ tiên cho đôi vợ chồng trẻ sống hạnh phúc bên nhau. Khi đã cúng ché rượu cần xong, nước rượu đầu tiên được rót vào một cái tô lớn dùng để cúng cơm. Lễ vật cúng cơm cầu mong cho đôi vợ chồng làm ăn giàu có, cuộc sống ấm no và hạnh phúc gồm có 1 con gà luộc để nguyên con, trầu cau, cơm, canh và rượu cần.  Đến ngày cưới đã hẹn, nhà trai tự tổ chức đi qua nhà gái, dẫn đầu họ hàng nhà trai là chàng rể. Khi gần đến nơi, nhà gái cử đại diện ra bắt tay chào đón vào nhà. Chú rể và một số thành viên quan trọng trong gia đình được mời vào trong nhà ngồi. Sau khi, hai họ nhà trai và nhà gái đã chào hỏi và chúc phúc cho vợ chồng trẻ, người ta bưng ra một mâm cơm gồm có 1 con gà luộc, cơm, canh, trầu cau và thuốc lá. Cô dâu và chú rể cùng nhau dùng tay bốc cơm ăn trong sự chứng giám của cha mẹ, họ hàng và bạn bè. Từ đây, họ đã thành vợ thành chồng chính thức được sự cho phép của gia đình. Lễ cưới của người Raglai phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ trong chế độ mẫu hệ. Do đó, cần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống góp phần làm giàu bản sắc văn hoá các tộc người bản địa.

Nghi lễ bỏ mả
Nghi lễ bỏ mả tiếng Raglai gọi là “ngap padhi” là một lễ tục đánh dấu kết thúc vòng đời của một con người. Sau một thời gian chôn cất, người Raglai làm nghi lễ Padhi để chia tay, chấm dứt mối quan hệ giữa người chết và người sống. Nhằm mục đích tiễn đưa linh hồn về với thế giới tổ tiên. Nghi lễ Padhi do các Pajau thực hiện, để thực hiện Padhi người ta đến mộ người chết để rước linh hồn về nhà. Ngày đầu tiên của lễ Padhi, các Pajau sẽ trình báo cho linh hồn người chết biết các lễ vật dâng cúng cho ma. Sau đó, tiếng Mả la được đánh lên để chúc mừng linh hồn người chết về ở ngôi nhà mới dành cho ma. Pajau làm nghi thức ban gạo cho ma, gia đình và những người đến dự lễ Padhi cũng ban gạo cho người người chết.Pajau là thầy cúng của người Raglai thường mang áo dài, xẻ tà từ eo lưng xuống đến chân, trên đầu có quấn khăn vải màu, tay múa nhẹ nhàng, chậm rãi theo nhịp Mả la hòa quyện với tiếng Hari. Ông Pajau ở chính giữa cầm một cây tre (Agai Tuah) có gắn 1 chiếc nhẫn và sáp ong dùng để chỉ đường, hướng dẫn cho ma nhận lễ vật dâng cúng.

Các Pajau trong Lễ bỏ mả của người Raglai

Vào buổi sáng sớm khi tiếng gà còn chưa gáy, Kagor (Ahaok)-Mô hình ngôi nhà hình con thuyền được thanh niên khiêng ra đặt ở trên mộ của người chết. Các Pajau thực hiện nghi thức mời rượu, cúng cơm cho ma. Tại ngôi nhà mới, các Pajau ban hạt giống cho ma, có 2 người phụ nữ cầm 2 đầu khăn màu trắng hứng những hạt rơi từ trên trời xuống. Cây xanh, cây ăn quả, được trồng xung quanh nhà mồ làm khu vườn trang trí cho ngôi nhà mới của ma.Kết thúc nghi lễ Padhi người ta mang các lễ vật như rượu cần, trầu cau, rượu, chuối cúng tại nhà lễ (Kajang). Sau nghi thức này, gia đình không còn thực hiện bất cứ một lễ tục nào nữa. Ông Pajau thực hiện nghi thức bẻ đôi cây tre (Agai Tuah) và bỏ vào trong giỏ đan bằng tre đựng thức ăn cho ma. Những thanh niên khoẻ mạnh trong làng khiêng chiếc giỏ thức ăn mang ra để ở nhà mồ. Đến đây, nghi thức Padhi đã thực hiện xong. Mọi sự liên hệ giữa người chết và người sống coi như chấm dứt. Lễ hội Padhi là một nghi thức đánh dấu sự chấm dứt mối liên hệ giữa người chết và người sống. Đây là nghi thức thiêng liêng và quan trọng trong đời sống tâm linh của người Raglai.  Họ xem lễ tục Padhi như một ngày sum họp cộng cảm để chia tay với một thành viên trong cộng đồng của mình. Đồng thời, cũng là dịp để cho các bạn trẻ vui chơi, làm quen với nhau rồi thành vợ thành chồng tái sinh thêm những thành viên mới. Tóm lại, quá trình diễn ra nghi lễ truyền thống là dịp để cộng đồng người Raglai sinh hoạt chung với nhau. Đồng thời, là cơ hội để phô diễn những loại hình nghệ thuật biểu diễn ngoài trời. Không gian sinh sống của người Raglai gắn liền với núi rừng nên còn bảo tồn nhiều tín ngưỡng bản địa của các dân tộc ở Đông Nam Á như tín ngưỡng thờ Yang Sri (thần lúa) qua việc tổ chức nghi lễ ăn lúa mới để cầu mùa màng bội thu và sự no ấm. Nghi lễ hôn nhân của người Raglai phản ánh nét đặc trưng của chế độ mẫu hệ với quyền làm chủ trong gia đình và quyền thừa kế tài sản thuộc về các chị em gái được luật tục bảo vệ. Ngày nay, mặc dù người Raglai không có hoạt động nghề biển nhưng kí ức về biển xuất hiện nhiều trong các câu chuyện cổ tích. Đặc biệt, trong lễ bỏ mả nhất định phải làm Kagor (Ahaok) là mô hình chiếc thuyền đặt trên nhà mồ. Khi đó, linh hồn người chết mới trở về với thế giới ông bà, tổ tiên được. Tức là, trở về với biển cả bao la. Nếu biết khai thác và phát huy những bản sắc văn tộc người Raglai để thúc đẩy sự phát triển du lịch địa phương đúng mức, sẽ làm sống lại nhiều giá trị văn hoá tinh thần của người Raglai. Góp phần làm phong phú văn hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc gia đa tộc người.
 Đỗ Mai Chử (sưu tầm)

"Báu vật sống" của núi rừng (Hoàng Sa Vẳn)

Sử thi của người Raglai thường được diễn xướng trong các dịp sinh hoạt văn hoá cộng đồng.

Đồng bào dân tộc Raglai ở Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa có một nền văn hóa truyền thống độc đáo, nhiều giá trị, đặc biệt về âm nhạc và sử thi. Người Raglai gọi sử thi là Akha Jukar (chuyện hát bằng văn vần) để phân biệt với Akha ter (chuyện kể bằng văn xuôi). Ngày trước, người Raglai đã kể chuyện sử thi thì phải kể đến kỳ hết mới thôi. Một đêm chưa xong, thì đêm sau, đêm sau nữa…
kể cho kỳ hết, nghe cho kỳ hết. Cũng như con người, nhân vật sử thi cũng phải đi hết cuộc đời mình. Sử thi không chỉ là nghệ thuật mà chính là cuộc đời… Nhưng nguyên tắc ấy nay đã phai nhạt và mất đi, cũng như nhiều nét văn hóa độc đáo khác của người Raglai. Lớp trẻ hôm nay ít quan tâm đến sử thi, những tiếng ru của người Raglai đang bị thay bằng những bản nhạc trẻ. Không để sử thi Raglai rơi dần vào quên lãng”, niềm trăn trở ấy đã thôi thúc nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến hơn 25 năm rong ruổi qua từng thôn làng của người Raglai và ghi lại những câu hát sử thi Raglai.
Đến bây giờ, khi tuổi đã ngoài ngũ tuần, tài sản quý giá nhất ông có được là 4 bộ sử thi đã được biên soạn, xuất bản và hơn 300 băng ghi âm của 4 bộ sử thi Raglai khác. Là cán bộ Phòng Truyền thống của Trung tâm Văn hóa- Thể thao huyện Khánh Sơn, ông Tiến chính là người đi đầu trong việc sưu tầm và bảo tồn văn hóa Raglai ở nơi đây. Miệt mài hơn 25 năm sưu tầm, ông chia sẻ về niềm đam mê ấy: “Thế hệ chúng tôi lớn lên cùng lời ru của bà, của mẹ. Lúc đưa nôi, hay nằm trên lưng mẹ lên rẫy, từng tiếng ru dìu dặt, dịu dàng ngấm dần vào tâm hồn, để rồi khi lớn lên những âm sắc ấy vẫn không sao phai nhạt trong tâm trí. Cả cuộc đời qua những năm kháng chiến, hòa bình, hội nhập kinh tế, đời sống đồng bào ngày càng phát triển ấm no, hạnh phúc... tôi chứng kiến và lo ngại là nền văn hóa Raglai ngày càng mai một. ...”

Để tìm lại lời ru, chuyện kể một thời nuôi lớn tâm hồn mình và bảo tồn sử thi Raglai không để rơi dần vào quên lãng, ông Tiến đã cất công sưu tầm lại những lời ru ấy từ các già làng, các bà, các mẹ. Từ năm 1985, ông Tiến bắt đầu tiến hành việc sưu tầm sử thi Raglai cùng với sự giúp sức của cụ Nguyễn Thế Sang, cụ Trần Vũ (nguyên là Cán bộ Văn hóa của tỉnh, huyện). Năm 1987, tác phẩm đầu tiên “Bảo tồn chữ viết và văn hóa Raglai” của ông Tiến đã được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đánh giá cao, mở đầu cho một loạt kế hoạch bảo tồn văn hóa Raglai của ông. Năm 1999, phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, tác phẩm “Akhàt jucar Raglai” đầu tiên của ông được xuất bản. Trong 10 năm kế tiếp, 3 bộ sách “Udai- Ujac,“Amã Chisa - Amã cuvau Vongcơi,” “Awơi nãi tilơr” ra đời. Tổng cộng 4 bộ sử thi được xuất bản dày hơn 10.000 trang giấy, viết bằng 2 thứ tiếng Raglai và tiếng Việt. Ông Tiến đã sưu tầm được 8 bộ sử thi, ngoài 4 bộ đã xuất bản thành sách, còn 4 bộ được ghi ở hơn 300 băng thu âm đang nằm ở Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam chưa được gỡ ra và dịch lại. Để sưu tầm lại 8 bộ sử thi trên quả không dễ dàng chút nào, với chiếc cassette cầm tay, tuần nào ông cũng đến các làng bản để gặp các mẹ, thu lại các bản sử thi qua trí nhớ của họ. Lúc đầu còn nhiều người biết, còn nhiều người nhớ nên việc thu âm còn thuận lợi nhưng những năm gần đây công việc trở nên rất khó khăn. Các bà, các mẹ bây giờ tuổi đã cao, trí nhớ mai một, sức khỏe yếu lắm, rất nhiều người đã khuất núi. Huyện Khánh Sơn chỉ còn hai bà nắm rõ sử thi Raglai nhưng đều đã yếu rồi.

Không chỉ là sử thi, để thế hệ trẻ hiểu hơn về văn hóa Raglai, ông còn sưu tầm và dịch ra hai thứ tiếng Raglai và Việt một loạt các tác phẩm khác được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam cấp bằng chứng nhận như “Truyện cổ Raglai,” “Tri thức bản địa của người Raglai,” “Thành ngữ, tục ngữ Raglai,” “Khánh Hòa diện mạo văn hóa một vùng đất”… Hiện tại ông Tiến còn là người dịch thuật, phụ trách chương trình tiếng dân tộc Raglai ở Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Khánh Hòa.

Nghệ nhân Mấu Quốc Tiến với những tác phẩm sử thi Raglai được in thành sách

Để bảo tồn và phát huy văn hóa Raglai, huyện đã mở nhiều lớp dạy sử thi cho con em Raglai và các cán bộ huyện, xã. Tuy nhiên, do hạn hẹp về kinh phí, huyện tiếp tục đề nghị tỉnh hỗ trợ việc mở lớp dạy sử thi Raglai, văn hóa Raglai trong thời gian tới. Ghi nhận sự đóng góp của ông Mấu Quốc Tiến cho nền văn học dân gian, đầu năm 2012, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho ông Tiến. Có được vinh dự này, ông Tiến phấn khởi lắm. Mỗi ngày, những bước chân của “Người giữ hồn sử thi Raglai”  Mấu Quốc Tiến lại thêm phần miệt mài hơn. Ông lại rong ruổi khắp thôn làng để tìm, ghi chép, lưu giữ những lời ru của núi rừng với ước muốn làm sao để những Akhàt Jucar, Udai- Ujàc, Amã Chisa - Amã cuvau Vongcơi, Awơi nãi tilơr… không chỉ lưu giữ trên văn bản mà mãi vang lên trên nương, rẫy, trong những đêm bên bếp lửa ấm áp của người Raglai.

Những nỗ lực của ông đang góp phần làm cho nền văn hóa văn nghệ dân gian Raglai luôn được bảo tồn và phát triển rực rỡ, lung linh sắc màu. Ông được mọi người cảm phục, yêu mến gọi là “báu vật sống” của núi rừng Khánh Sơn.

 Hoàng Sa Vẳn (sưu tầm)

Ấn tượng với căn nhà dài của đồng bào Raglai (Hoàng Minh Thắng)

Nhà dài của đồng bào Raglai.

(Dân Việt) Chúng tôi có dịp ghé thăm những căn nhà dài (hay còn gọi nhà sàn) của đồng bào dân tộc Raglai huyện miền núi Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận. Những căn nhà được thiết kế với lối kiến trúc độc đáo của đồng bào nơi đây.

Những người dân Raglai cho biết, trước đây người dân thường sinh sống  làm ăn xung quanh các vùng đồi núi, gần các khu vực khe suối nên dựng những căn nhà dài để tiện cho sinh hoạt trong gia đình. Căn nhà xây dựng ít tốn chi phí, tận dụng sẵn có những cây cối trong rừng để làm, mỗi căn nhà làm trong thời gian ngắn, kết cấu căn nhà dễ làm, giản đơn và cũng tùy điều kiện kinh tế của mỗi gia đình.

Quan sát thực tế, tôi thấy các căn nhà có kết cấu tương đối vững chắc. Xung quanh nhà được bao bọc những loại tre, cây nứa hoặc cây lồ ô, có cửa ra vào, phía trên thường gắn liền với những ống tre để tận dụng nguồn nước mưa dùng cho sinh hoạt trong gia đình. Căn nhà dài được người Raglai dùng để ở, ngoài ra còn dùng để chứa đựng các loại bắp, đậu, khoai mì.

Mỗi căn nhà bao gồm phần trụ, phần sàn nhà, phần mái được lợp bằng tranh, có bậc thang đi lên, diện tích mỗi căn nhà được xây dựng từ 50 – gần 70m2.

Nhà dài được xây dựng nhiều tại các xã Phước Hòa, Phước Đại, Phước Trung, Phước Tiến huyện Bác Ái. Ngày nay, những căn nhà dài này vẫn được người đồng bào dân tộc Raglai duy trì gìn giữ, bảo tồn. Nhà sàn cũng là nơi quây quần của của các gia đình mỗi khi có dịp lễ hội và cũng là nơi giao lưu cho các thanh niên trai tráng trong làng.

Bậc thang lên nhà.

Cửa ra vào.

Hoàng Minh Thắng (sưu tầm)

Âm nhạc công chiên của dân tộc Raglai ở Khánh Hòa (Hoàng Phước Liên)

 Tộc người Raiglai là cư dân bản địa cư trú lâu đời trên địa bàn miền núi các tỉnh cực Nam Trung bộ, thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo (Poleniesien). Hiện có khoảng 100 nghìn người, sống tập trung ở các huyện miền núi thuộc các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Theo thống kê dân số năm 2009, tỉnh Khánh Hòa có khoảng 40 nghìn người Raglai đang cư trú ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và các huyện phụ cận như Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Lâm, thị xã Cam Ranh.

Người Raglai có quá trình lịch sử lâu đời và có nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc. Do soongs trong môi trường miền núi xa xôi, lại phải trải qua nhiều năm trong bom đạn chiến tranh, nên đời sống kinh tế của người Raglai ở Khánh Hòa đến nay vẫn còn lắm khó khăn. Một số đặc trưng về văn hóa như trang phục, nhà ở đã bị mai một đi rất nhiều. Song có điều đáng mừng là hầu hết những di sản văn hóa phi vật thể của Ông Bà vẫn được truyền thừa và gìn giữ khá nguyên vẹn, như các lễ hội truyền thống của dân tộc, các bản trường ca (Akhat-Jucar), đặc biệt hệ thống dân ca, dân nhạc vẫn được gìn giữ khá nguyên vẹn. Tuy nhiên do nhiều lí do khác nhau, đến nay vẫn chưa có công trình nguyên cứu nào mang tính khoa học toàn diện về người Raglai. Vì vậy, tộc người Raglai và văn hóa của họ, trong đó có âm nhạc dân gian Raglai vẫn còn khá xa lạ đối với giới chuyên môn cũng như với cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.
            Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin được đề cập một cách hết sức tổng quát về “âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa” mà chúng tôi có dịp tiếp cận và thu được với mong muốn cùng nhau trao đổi, nghĩ suy và tìm cách bảo tồn, phát huy nó trong đời sống hiện nay.


1. Trong một bài viết về âm nhạc dân tộc, khi đề cập đến tính dân tộc trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam, giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ có viết:"Những đặc điểm lớn, mang tính Việt Nam, có thể xuất phát từ các yếu tố thổ ngơi, địa lí…vừa từ sự sống chung, giao lưu văn hóa nghệ thuật lâu đời bên nhau trong cộng đồng và những nét đăc trưng dân tộc có thể có nguồn gốc từ ngôn ngữ, tập quán sinh hoạt mà tạo ra cái “hồn nghệ thuật” là đặc thù của từng dân tộc. Cũng trong bài viết này ông đã nhấn mạnh rằng : “để phát hiện ra từng đặc trưng âm nhạc của từng dân tộc, người ta không chỉ dựa trên sự quan sát hời hợt, một cuộc điền dã “cưỡi ngựa xem hoa”, nhất là đối với những dân tộc có sự sống chung lâu đời và giao lưu khăng khít với các dân tộc khác, khiến cho những đặc trưng của dân tộc mình dễ bị lẫn vào những đặc điểm lớn và chung của cả cộng đồng".
Những điều nêu trên xem ra là khá phù hợp và xác đáng đối với việc nghiên cứu âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa.
Khảo sát thực địa chúng ta cho thấy, người Raglai ở Khánh Hòa có mối quan hệ và giao lưu văn hóa lâu đời, rõ nét với các tộc người cùng chung ngữ hệ như Chăm, Êđê,Churu và nhất là người Việt, và trong quá trình cộng sinh, cộng cư ấy nhiều yếu tố văn hóa đặc thù của họ đã bị lẫn vào cái chung của cộng đồng. Ngày nay, nếu quan sát kỹ các mặt đời sống sinh hoạt cua người Raglai ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng với người chăm như sắc phục, một số nhạc cụ hoặc những nét gần gũi với người Êđê như các lễ hội nhạc cụ…và tất nhiên có rất nhiều điều rất giống với người Việt.
      Chúng tôi còn nhớ, trong cuộc “liên hoan văn hóa _thể thao dân tộc Raglai 3 tỉnh Khánh Hòa,Ninh Thuận ,Bình Thuận năm 2005” đươc tổ chức tại thành phố Nha Trang, một số điều diễn ra trong thực tế đã làm cho chúng tôi hết sức ngỡ ngàng. Vì tuy cùng tộc người và cùng ngôn ngữ, song khi nghe các nghệ nhân Raglai ở Bình Thuận và Ninh Hải_Ninh Thuận  hát ca, nói chuyện thì nhóm nghệ nhân ở Khánh Hòa đã không hiểu hết ; cách diễn tấu nhạc cụ và trang phục cũng có nhiều dị biệt. Hỏi vì sao thì các nghệ nhân chỉ biết cười và lắc đầu. Đành suy luận,có phải đó chính là hệ quả của quá trình cộng sinh lâu dài của các nhóm tộc người Raglai với các tộc người có nền văn hóa ổn định hơn trong khu vực như Chăm,Êđê chăng? Và có phải vì thế mà có một số nhà dân tộc học chia tộc người Raglai thành Raglai bắc (cư trú tại Khánh Hòa), Raglai nam (cư trú tại Ninh Thuận ) và Raglai (cư trú tại Bình Thuận) chăng? Đặt những câu hỏi trên, chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng, khi nghiên cứu về âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa chúng ta phải làm thật kỹ công tác điền dã và cần thiết phải làm cuộc đối chiếu tay đôi, tay ba với các nền âm nhạc chăm, Êđê và có khi cần phải đối chiếu với cả âm nhạc của tộc người Rai đang ở cách xa với người Raglai ở Khánh Hòa muôn sông ngàn núi


2.  Cũng như hầu hết các dân tộc Tây Nguyên, đời sống văn hóa và tín ngưỡng của người Raglai ở Khánh Hòa luôn có sự gắn bó máu thịt với âm nhạc, trong đó âm nhạc cồng chiêng bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo. Cồng và chiêng là nhạc cụ được pha chê bằng đồng pha với các hợp kim khác như gang, chì , bạc và có khi còn pha với cả vàng nhằm tạo nên âm sắc đẹp và độ vang xa cho tiếng chiêng. Những bộ chiêng quý như thế, ngày nay chỉ còn giữ lại trong những câu chuyện kể của người già về một thời của kí ức.
      Từ xưa đến nay, các tộc người Tây Nguyên không tự chế cồng chiêng mà đều đặt mua từ các nước Lào và Campuchia và cả người Kinh và sau đó về chỉnh sửa âm thanh cho phù hợp với tai nghe dân tộc mình rồi đưa vào sử dụng. Căn cứ vào xuất xứ, người Tây Nguyên chia cồng chiêng ra làm ba loại: chiêng Joan-do người Lào chế tác (có khi được mua từ Mianma); chiêng Kur- do người Campuchia chế tác. Trong đó chiêng Lào được người Tây Nguyên quý nhất.
      Từ các đặc điểm chế tác và các tiêu chí âm thanh, các nhà âm nhạc học đã xếp cồng chiêng Tây Nguyên vào loại nhạc khí tự thân rung (Idiphone), loại có núm thì gọi là cồng, gọi không núm thì gọi là Chiêng. Cách gọi trên có phần áp đặt, bởi vì mỗi dân tộc Tây Nguyên đều có cách gọi tên riêng cho loại nhạc cụ này.
      Người Raglai không dùng công mà chỉ dùng chiêng và họ gọi là Char (phát âm gần giống như “Sa” của tiếng Việt). Trong thực tế người Raglai ở Khánh Hòa cũng có “bộ Char” của mình là “Mã la” theo cách gọi của  người Việt. (Sau đây xin gọi Char là Mã la).
      Cũng như các dân tộc đồng bào Tây Nguyên, người Raglai không chỉ xem cồng chiêng là nhạc cụ đơn thuần mà nó còn biểu thị sức mạnh tâm linh, là vật thiêng được từng gia đình gìn giữ như bảo vật. Họ tin rằng mỗi chiếc chiêng đều có một vị thần (Yang) trú ngụ. Dàn chiêng càng cổ xưa thì âm sắc càng đẹp thì sức mạnh của tàn càng  lớn. Vì vậy, để có được một dàn chiêng quý, thời xưa người Tây Nguyên phải đi thật xa để mua, có dàn phải đổi bằng hàng chục con trâu, có lúc phải đổi bằng voi mới được một dàn chiêng  quý. Vì vậy, đối với người Raglai, dàn chiêng không chỉ biểu thị cho sự giàu có và hơn thế nữa biểu thị cho sự giúp đỡ, bảo vệ thần linh đối với người sỡ hữu.
       Từ quan niệm trên, dàn cồng chiêng luôn được giữ gìn cẩn thận, nó chỉ được sử dụng trong những ngày trọng đại của gia đình và làng buôn. Mỗi tiếng chiêng vang mang cả lời ước nguyện của cả cộng đồng gởi tới thần linh, và giải thích vì sao cồng chiêng luôn xuất hiện trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng và tâm linh của đồng bào Tây Nguyên. Mỗi điệu chiêng chỉ vang lên trong một không gian văn hóa riêng biệt để bày tỏ ước nguyện riêng biệt đến thần linh. Cho nên chỉ cần tiếng chiêng, người ta có thể biết được ở nơi nào đó xảy ra việc gì. Hồn của chiêng bao giờ cũng cũng gắn với một không gian văn hóa cụ thể. Sự lẫn lộn về bài bản chiêng vì vậy cũng là điều cấm kị.
3. Dàn Mã la của người Raglai có số lượng bao nhiêu chiếc đến nay vẫn còn phải tìm hiểu tiếp tục. Trong các sinh hoạt văn hóa, người Raglai nói chung và người Raglai ở Khánh Hòa nói riêng thường dùng bộ mã la 5 chiếc để diễn tấu độc lập hoặc đikèm với các nhạc cụ khác hoặc dùng để đẹm them trong các bài nhạc cụ dân ca. Dàn Mã la 5 chiếc của người Raglai ở Khánh Hòa thuộc hệ thống 5 âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù hợp với hệ thống năm âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù hợp với hệ thống thang âm phổ biến của các bài dân ca Raglai. Năm “mặt chiêng” trong bộ Mã la Raglai được lấy tên theo trật tự của một gia đình mẫu hệ và âm chủ của một dàn Mã la là chiêng mẹ. Tên gọi các mặt chiêng như sau.
1. Char Yna_Chiêng mẹ
2. Char Ato_Chiêng cha
3. Char Malóa_Chiêng con gái lớn
4. Char Dướp_Chiêng con gái thứ
5. Char Pen_Chiêng con gái út
Cách tổ chức và gọi tên cho dàn mã la như trên rất phổ biến ở các Plơi Raglai thuộc hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) và đã được hầu hết những người có hiểu biết ít nhiều về văn hóa Raglai đồng ý. Trong công trình “trang phục cổ truyền của người Raglai”, tác giả Hải Liên –nguyên chủ tịch hội văn hóa dân tộc tỉnh Ninh Thuận-có kể, ông đã từng thấy bà con người Raglai ở Ninh Sơn diễn tấu dàn Mã la 9 chiếc. Bản thân tôi cũng từng đươc nghe một vài người già Raglai bảo rằng, bộ Mã la đầy đủ của Raglai phải có 12 chiếc …Thế nhưng, trong quá trình tìm hiểu âm nhạc Raglai, chúng tôi vẫn chưa được tận mắt thấy được những bộ char như vậy.
Gần đây- từ ngày 03 đến ngày 05 tháng 09 năm- chúng tôi đã được tham dự Lễ Bỏ mả do gia đình anh Mấu Xuân Danh (ở xóm 4, thôn dốc trầu, xã ba cụm bắc,huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa) tổ chức bỏ mả cho vợ là Cao Thị Bông theo đúng nghi thức cổ truyền.Theo quy định, lễ Bỏ Mả của người Raglai bao giờ cũng phải có dàn Mã la diễn tấu điệu tumaya suốt quá trình tế lễ.
Đội Mã la của xã  Ba cụm bắc phục vụ cho lễ Bỏ Mả hôm ấy gồm 9 chiếc chiêng và một chiếc trống da nai(Xa gơ). Khi diễn tấu vòng tròn cùng với chủ nhang ,thì đội Mã la được phân bổ như sau : Từ chiếc chiêng thứ nhất, đến chiếc chiêng thứ 6 làm thành cụm đầu, kế đến là chiếc trống đi xen vào giữa, sau đó là 3 chiếc chiêng còn lại đi sau cuối.
Mỗi chiếc chiêng có một tên gọi riêng và đi cùng cặp:Char Ana( chiêng Mẹ),Char t’rua (con trai), Char Pacho 2(con gái thứ 2), Char Paloa 1 (con gái thứ 3), Char Paloa 2(con gái thứ 4), Char Pudu 1(con gái thứ 5), Char Pudu 2 (con gái thứ 6), Char Puda (con gái thứ 7), và chiếc trống Saigor (vai ông).
So sánh với cách tổ chức và tên gọi các mặt chiêng, ta thấy hoàn toàn khác với dàn Mã la 5 chiếc mà lâu nay mọi người vẫn biết. Được biết, ở Ba Cụm Bắc dàn Mã la 9 chiếc chỉ được sử dụng trong khi diễn tấu điệu Tumaya tại lễ bỏ mả. Trong các cuộc sinh hoạt văn hóa và lễ thức khác thì người Raglai ở Ba Cụm Bắc cũng sử dụng dàn Mã la 5 chiếc. xin được nêu ra hiện tượng này để chúng ta cùng suy nghĩ.
4. Mã la của người Raglai được diễn tấu theo hình thức tập thể. Mỗi nghệ nhân đảm trách 1 chiếc, hòa với nhau để tạo nên một diệu chiêng hoàn chỉnh. Người Raglai có khá nhiều điệu chiêng riêng và mỗi điệu dành cho một dịp lễ: Lễ cưới, cuộc vui thì đánh điệu Ru-wo, Lễ Ăn đầu lúa mới thì chơi điệu Ato-pa-kruc, điệu Sa-va-lu-o, Lễ Bỏ mã thì phải đánh điệu Tu-ma-ya… Có cả các điệu chơi theo tiếng chim rừng (Ato-pa-ra-vu), chơi theo tiếng gà rừng gáy (Ato-pa-rai-manh), chơi theo tiếng chim cu (Ato-ka-to-rau-ma-nhi). Các điệu chiêng Raglai có điệu chiêng khá rõ nét, tiết tấu vừa phải cho người nghe cảm giác nhẹ nhàng pha chút cảm giác buồn chứ không rạo rực cháy bỏng như các điệu chiêng của các dân tộc anh em Ê-đê vốn cùng chung ngữ hệ. Mỗi điệu chiêng Raglai có độ dài từ 4 đến 8  nhịp 4/4, lặp đi lặp lại nhiều lần và kết bài theo quy định của người giữ chiêng mẹ
Nếu người Ê- đê đánh chiêng trong tư thế ngồi thì người Raglai lại diễn tấu Mã la trong tư thế vừa đi vừa nhún nhảy rất độc đáo. Vì thế mà người Raglai còn gọi cách diễn tấu Mã la là múa Mã la. Đối với người Raglai thì Mã la là nhạc cụ chỉ dành cho nam giới, khi diễn tấu họ không dùng dùi mà dùng bằng tay tạo nên âm thanh dịu dàng, mềm mại. Nhà báo Bảo Trân- trưởng văn phòng đại diện Báo Lao động tại Nha Trang trong một bài viết đã diễn đạt quan niệm người Raglai ở Khánh Hòa về vấn đề này như sau: “Mã la (Char) là đàn bà nên chỉ đàn ông mới hiểu. Đàn ông Raglai dùng phần mền nhất của bàn tay vỗ nhẹ lên Mã la, âm điệu nhanh chậm và trầm bổng như hơi thở, nhịp tim của mỗi người… Tiếng Mã la bay lên đỉnh núi, tỏa xuống lá rừng, đọng trong sương sớm… kết thành hoa trái”.Tưởng không còn gì hơn để nói.
Khảo sát thực tế, khi diễn tấu Mã la bao giờ các nghệ nhân cũng đi vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ. Điều đó cho thấy các Mã la hình thức dâng cúng thần linh, ông bà chứ không phải là âm nhạc đời thường. Chính vì vậy mà chỉ cần sử dụng Mã la người ta vẫn có thể cúng Yang và các nghệ nhân luôn tuân thur nghiêm ngặt quy định về bài tiết diễn tấu trong từng cuộc lễ. Ngày nay, trong quy định truyền thống, các nghệ nhân có thể sử dụng Mã la để phục vụ cho những cuộc hội hè và cả biểu diễn trên sân khấu, nhưng tại các cuộc lễ truyền thống thì những quy định của cha ông vẫn luôn được giữ gìn nghiêm ngặt.
Tiếng Mã la linh thiêng là thế, nhưng phải đang đối mặt với sự mai một từng ngày. Nhiều người già Raglai đã rất buồn khi thấy con em mình ngày càng ít quan tâm các giá trị tâm linh của ông bà. Số thanh niên biết đánh Mã lai ở các Ploi ngày càng ít đi, tiếng Mã la ngày càng thưa dần trong những buổi sinh hoạt cộng đồng. Không ít cuộc lễ của người Raglai dược tổ chức mà không có sự tham dự của đội Mã la. Không gian văn hóa Raglai thiếu tiếng Mã la và ngày càng phổ biến, và đây là vấn đề lớn đang được đặt ra trong công tác bảo tồn và chấn hưng văn hóa dân tộc.

Hoàng Phước Liên (sưu tầm)

Khám phá vũ điệu núi rừng của người Raglai (Đàm Minh Phượng)

Ở Khánh Vĩnh, Nha Trang có một vùng đồi núi mà sinh sống ở đó chủ yếu là người Raglai – những người được mệnh danh là nghệ sĩ của núi rừng.
Người dân tộc Raglai có một loại nhạc cụ đặc biệt được gọi là mã la nhưng họ lại tạo ra đàn chapi để mô phỏng lại tiếng của mã la. Họ chơi đàn chapi như để nói lên sự buồn,
vui hay nỗi nhớ về âm thanh của những chiếc mã la.
Mời các bạn cùng S-Vietnam khám phá vũ điệu núi rừng rộn rã của người Raglai trong tiếng mã la vui nhộn:

 Đàm Minh Phiếu (sưu tầm)

Tục "ngủ cùng", tỏ tình nhưng cấm ân ái của người Raglai (Lý Thị Ninh)

Vợ chồng Ama Tách kể về tục ngủ thảo.

Người Raglai ở Bác Ái, Ninh Thuận có nhiều nghi lễ đặc sắc như lễ cưới, lễ bỏ mã, lễ mừng lúa mới… đặc biệt nơi đây còn lưu giữ tập tục ngủ thảo độc đáo.
Raglai là một dân tộc thuộc huyện vùng cao Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận có ngôn ngữ và nét văn hóa gần giống với dân tộc Chăm. Họ sống chủ yếu quanh đồi núi, ở trong những ngôi nhà sàn, làm nương rẫy, có lối sống mang tính cộng đồng và nhiều nghi lễ, lễ hội đặc sắc.

Dưới ánh trăng sáng trên những ngọn triền đồi, bên ánh lửa bập bùng của núi rừng, những cô gái chàng trai Raglai tụ tập bên bãi đất trống của làng, bên ché rượu cần nồng ấm họ cùng nhau ca hát, nhảy múa. Từng đoàn người nhảy vòng quanh ánh lửa, đôi mông lắc lư, tay nhịp nhàng vỗ nhẹ chiếc Mã La tạo nên những âm thanh vang vọng núi rừng. Cuộc sống vui vẻ bình dị cứ thế diễn ra theo ngày tháng của người Raglai.

Sau lễ hội, tiếng Mã La bắt đầu ngừng vang, những thanh niên Raglai lần lượt tìm cho mình một chàng trai, cô gái rồi cùng nhau về một mái nhà sàn cao ráo. Trong đêm tối họ nằm sát bên nhau trao gửi những lời yêu thương, tỏ tình, bắt đầu tìm hiểu về nhau để tiến đến một lễ cưới nếu hai bên cùng đồng ý. Đó là tập tục ngủ thảo độc đáo của người Raglai.

Ngủ thảo là ngủ chung với nhau để tỏ tình, để hiểu nhau, rồi yêu nhau, mức độ ngủ thảo chỉ đến độ ngủ chung, trò chuyện và nắm tay, đặc biệt kiêng kị quan hệ ân ái. Nếu cặp đôi nào phạm phải điều kiêng kị này sẽ bị làng phạt vạ bằng cách lấy roi mây đánh khắp cơ thể. Nếu con trai vi phạm bằng những hành động vượt phạm vi nắm tay và bị nhà gái lên án, sẽ bị nhà gái và cộng đồng làng phạt vạ bằng một con bò, một con heo và gà cho cả làng. Già làng sẽ cho làm mâm cỗ chuộc lỗi với thần linh và thông báo đến mọi người trong làng cùng biết về vi phạm của chàng trai và chàng trai sẽ bị đuổi khỏi làng.

Người Raglai quan niệm cuộc sống của họ được linh hồn tổ tiên và thần linh giám sát nên những việc như quan hệ tình dục trước hôn nhân, ăn cắp vặt…. đều sẽ bị thần linh và tổ tiên nhìn thấy, quở phạt. Do đó, họ luôn có lối sống hiền hòa, chân chất và ngay thẳng. Yếu tố về niềm tin tâm linh đã trở thành một phương thức giáo dục rất hiệu quả dù họ sống trên những đồi núi hoang sơ.

Ngôi nhà sàn truyền thống của người Raglai.

Người Raglai rất quan trọng hôn nhân đôi lứa nên đó để tiến đến ngủ thảo họ phải tìm hiểu trước cô gái hay chàng trai về tuổi tác, gia tộc, tính cách và lối sống. Nếu đã biết được đối phương thì dù là gái hay trai vẫn có thể lên tiếng mời đối phương về nhà ngủ thảo và chỉ ngủ ở nhà của cô gái hoặc một nhà sàn chung của làng. Ở đó họ không phân chia hay ngăn cách, ai đến trước thì tự tìm cho mình một chỗ ngủ để cùng tâm tình.

Với những gia đình có cô gái vừa lớn đủ tuổi cặp kê thì ngôi nhà sàn truyền thống được phân làm nhiều khu ngăn, nơi ngủ của bố mẹ, nơi tiếp khách, nơi ăn uống và nơi dành cô gái tiếp chàng trai trong những đêm ngủ thảo. Ở đó các trai gái Raglai nói chuyện và thao thức suốt đêm, đến sáng ai về nhà nấy. Những hôm sau nữa chuyện tình ngủ thảo lại tiếp tục diễn ra đến khi nào chàng trai và cô gái ưng cái bụng thì gia đình nhà gái sẽ làm lễ bắt chồng cho cô gái.

Một gia đình người Raglai ở Bác Ái.

Nếu sau đêm ngủ thảo cả chàng trai và cô gái đều không ưng, họ sẽ không tìm đến nhau nữa. Những đêm hội khác lại diễn ra, họ lại bắt đầu tìm cho mình những người khác để cùng ngủ thảo, tâm tình và trò chuyện. Chẳng biết tục ngủ thảo đã có từ bao lâu nhưng nó đã trở thành một nét đẹp rất riêng và độc đáo của người Raglai, sau những niềm vui lớn của cộng đồng là niềm vui, hạnh phúc của đôi lứa trai gái Raglai.
 Lý Thị Ninh (sưu tầm)

Lễ Bỏ mả của người Raglai ở huyện Khánh Sơn, Khánh Hòa (Đàm Minh Phiếu)

Lễ rước Kagor ra nhà mồ.

Người Raglai quan niệm, có hai thế giới song song tồn tại là thế giới của người sống và thế giới của những người đã khuất. Khi người chết đã được chôn cất, vẫn còn mối quan hệ với người đang sống, bởi linh hồn của người chết vẫn còn lẩn khuất trong cõi nhân gian, nên phải làm Lễ Bỏ mả để chính thức chấm dứt mối quan hệ này. Đây là nghi lễ quan trọng nhất trong các nghi lễ vòng đời của người Raglai - lễ chia tay vĩnh viễn giữa người sống và người chết để người chết được trở về thế giới vĩnh hằng.

Lễ Bỏ mả được tổ chức theo hai hình thức: bỏ mả cùng lúc với đám tang hay bỏ mả có thời gian chuẩn bị. Bỏ mả cùng với đám tang sẽ thuận tiện cho gia đình hơn, song hiện nay, ở huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, nhiều gia đình có người chết vẫn chọn hình thức bỏ mả có thời gian chuẩn bị, vì nó phù hợp với tình cảm của con người khi buộc phải dứt mọi quan hệ với người thân vừa khuất.
Theo luật tục của người Raglai, khi tổ chức Lễ Bỏ mả cho người thân, gia đình phải mời đủ những người đã từng tham dự lễ tang để họ chia tay lần cuối với người chết, đồng thời để bày tỏ lòng tri ân của gia đình đối với cộng đồng. Vì vậy, để tổ chức cho Lễ Bỏ mả, gia đình phải chọn ngày giờ, sau đó phải chuẩn bị trước hàng tháng việc ủ rượu cần, dựng sạp lễ, làm nhà mồ, trang trí nhà mồ và đặc biệt là làm Kagor, một con thuyền gỗ với nhiều vật trang trí, đặt trên nóc nhà mồ trong Lễ Bỏ mả - biểu tượng cho nơi trú ngụ của ông bà ở thế giới bên kia. Kagor là những gì còn sót lại trong ký ức về biển của người Raglai, là miền quê hương xa vời, là nguồn cội mà họ hướng về tới tất cả lòng thành kính. Người Raglai tin rằng, càng có nhiều vật trang trí gắn trên Kagor thì người chết càng nhận được nhiều niềm vui ở thế giới bên kia.
Lễ Bỏ mả thường được tiến hành trong ba ngày.
Ngày thứ nhất, mở đầu bằng việc bầu chủ nhang, chọn ra ba người điều hành toàn bộ các nghi thức trong Lễ Bỏ mả, là những người cao tuổi trong Plơi (buôn), hiểu luật tục Raglai, biết những bài cúng và được mọi người kính trọng. Họ làm lễ khấn xin phép người chết để được làm chủ nhang và phụ lễ, sau đó mặc lễ phục và khấn xin phép đưa linh hồn người chết ra mộ. Chủ nhang cầm “vật thiêng dẫn hồn” dẫn đoàn người từ nhà ra mộ, theo sau là những người bưng cỗ, phụ lễ, rồi đến gia đình, họ tộc của người chết để làm lễ “Dặn hồn mả” ngay tại mộ. Đây là nghi thức thông báo với người chết về thời gian, lịch trình và những nghi thức liên quan đến Lễ Bỏ mả. Sau đó, mọi người trở về nhà, chuẩn bị cúng Kagor vào buổi chiều.
Cúng Kagor là nghi thức quan trọng trong Lễ Bỏ mả, được tổ chức trang trọng với sự tham dự của các thành viên trong gia đình và họ tộc, nhằm xin với ông bà cho linh hồn người chết được về với ông bà. Chủ nhang và phụ lễ đốt nhang, phát cho những người dự lễ, rồi ngồi xếp bằng trước Kagor và khấn. Khi chủ nhang khấn, những người phụ nữ bắt đầu khóc tế. Sau lần khấn thứ ba, chủ nhang lấy trầu, rượu ném vào “cỗ giỏ” (chiếc gùi) đặt cạnh Kagor và đội nhạc bắt đầu tấu lên điệu nhạc Tumaya - điệu nhạc dành riêng cho Lễ Bỏ mả. Chủ nhang sẽ cầm “vật thiêng dẫn hồn” dẫn mọi người đi 6 vòng ngược chiều kim đồng hồ quanh Kagor để dẫn hồn người chết tìm nơi ăn uống. Người Raglai tin rằng, hai cõi âm dương trái ngược nhau, vì vậy những thứ cúng cho “ma” cũng chỉ là những đồ vật mang tính biểu trưng. Các thầy cúng khấn xong sẽ cùng người nhà ném những vật để cúng vào “cỗ giỏ”, người thân cắm nhang xung quanh nhà và khấn lần cuối để kết thúc Lễ Kagor.
Ngày thứ hai, được xem là ngày lễ chính, ngày mọi người trong gia đình, làng xóm, bè bạn cùng nhau ăn bữa cơm cuối cùng để chấm dứt mối quan hệ với người chết tại nhà mồ.
Mở đầu ngày thứ hai là “Lễ đập heo, đập gà”, diễn ra tại sân của nhà có người chết. Chủ nhang khấn bày tỏ sự tiếc thương các sinh linh được chọn làm vật hiến sinh, sau đó cắt tiết gà, heo trộn vào trong một bát tô, đặt lên mâm lễ chính và mang tới mả người chết. Nhà mồ của người chết được dựng khang trang cùng với “chiếc thang bảy nấc” để người chết đi về. Chiếc thang được làm từ đòn khiêng quan tài người chết, vạt bảy nấc, mỗi nấc buộc một chiếc đũa con, tượng trưng cho nấc thang rồi chôn ngược, nghiêng về phía mặt trời lặn, phía trên úp một quả bầu đựng nước, dưới gốc kê một phiến đá bằng cho người chết làm nơi tắm giặt. Chủ nhang ngồi vào nhà mồ để bày lễ vật ra cúng “Mời hồn mả về nhà ăn cơm”, để cùng với gia đình, xóm giềng, bạn bè ăn bữa cơm chuẩn bị “dứt đứt”. Đây là bữa cơm vui vẻ, khi mà chủ lễ cho biết người chết đã chấp nhận lễ, mọi người ăn bốc cùng với người chết lần cuối ngay tại nhà mồ, sau đó quay trở lại nhà để “làm tầng mả cho người chết”, báo với ông bà việc làm “Lễ Dứt đứt” với người chết vào ngày hôm sau. Mọi người sẽ ở lại dự lễ và ca hát suốt đêm để người sống và người chết không còn vướng bận đến nhau.
Ngày thứ ba, chủ nhang và gia đình người chết tiến hành “cúng cơm sáng”, nghi thức xin phép ông bà chuyển Kagor về nhà mồ của người chết. Chủ lễ khấn mời rượu ông bà, rồi cùng đội chiêng múa hai vòng quanh Kagor để mời hồn ma trở về với người chết. Sau nghi lễ “cúng cơm sáng” là “Lễ Dứt đứt”, một nghi thức mang tính tập tục truyền đời của người Raglai, với các nghi lễ: “chia của”, “tiễn Kagor” và “dứt đứt”. Theo quan niệm của người Raglai, tài sản của vợ chồng khi còn sống làm ra là tài sản chung nên phải chia đều cho cả người vợ hoặc chồng đã chết. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ là tượng trưng và các tài sản tượng trưng ấy được chạm, khắc trên các cột trụ ở nhà mồ nên “Lễ Chia của” mang tính thiêng mà không lãng phí. Lễ tiễn Kagor để rước Kagor từ nhà người chết đến nhà mồ và ngay sau là “Lễ Dứt đứt” được tiến hành tại nhà mồ. Chủ lễ lấy tấm vải trắng được dùng để phủ lên buồng chuối tại bàn lễ trùm lên đầu mình, cùng hai phụ lễ dẫn đội chiêng múa quanh nhà mồ rồi khấn vái trước Kagor, xin ông bà cho tiến hành cuộc lễ. Sau đó, người ta đưa chiếc Kagor gắn lên đỉnh nhà mồ và chủ lễ tiếp tục nghi thức cúng để rước linh hồn người chết về phù hộ cho gia đình. Kết thúc nghi lễ, em của người chết đem “vật thiêng giữ hồn người chết” vào trong nhà mồ để làm nghi thức chôn, chấm dứt mọi mối quan hệ giữa hai cõi Âm - Dương. Kết thúc Lễ Bỏ mả, mọi người đều trở về nhà để làm lễ “Dặn dò người sống” không buồn nữa. Tất cả cùng nhau ăn uống, ca hát, nhảy múa vui vẻ đến thâu đêm.
Lễ Bỏ mả hiện vẫn được thực hành và trao truyền trong cộng đồng người Raglai. Tuy nhiên, một số nghi thức và lễ vật sử dụng trong các nghi lễ đã thay đổi cho phù hợp với vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đây là nghi lễ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người Raglai và cũng tích hợp các giá trị văn hoá, nghệ thuật truyền thống, thể hiện sự sáng tạo và mang giá trị gắn kết cộng đồng. Với những giá trị nổi bật đó, năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Lễ Bỏ mả của người Raglai ở huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc loại hình Tập quán xã hội và tín ngưỡng.
 Đàm Minh Phiếu (sưu tầm)

Thursday, August 18, 2016

Độc đáo phong tục tập quán của dân tộc Raglai - Ninh Thuận (Đàm Kim Phượng)

Dân tộc Raglai có nền văn hóa đặc sắc, phong tục tập quán độc đáo

Trong thành phần 54 dân tộc Việt Nam, Raglai là tộc người chiếm số lượng ít, nhưng có thể nói Raglai là dân tộc có nền văn hóa đặc sắc gắn với điều kiện môi sinh của cư dân nông nghiệp nương rẫy Nam Trung Bộ.

Người Raglai sinh sống lâu đời trên vùng đất Nam Trung Bộ và cư trú tại một thung lũng sâu có núi cao bao bọc xung quanh. Công cụ lao động chủ yếu là: rìu, rựa, chà gạc, gậy chọc lỗ, nạo cỏ, khi thu hoạch lúa thì tuốt bằng tay.

Người Raglai chăn nuôi trâu, lợn, gà, vịt. Trước đây chủ yếu sử dụng vào việc cúng lễ. Hiện nay trâu, bò dùng làm sức kéo. Lợn, gà, vịt trở thành hàng hóa để trao đổi hoặc cải thiện bữa ăn. Người Raglai có nghề đan lát mây tre làm những đồ đựng, đồ sàng gạo, gùi. Nghề thủ công chủ yếu do đàn ông đảm nhiệm.

Nhà ở của người Raglai thường xây dựng trên sườn đồi về một bên của dòng suối và có tập quán xây dựng cách xa nhau. Người Raglai ở nhà sàn (còn gọi là nhà dài), là nơi sinh sống quây quần của ít nhất ba, bốn thế hệ dưới sự cai quản của chủ nhà, thường là người già, cao tuổi nhất trong gia đình, trong dòng họ.

Ngôi nhà dài truyền thống Raglai kết cấu vững chắc, quanh khu nhà ở có hàng rào chắc chắn, có một hoặc hai cửa ra vào và luôn có máng nước bằng tre nứa dẫn từ suối về bảo đảm sinh hoạt hàng ngày và có chỗ tắm giặt cho đàn bà, con gái, trẻ em. Ngoài ra, trên đám rẫy đang canh tác, người Raglai còn có nhà rẫy để ăn uống nghỉ ngơi trong những ngày lao động mùa vụ, có kho tạm chứa hoa lợi trước khi mang về nhà.

Về trang phục truyền thống, đàn ông Raglai mặc áo bà ba hoặc quần âu áo sơ mi. Phụ nữ thì mặc váy hoặc quần áo sơ mi, áo bà ba, trong các dịp lễ hội, cúng tế cũng như ngày thường. Tương truyền ngày xưa đàn ông Raglai cởi trần đóng khố; đàn bà quấn váy tấm, mặc áo cộc luồn đầu. Đồ trang sức của nữ có vòng đeo cổ tay, vòng đeo cổ, các loại vòng cườm, bông tai bằng đồng thau hay bằng bạc.

Về quan hệ gia đình, người Raglai theo chế độ mẫu hệ, cho đến nay họ vẫn duy trì tuy đã có sự thay đổi theo môi trường xã hội mới. Con gái cưới chồng về nhà mình với quan niệm “Chặt cây rừng về làm nhà, bắt người ta về làm người nhà mình”. Chàng rể, người chồng trở thành trụ cột trong gia đình nhà vợ nhưng quyền quyết định những công việc lớn lao vẫn thuộc về người vợ và ông cậu bên vợ. Con gái sinh ra mang họ mẹ và luôn giữ mối quan hệ huyết thống theo dòng họ mẹ suốt 7 đời. Quyền thừa kế tài sản chỉ thuộc về con gái, đặc biệt là người con gái út.

Người Raglai theo tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh”. Họ lấy tên đá, núi, cây rừng, con vật làm họ cho mình và xem như là một vị thần hộ mệnh. “Giàng” là vị thần linh vô hình tối cao nhất. “Giàng” có thể trợ giúp cho con người may mắn hoặc có thể mang tai họa đến cho con người vì vậy người Raglai thường thờ cúng “Giàng” để không bị trừng phạt chết và cầu cho mùa màng bội thu. Ngoài ra, họ còn thờ cúng các thần như: thần núi (Yang chớ), thần rừng (Yang gla glai), thần lúa (Yang Paday) v.v...

Người Raglai cũng quan niệm người chết linh hồn tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia, nên quanh mộ được trồng các cây chuối, mía, dứa, khoai môn và chia của cho người chết bằng những ché, chiêng, vỏ quả bầu khô, gùi đã đập vỡ hoặc làm rách, vì cho đó là đồ dùng của ma. Trên mộ dựng nhà mồ nhô lên những cột, trên các cột ấy khắc hình chiếc thuyền, chim dang cánh, bông lan… Khi đã có đủ điều kiện người ta tổ chức lễ nhang vàng tức là lễ cúng người chết lần cuối cùng sau đó bỏ mả hẳn.

Đồng bào Raglai có đời sống văn hóa, văn nghệ dân gian phong phú, có những truyện thần thoại kể về các vị thần sáng tạo trời đất, muôn loài. Những truyện cổ tích, những câu tục ngữ, ca dao phản ánh đời sống lao động nương rẫy, phong tục tập quán, đấu tranh chống thiên tai thú dữ, về tình yêu quê hương xứ sở, tình yêu lứa đôi. Về dân ca có những làn điệu như alâu (nói lì, hát đối đáp), điệu xúri (hát than thân), điệu se ngai ( hát tỏ tình ).

Về nhạc cụ người Raglai có bộ chiêng đầy đủ 12 chiếc được sử dụng theo từng nhóm 4, 6, 7 hay 9 cùng với chiếc trống da nai điểm nhịp. Đặc biệt, trong đám tang có tiết mục múa tiễn đưa người quá cố với bộ chiêng 7 chiếc. Nhạc cụ còn có khèn bầu (sara ken), khèn môi có 2 loại radih a hoát và đàn ống tre (chapi). Người Raglai cũng biết ghép những thanh đá thành bộ đàn đá khá độc đáo và lí thú, được đánh giá là “đàn đá tiền sử”, là “nhạc cụ cổ xưa nhất” của loài người.

Việc tìm kiếm chế tác những viên đá khi gõ vào phát ra âm thanh một thời gian dài đã được đồng bào Raglai vùng Trường Sơn - Tây Nguyên sử dụng. Từ công cụ sản xuất đã trở thành nhạc cụ. Đàn đá trở thành di sản văn hóa độc đáo mang tính bản địa của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, dần dần đàn đá trở thành nhạc cụ linh thiêng trong đời sống của cộng đồng khi nó tham gia vào các nghi thức của lễ hội, tín ngưỡng./.

Đàm Kim Phượng (sưu tầm)

Đàn Cha Py của dân tộc Raglai (Chu Văn Thuận)

Đồng bào dân tộc Raglai ở Ninh Thuận có đàn đá Bác Ái, một loại nhạc cụ độc đáo từ cổ xưa để lại, trong các lễ hội dân gian người ta còn dùng Mã La để phụ họa cho múa, cho hát, nhưng có lẽ độc đáo hơn cả là đàn Cha Py, một loại nhạc cụ bằng ống bương (tre) được các nghệ nhân người Raglai chế tác và chơi trong các lễ hội dân gian, nhất là trong các ngày lễ tết của đồng bào dân tộc như: lễ bỏ mả, lễ lúa mới, lễ xuống đồng, Tết Nguyên Đán...
Các cụ già Raglai kể cha Py là loại đàn của người nghèo, vì lẽ một chiếc đàn Mã La cổ loại tốt phải đổi bằng một con trâu hoặc hai con bò, một bộ Mã La hoàn chỉnh phải từ 9 đến 12 chiếc, còm Cha Py thì ngược lại, chỉ một ngày đi rừng tìm tre to về làm là hôm sau có thể chơi được rồi mà chẳng khác nào một bộ Mã thu nhỏ.

Đàn Cha Py của đồng bào Raglai độc đáo ở chỗ khi nghệ nhân đàn lên ta nghe như có suối chảy róc rách, như có tiếng đàn Tơ Rưng, nghe kỹ như là đàn đá, nhắm mắt lại ta mường tượng như 8, 9 thanh niên đang chơi Mã La vậy.


Hình thù đàn Cha Py đơn giản chỉ là một ống tre to, người nghệ nhân tách vỏ tre lên là dây, sau đó họ vót miếng tre thật nhẵn nhét vào giữa hai sợ dây song song, cứ như thế người ta làm từ 5 đến 8 miếng tre, tùy theo vùng, ở Bác Aỏi thì có 8 miếng. Khi chơi người nghệ nhân áp một đầu ống vào bụng, dùng hai hai vừa nâng đàn vừa lấy các ngón tay bật vào các miếng tre, miếng tre rung lên trên hai sợi vỏ tre phát thành tiếng nhạc độc đáo. ở Bác ái (Ninh Thuật) đồng bào Raglai thường dùng vào các ngày lễ, ngày tết, hầu hết đồng bào đều biết chơi đàn này. Ngày nay, đàn Cha Py không còn bó gọn trong cộng đồng người Raglai nữa mà tiếng vang của nó đã lan ra toàn quốc và quốc tế.

Cứ tết đến, mùa xuân về, bên bếp lửa hồng, người già uống rượu cần, con trai đánh đà Cha Py, con gái múa sanh tiền, cùng với Mã La phụ họa tạo nên một không khí hội hè vui tươi đến thâu canh suốt sáng. Cứ mỗi dịp như thế, con trai bắt được vợ, con gái bắt được chồng, bởi tiếng đàng Cha Py của người con trai làm bối rối người con gái, điệu múa của người con gái làm xiêu lòng người con trai... Cứ như thế, mùa xuân ngày tết ở buôn (làng) người Raglai kéo dài bất tận như tiếng đàn Cha Py vậy.

Chu Văn Thuận (sưu tầm)

Dân tôc Răglai với luật tục làng (Trần Kim Anh)

Đồng bào Răglai trong ngày hội

Tỉnh Ninh Thuận có trên 50.000 người Răglai, tập trung ở các huyện Bác Ái, Ninh Sơn, Ninh Phước. Đồng bào canh tác nông nghiệp theo phương thức truyền thống (đốt nương làm rẫy), sinh hoạt tự cấp tự túc, đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, lạc hậu. Tập quán sinh hoạt, sản xuất và điều kiện sống của người Răglai đã ảnh hưởng trực tiếp tới những quy định trong luật tục của cộng đồng. Đặc biệt là những luật tục liên quan đến Luật Hôn nhân và Gia đình.

Luật tục Răglai quy định không được kết hôn trong trường hợp: anh em cùng cha khác mẹ, cùng họ (ngay cả đã quá 3 đời), cùng huyết thống theo họ mẹ, con cô, con cậu cũng không được lấy nhau. Mặc dù người Răglai theo chế độ mẫu hệ, nhưng con sinh ra lại mang họ cha để tránh xảy ra trường hợp người cùng huyết thống theo dòng cha kết hôn wới nhau. Pheo quaj niệm của đồng bào, nếu cùng một họ mà lấy nhau là vi phạm quy định của trời và thần linh. Trời giận, sẽ gây ra mất mùa, dịch bệnh. Do vậy, trường hợp cố tình vi phạm vào luật tục thì đôi vợ chồng sẽ bị làng phạt nặng. Trưởng bản trực tiếp chích máu đôi vợ chồng nhỏ vào sọt tre, thả xuống suối làng. Ngoài ra, hai người còn phải nộp 2 con gà để cúng trời, thần núi và phải hứa sẽ không ở với nhau nữa. Khi hai bên vẫn không tuân thủ luật tục thì dân làng kiên quyết đuổi ra khỏi làng. Cha mẹ họ cũng bị liên luỵ theo, phải nộp 1 con bò hoặc 2 con lợn, 1 ché rượu cần cho làng.

Xét về độ tuổi kết hôn, người Răglai ở huyện Bác Ái không quy định cụ thể, nhưng người nào nhiều tuổi hơn sẽ phải bù cho người ít tuổi bằng một hiện vật như: đồng Mã la, mâm đồng, 1 con lợn 40 – 50 kg hoặc 1 ché rượu cần. Tục bù tuổi hiện vẫn còn duy trì ở một số bản nhưng mang tính chất tượng trưng.

Hiện vật chỉ cần 1 - 2 ché rượu cần hoặc vài lít rượu trắng.
Luật tục Răglai quy định đã thành vợ, thành chồng thì không được bỏ nhau. Song, vợ chồng ở với nhau mà quá xung khắc, hai bên thông gia không thể giải hoà thì luật tục vẫn cho phép họ chia tay. Người đàn ông khi ra khỏi nhà vợ không được mang theo bất kỳ tài sản gì nếu người vợ không cho phép. Lý do đơn giản là tài sản của gia đình phải để lại cho người vợ nuôi con. Tuy nhiên, một số làng lại có quy định về vấn đề phân chia tài sản như sau: Nếu vợ tự ý bỏ chồng thì cô ta phải ở giá suốt đời, buộc “chịu của” cho chồng bằng hình thức trả tiền công lao động. Cứ 1 ngày cô phải trả cho chồng 15.000 đến 20.000!đồng. Sẑ tiềj này được tính từ khi người chồng sang ở nhà vợ cho đến lúc bỏ nhau. Ngược lại, nếu chồng bỏ vợ thì mức phạt nặng hơn. Mức phạt được tính bằng 1 con lợn hoặc 1 con bò/ngày. Hai trường hợp trên nếu không thanh toán được cho nhau thì làng lại bắt họ “bắt nhau lại”. Lại có làng quy định người chồng được chia tài sản dưới sự quyết định của vợ. Nếu chồng lười biếng, rượu chè bê tha thì gia đình bên vợ sẽ trả chồng về gia đình mà không cho bất cứ một thứ gì.

Về vấn đề con nuôi thì người Răglai thường nhận con cháu trong dòng họ hoặc xin trẻ em đang bị bỏ rơi về nuôi dưỡng, chăm sóc. Mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định phải làm thủ tục đầy đủ trước khi nhận con nuôi nhưng hầu như các gia đình ít tuân thủ. Trong ứng xử, người Răglai không phân biệt giữa con nuôi và con đẻ. Đồng bào đề cao nguyên tắc bình đẳng trong giáo dục con cái.

Trong xã hội Răglai, việc xử phạt do Hội đồng thôn xem xét, quyết định. Có nhiều trường hợp lại do già làng trực tiếp đứng ra giải quyết. Ngoài hình thức bồi thường cho người bị vi phạm, người có lỗi còn phải chịu phạt vạ bằng vật chất để “khao làng”. Hiện nay, mặc dù các thôn đều có tổ hoà giải nhưng vẫn có nhiều trường hợp làng giải quyết sự việc theo luật tục. Khi chúng tôi hỏi: ”Tại sao không áp dụng pháp luật để xử lý các vụ việc xảy ra ở thôn, xã?”, một số cán bộ và người dân đều trả lời: ”Mình biết làm theo Luật là đúng nhưng pháp luật xử nhẹ quá, xử theo luật tục thì nó (chỉ người mắc lỗi) mới sợ, không vi phạm nữa...!”

Trong những năm qua, các cấp chính quyền ở địa phương đã quan tâm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến cho bà con dân tộc Răglai về chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, đời sống kinh tế, tinh thần của người dân Răglai có nhiều tiến bộ. Người Răglai đã nhận thức được một số điều bất hợp lý giữa phong tục, tập quán với quy định của pháp luật của Nhà nước nên đang dần tự điều chỉnh luật tục để phù hợp với những giá trị mới của xã hội. Luật tục Răglai có tác dụng tích cực là hạn chế những hành vi trái ngược chuẩn mực của làng, duy trì trật tự xã hội.
 Trần Kim Anh (sưu tầm)

Dân tộc Raglai (Nông Gia Khánh)

Dân tộc Raglai, còn viết là Ra-glai hoặc Ra Glai (tên gọi khácRa Glây, Hai, Noana, La Vang) là dân tộc thiểu số thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và huyện Khánh Sơn, phía nam tỉnh Khánh Hòa cũng như tại Bình Thuận.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Raglai ở Việt Nam có dân số 122.245 người, có mặt tại 18 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Raglai cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (58.911 người, chiếm 48,2% tổng số người Raglai tại Việt Nam), Khánh Hòa (45.915 người, chiếm 37,6% tổng số người Raglai tại Việt Nam), Bình Thuận (15.440 người) và Lâm Đồng (1.517 người).

Người Raglai có một lịch sử cư trú lâu đời ở vùng Nam Trung Bộ, Việt Nam. Họ sống thành từng pa-lây (buôn làng) trên khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Mỗi pa-lâythường gồm vài chục nóc nhà của một dòng họ. Số thành viên trong nhà thường gồm bố, mẹ và các con chưa lập gia đình. Đứng đầu pa-lây là pô pa-lây (trưởng làng), thường đó là người có công khai phá đất đầu tiên. Trưởng làng có trách nhiệm làm lễ cúng trời đất khi bị hạn hán nặng. Người có uy tín nhất dòng họ gọi là kây pa-lây (già làng).

Khèn Bầu.

Người Raglai sống chủ yếu dựa vào phương pháp phát rừng làm rẫy. Có hai loại đất rẫy: Kra là rẫy trên đất phù sa dọc theo các sông, suối bị ngập nước vào tháng 9, tháng 10, thường trồng bắp (ngô) hoặc bầu, bí để thu hoạch trước khi rẫy bị ngập nước; và rẫy Apố, là loại rẫy trên đất cao hoặc chân núi không bị ngập nước vào mùa mưa. Đây là loại đất canh tác chính của người Raglai. Trên loại đất này, họ thường trồng lúa, ngô và các loại cây có củ. Nông cụ, quy trình và kỹ thuật canh tác rẫy, tương tự như các dân tộc Mạ, Cơ Ho. Hiện nay, trong phong trào định canh định cư, người Ra-glai bắt đầu khai thác ruộng trồng lúa nước. Săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công (chủ yếu là nghề rèn và đan lát) giữ vai trò quan trọng trong mỗi gia đình.

Trong xã hội Raglai còn tồn tại chế độ mẫu hệ, đàn ông sống trọn đời ở nhà vợ, con cái đều lấy họ mẹ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong gia đình được thừa hưởng tài sản. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyền quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyền của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Ra Glai có nhiều dòng họ: Chamalé hay Chăm Ma-Léc (tiếng Việt dịch là Mấu), Pi Năng (tiếng Việt dịch là Cau, đọc trại là Cao), KaTơr hay Ka-Tơ (tiếng Việt dịch là Bo Bo), Ha Vâu (tiếng Việt dịch là Tro), Patâu (tiếng Việt dịch là Đá, Thạch,…), Pu Pươi, Asah, Tala, Jack, Taing, Cao,… trong đó họ Chamalé là đông hơn cả. Mỗi họ đều có một sự tích, truyền thuyết kể về nguồn gốc của họ mình.

Đội ngũ diễn viên tộc Raglai.

Nhà sàn là nhà ở truyền thống của người Raglai.
Về mặt tín ngưỡng, chủ làng là người có quyền duy nhất về mặt tín ngưỡng trong các cộng đồng người Raglai. Đó là người có quyền đại diện cho cộng đồng làng để tổ chức lễ cúng các thần linh, trời đất, khi bị hạn hán, mất mùa hoặc khi dân làng bị dịch, bệnh.

Tộc Raglai không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ (như Chăm, Ê Đê…).

Tộc Raglai có những trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích mang giá trị lịch sử, nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc. Văn học dân gian gồm có truyện kể, hát đối đáp nam nữ, tục ngữ, ca dao… thể hiện tâm tư, tình cảm của cả cộng đồng. Nhất là các truyện sử thi cổ độc đáo như:

* Awơi Nãi Tilơr
* Udai – Ujàc
* Amã ChiSa
* Amã Cuvau VongCơi

Nhạc cụ Raglai.

Về nhạc cụ người Raglai có bộ chiêng đầy đủ 12 chiếc được sử dụng theo từng nhóm 4, 6, 7 hay 9 cùng với chiếc trống da nai điểm nhịp. Đặc biệt, trong đám tang có tiết mục múa tiễn đưa người quá cố với bộ chiêng 7 chiếc. Ngoài ra còn có các nhạc cụ khác như: khèn bầu (sara ken), khèn môi có 2 loại radih a hoát… nhưng độc đáo hơn cả là đàn ống tre Chapi, một loại nhạc cụ bằng ống bương (tre) được các nghệ nhân người Raglai chế tác và chơi trong các lễ hội dân gian, nhất là trong các ngày lễ tết.

Người Raglai còn biết ghép những thanh đá thành bộ đàn đá khá độc đáo và lí thú, được đánh giá là “đàn đá tiền sử”, là “nhạc cụ cổ xưa nhất” của loài người. Việc tìm kiếm chế tác những viên đá khi gõ vào phát ra âm thanh một thời gian dài đã được đồng bào Raglai vùng Trường Sơn – Tây Nguyên sử dụng. Từ công cụ sản xuất đã trở thành nhạc cụ. Đàn đá trở thành di sản văn hóa độc đáo mang tính bản địa của vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, dần dần đàn đá trở thành nhạc cụ linh thiêng trong đời sống của cộng đồng khi nó tham gia vào các nghi thức của lễ hội, tín ngưỡng.

Về dân ca người Raglai có những làn điệu như alâu (nói lì, hát đối đáp), điệu xúri (hát than thân), điệu se ngai (hát tỏ tình). Hình thức hát đối đáp khá phổ biến trong sinh hoạt văn nghệ.

Đàn Chapi - tộc Raglai.

Độc đáo Chapi
Cùng với cây đàn đá, người Raglai ở Ninh Thuận còn có cây đàn Chapi, một loại nhạc cụ bằng ống bương (tre) rất độc đáo. Trong các lễ hội, như Lễ bỏ mả, Lễ lúa mới, Lễ xuống đồng, Tết Nguyên Đán…, tiếng đàn Chapi lại vang lên, da diết. Người ta gọi Chapi là cây đàn của người nghèo.

Đơn sơ cây đàn Chapi Sở dĩ như vậy là việc chế tác cây đàn không thật công phu, không tốn kém, chỉ một lần đi rừng tìm được một ống tre ưng ý là hôm sau đã có cây đàn để chơi. Khi vang lên, Chapi có âm điệu dịu dàng, róc rách như tiếng suối.

Với người nghệ nhân giỏi, họ chỉ việc tách vỏ tre lên để làm dây, sau đó vót miếng tre thật nhẵn nhét vào giữa hai sợ dây song song, cứ như thế người ta làm từ 5 đến 8 miếng tre, tùy theo vùng. Khi chơi, người ta áp một đầu ống vào bụng, dùng hai hai vừa nâng đàn vừa lấy các ngón tay bật vào các miếng tre. Chúng rung lên trên hai sợi vỏ tre phát ra những âm sắc độc đáo.

Theo thời gian, cũng bởi sự xuất hiện gần như áp đảo của các loại nhạc cụ khác, các loại hình âm nhạc khác, nên cây đàn Chapi đang ở thế lui lại trong các buôn làng. Lớp trẻ cũng ít chú ý đến cây đàn. Đó là điều những người Raglai cao tuổi, nhất là những nghệ nhân chế tác, chơi đàn Chapi cảm thấy buồn lòng, lo lắng. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cũng cùng chung nỗi lo lắng này.

Ông Chamaléa Thơm, người được coi là nghệ nhân nổi tiếng nhất, gắn bó suốt cuộc đời với cây đàn Chapi tâm sự, hiện con em Raglai thích nghe nhạc trữ tình hơn là nghe sử thi, nên vị trí cây đàn Chapi ngày một yếu đi. Còn bà Mấu Thị Bích Phanh, đại diện cho người Raglai huyện Bác Ái cho rằng, việc gìn giữ văn hóa truyền thống người Raglai phải giữ gìn từ ngôn ngữ, phát triển chữ viết người Raglai. Từ đó cây đàn Chapi mới tìm lại được vị trí của mình.

Theo ông Nguyễn Văn Hảo, một nhà nghiên cứu văn hóa đồng bào khu vực Nam Trung bộ thì đàn Chapi được làm từ một ống tre già, tạo thành ống đàn, dài khoảng 35cm, đường kính khoảng 8cm. Hai đầu đàn không bịt kín, đầu trên là phần đốt của cây tre nên có lỗ ống nhỏ hơn so với đầu dưới của đàn. Đàn có 6 dây đôi (cũng có khi đàn chỉ có 6 dây đơn) được tách ra từ cật tre, các dây đàn chạy đều xung quanh ống đàn. Hai đầu của các dây đàn có quấn dây mây để giữ cho dây đàn không bị tách ra khỏi ống đàn.

Hai đầu của mỗi dây, ngay sát cạnh gốc dây có ngựa đàn để đỡ dây đàn không cọ sát xuống ống đàn, đồng thời còn có chức năng như một bộ phận để lên dây. Ở giữa mỗi cặp dây có gắn chung một phím đàn được làm từ miếng tre mỏng dài khoảng 2,5 cm, rộng 1,5 cm. Ngay bên dưới mỗi phím đàn là một lỗ nhỏ thông với ống đàn. Gần phím đàn, về phía đầu trên của đàn có gắn hai que, mỗi que dài khoảng 15 cm dùng để làm bộ phận tay cầm khi gẩy đàn (cũng có trường hợp không có bộ phận tay cầm). Cao độ dây đàn Chapi không cố định, tùy thuộc vào cảm nhận của từng nghệ nhân, tùy thuộc vào từng bài bản khác nhau mà nghệ nhân có thể lên dây bằng cách dịch chuyển ngựa đàn để cao độ dây đàn cho phù hợp.

Kỹ thuật diễn tấu Chapi không phức tạp, tuy nhiên phải có sự phối hợp nhịp nhàng hai tay thì mới đem lại hiệu quả. Thông thường, khi đàn nghệ nhân đặt dọc cây đàn, đầu trên của đàn hướng ra phía ngoài, đầu dưới của đàn đàn hơi nghiêng vào bụng vừa là để cộng hưởng âm thanh, vừa làm cho âm thanh được ấm hơn. Hai tay của nghệ nhân giữ lấy que tay cầm, các ngón tay ôm tròn ống đàn, luân chuyển các ngón gẩy trên phím đàn.

Vẫn theo ông Hảo, một số bài bản phổ biến của đàn Chapi gồm: Ru em, Mời ông Táo về, Múa ma, Đối đáp, Gặp gỡ, Mãn tang, Lễ bỏ mả, Tiễn chân, Nhớ, Cầu mùa, Người phụ nữ đảm đang, Tài đức, Hội mùa… Điểm đặc biệt nhất của đàn Chapi là có cả bè giai điệu và bè đệm, trên cơ sở cách bố trí dây trên cây đàn.

Nghệ nhân Ama Điệp, tộc Raglai.

Lên núi nghe đàn Chapi
“Ai yêu rừng xanh thì lên núi nghe đàn, Chapi…” – ông Mấu Xuân Điệp, còn được gọi là Ama Điệp ở Khánh Vĩnh, Khánh Hòa là nghệ nhân duy nhất biết cách chế tác đàn Chapi và chơi đầy đủ các làn điệu của đàn.

Ama Điệp giải thích: “Người Raglai rất thích nghe tiếng đàn Mã La. Tuy nhiên 1 bộ Mã La từ 9-12 chiếc phải đổi bằng 18-24 con bò mới có thể sắm được.

Ngày trước, người Raglai chỉ có những nhà giàu mới sắm được đầy đủ 4 chiếc tượng trưng cho cha, mẹ, chị gái đầu, em gái út… Vì vậy, dân gian Raglai đã sáng tạo đàn Chapi với âm hưởng gần giống dàn Mã La để chào đón ngày lễ lớn và sinh hoạt thường ngày”.

Đàn Chapi.

Đàn Chapi gồm 6 làn điệu với 6 mục đích sử dụng mang ý nghĩa tùy thuộc vào 6 thời điểm quan trọng của người Raglai là: điệu thường đánh trong lễ bỏ mả, điệu đánh trong đám cưới, điệu đánh vào ngày mùa, điệu hát giao duyên, điệu hát về chim cu gáy, điệu đánh mừng lúa mới.

Ama Điệp cho biết: “Đàn Chapi độc đáo ở chỗ khi nghệ nhân đàn lên, trong sự tĩnh lặng của núi rừng, ta sẽ thấy như có suối chảy róc rách, như có tiếng đàn Tơ – rưng, lắng sâu hơn là sự rắn rỏi của đàn đá, nhắm mắt lại ta mường tượng như 8, 9 thanh niên đang chơi Mã La vậy. Độc đáo còn ở chỗ đàn Chapi là sản phẩm dân gian thuộc loại lâu đời nhất”.

Hiện nay, Ama Điệp vẫn thường lui tới con đèo ở Khánh Sơn để chơi đàn cho bạn bè làm nương rẫy nghe.


Khi đánh đàn Chapi, người đánh phải nâng đàn lên gần ngang ngực. Sau đó ghì sát đầu ống để rỗng vào người để giữ âm lại trong ruột đàn. Hai bàn tay vừa để giữ đàn, vừa để khảy các dây đàn theo nhịp điệu của những khúc nhạc dân gian.

Nếu chuyên tâm học chỉ cần khoảng 10 ngày là có thể sử dụng được đàn Chapi nhưng để thành thạo tất cả 6 giai điệu của loại nhạc cụ này thì có khi phải mất cả đời.


Công việc chế tạo đàn Chapi cũng đòi hỏi lắm kỳ công. Cây đàn chỉ dài bằng 1 đốt tre chừng 30 cm, có 12 dây chia làm 6 cặp. 1 đầu ống tre được khoét lỗ, đầu kia để rỗng. Đặc biệt là con đội, có khả năng tạo độ căng cho dây đàn và tạo âm cho đàn.

Việc chọn nguyên liệu không hề đơn giản. Trước hết, phải chọn được cây tre mọc trên núi cao, khoảng 1 năm tuổi. Khi chặt tre về làm đàn, phải lựa đúng ngày 27, 29 âm lịch để tránh mối, mọt sau này. Tre phải phơi nắng ít nhất 1 tháng nếu không nứt, khô cong mới có thể đem ra chế tác đàn.


Các dây đàn Chapi cũng được tách ra từ thân ống tre đã chọn làm nhạc cụ. Chế dây đàn là khó nhất vì dễ bị rách dây. 6 cặp dây đàn phải được căn chỉnh hợp lý, kĩ lưỡng cả mặt trên và mặt dưới của đàn. Khi đánh đàn nếu không nghe được tiếng giống tiếng Mã La nhưng thanh hơn, thì phải làm lại cái khác.

Đàn Chapi có lịch sử hàng ngàn năm. Ông Mấu Xuân Điệp cho biết: “Để có được chiếc đàn Chapi như ý phải mất một tháng và chọn lựa, chế tác kỹ càng”.


Ama Điệp nói: “Núi rừng Tà Nĩa mây ngang đỉnh núi, đèo Khánh Lê với những khu rừng nguyên sinh mới là nơi để tiếng đàn Chapi vang đi xa nhất. Chapi phải đánh cho thôn bản, xóm làng vào ngày lễ hội mới là vui nhất. Ngày xưa, chỗ mình đâu đâu cũng có tiếng đàn Chapi”.

Sương đêm Tà Nĩa làm câu chuyện của Ama Điệp thêm buồn: “Ngày nay giới trẻ Raglai đã không còn ai chơi loại nhạc cụ này nữa rồi. Mình muốn truyền lại cho con, cho cháu mà không đứa nào chịu học, nhiều khi cũng buồn mà không biết làm sao”.


Thời xưa, đàn Chapi có trong mỗi gia đình Raglai, và chỉ những người trụ cột trong gia đình mới được giữ nó. “Còn bây giờ nhiều thanh niên Raglai đã không còn biết cách làm, cách khảy”. Khán giả trung thành nhất của Ama Điệp chính là người vợ của ông, bà Mấu Thị Mười.

Được biết, hiện nay cả khu vực Khánh Sơn chỉ còn 3 người biết khảy Chapi. Nhưng chỉ Ama Điệp là người duy nhất thường xuyên sử dụng loại nhạc cụ này. Ông đã từng đem đàn Chapi đi thi tài năng âm nhạc do tỉnh tổ chức vào năm 2004, 2011, và đều được giải cao.


Trong một chuyến đi tìm nhạc cụ dân tộc Việt Nam để giới thiệu tại Pháp, Trần Tiến đã tìm đến một vùng núi của tỉnh Ninh Thuận. Gặp được cây đàn mà anh rất thích, ở đây, người ta gọi là đàn Chapi. Anh nói với người chủ mình là nhạc sĩ và ngỏ ý muốn mua cây đàn này. Người chủ cây đàn đáp với anh rằng: ” Nếu anh thích thì tôi sẽ tặng anh. Tôi không bán đâu vì đã mười mấy năm rồi tôi không dùng đến tiền”.

Nhạc sĩ Trần Tiến thật sự bất ngờ vì câu trả lời của người chủ cây đàn. Từ đó, khơi nguồn cảm xúc cho anh sáng tác nên “Giấc mơ Chapi”.

NSND Ymoan trình diễn bài Giấc mơ Chapi trong một chuyến lưu diễn.

Giấc mơ Chapi được hát đầu tiên trên sân khấu là tại Pháp và Hà Lan do chính tác giả trình bày và đó cũng là lần đầu tiên đàn Chapi được giới thiệu với bạn bè quốc tế. Khi về nước, với chất giọng hào sảng của ca sĩ Y Moan đã giúp ông thể hiện thành công bài hát này.

Do âm hưởng hùng ca của núi rừng nên nhiều người đã lầm tưởng đàn Chapi xuất xứ từ một vùng quê ở Tây Nguyên. Đó quả là một điều đáng tiếc với mảnh đất Ninh Thuận, cái nôi của đàn Chapi.


Thấy có khách từ miền xuôi lên thăm, ông Chamaléa Âu tự tay pha trà nóng đưa ra mời. Tấm lòng người Raglai rộng mở, ông thân mật tiếp chuyện với chúng tôi trong căn nhà xây dựng khang trang ở đầu thôn Do. Chamaléa Âu đã qua gần sáu mươi mùa rẫy, nhưng bước đi dáng dứng lanh lợi như con nai, con sóc giữa rừng già Ma Nới. Bàn tay của ông sần sùi chắc nịch như cây lim, cây mấu. Có lẽ cuộc sống nương rẫy trên núi cao, với tâm hồn phóng khoáng cùng gió núi, hương rừng đã tạo cho ông có sức vóc khỏe mạnh. Tôi rất mê phong cách biểu diễn đàn Chapi rất hồn nhiên của ông. Khuôn mặt sạm nắng, râu tua tủa, nụ cười hồn hậu gởi lòng theo tiếng đàn bập bùng hòa quyện cùng tiếng nước sông Do.


“Tôi rất biết ơn Nhạc sĩ Trần Tiến. Bài hát “Giấc mơ Chapi” của ổng đã nói đúng bụng, đúng dạ đồng bào Raglai Ninh Thuận. Tôi cố gắng chế tác, biểu diễn và truyền nghề làm đàn Chapi cho con cháu bản làng. Cây đàn Chapi rất gọn nhẹ nếu du khách đến thăm Ninh Thuận có nhu cầu làm quà lưu niệm, tôi cũng sẵn sàng phục vụ. Tôi mong được đưa tiếng đàn Chapi của đồng bào Raglai Ninh Thuận đến với các dân tộc anh em trong cả nước”, nghệ nhân Chamaléa Âu bày tỏ ước mong.

Nghệ nhân Cao Dy.

Nghệ nhân Cao Dy và tình yêu mãnh liệt với âm nhạc dân tộc
Ở tuổi 38, nghệ nhân Cao Dy, dân tộc Raglai, là một trong những nghệ nhân trẻ tuổi nhất của đồng bào các dân tộc khu vực miền Trung – Tây Nguyên có thể tự tay làm và chơi hơn 20 loại nhạc cụ dân tộc khác nhau. Với niềm đam mê dành cho âm nhạc dân tộc, anh đã và đang là người đi đầu trong công tác giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc trên mảnh đất quê hương.

Từ khi còn bé, nghệ nhân Cao Dy đã được sống trong không gian của cồng chiêng, của các nhạc cụ dân tộc Raglai. Cứ thế, những giai điệu đó ngấm dần vào anh qua lời ru của bà của mẹ, qua những đêm nổi lửa, lễ mừng cơm mới, lễ mừng một sinh linh chào đời…

Năm lên 6 tuổi, nghệ nhân Cao Dy bắt đầu tập chơi sáo với người thầy đầu tiên là người anh của mình. Theo thời gian, anh đã không ngừng học hỏi từ các già làng về cách làm, cách chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Sau nhiều năm tìm hiểu và rèn luyện, đến nay nghệ nhân Cao Dy đã có thể tự tay làm và chơi được hầu hết tất cả các loại nhạc cụ mà người Raglai thường dùng trong lễ hội truyền thống, từ đàn Goong, đàn Cha-pi, sáo Talebiloi đến sáo Tacung, chiêng Mãla, trống Gianai…

Nghệ nhân Cao Dy chia sẻ: “Mỗi nhạc cụ mang một sắc thái khác nhau, người Raglai dùng chúng trong những hoàn cảnh khác nhau. Đối với bất cứ nghệ nhân nào, khi làm cũng như chơi nhạc cụ truyền thống phải hòa mình vào chúng mới có thể làm cho âm thanh nhảy múa được”.

Đàn đá và Mã la của tộc Raglai.

Âm Nhạc Cồng Chiêng Của Người Raglai Ở Khánh Hòa
Tộc người Raiglai là cư dân bản địa cư trú lâu đời trên địa bàn miền núi các tỉnh cực Nam Trung bộ, thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo(Poleniesien). Hiện có khoảng 100 nghìn người, sống tập trung ở các huyện miền núi thuộc các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Theo thống kê dân số năm 2009, tỉnh Khánh Hòa có khoảng 40 nghìn người Raglai đang cư trú ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và các huyện phụ cận như Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Lâm, thị xã Cam Ranh.

Người Raglai có quá trình lịch sử lâu đời và có nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc. Do soongs trong môi trường miền núi xa xôi, lại phải trải qua nhiều năm trong bom đạn chiến tranh, nên đời sống kinh tế của người Raglai ở Khánh Hòa đến nay vẫn còn lắm khó khăn. Một số đặc trưng về văn hóa như trang phục, nhà ở đã bị mai một đi rất nhiều. Song có điều đáng mừng là hầu hết những di sản văn hóa phi vật thể của Ông Bà vẫn được truyền thừa và gìn giữ khá nguyên vẹn, như các lễ hội truyền thống của dân tộc, các bản trường ca (Akhat-Jucar), đặc biệt hệ thống dân ca, dân nhạc vẫn được gìn giữ khá nguyên vẹn. Tuy nhiên do nhiều lí do khác nhau, đến nay vẫn chưa có công trình nguyên cứu nào mang tính khoa học toàn diện về người Raglai. Vì vậy, tộc người Raglai và văn hóa của họ, trong đó có âm nhạc dân gian Raglai vẫn còn khá xa lạ đối với giới chuyên môn cũng như với cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin được đề cập một cách hết sức tổng quát về “âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa” mà chúng tôi có dịp tiếp cận và thu được với mong muốn cùng nhau trao đổi, nghĩ suy và tìm cách bảo tồn, phát huy nó trong đời sống hiện nay.


1. Trong một bài viết về âm nhạc dân tộc, khi đề cập đến tính dân tộc trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam, giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ có viết: “Những đặc điểm lớn, mang tính Việt Nam, có thể xuất phát từ các yếu tố thổ ngơi, địa lí…vừa từ sự sống chung, giao lưu văn hóa nghệ thuật lâu đời bên nhau trong cộng đồng và những nét đăc trưng dân tộc có thể có nguồn gốc từ ngôn ngữ, tập quán sinh hoạt mà tạo ra cái “hồn nghệ thuật” là đặc thù của từng dân tộc. Cũng trong bài viết này ông đã nhấn mạnh rằng : “để phát hiện ra từng đặc trưng âm nhạc của từng dân tộc, người ta không chỉ dựa trên sự quan sát hời hợt, một cuộc điền dã “cưỡi ngựa xem hoa”, nhất là đối với những dân tộc có sự sống chung lâu đời và giao lưu khăng khít với các dân tộc khác, khiến cho những đặc trưng của dân tộc mình dễ bị lẫn vào những đặc điểm lớn và chung của cả cộng đồng”. Những điều nêu trên xem ra là khá phù hợp và xác đáng đối với việc nghiên cứu âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa.

Khảo sát thực địa chúng ta cho thấy, người Raglai ở Khánh Hòa có mối quan hệ và giao lưu văn hóa lâu đời, rõ nét với các tộc người cùng chung ngữ hệ như Chăm, Êđê,Churu và nhất là người Việt, và trong quá trình cộng sinh, cộng cư ấy nhiều yếu tố văn hóa đặc thù của họ đã bị lẫn vào cái chung của cộng đồng. Ngày nay, nếu quan sát kỹ các mặt đời sống sinh hoạt cua người Raglai ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng với người chăm như sắc phục, một số nhạc cụ hoặc những nét gần gũi với người Êđê như các lễ hội nhạc cụ…và tất nhiên có rất nhiều điều rất giống với người Việt.

Chúng tôi còn nhớ, trong cuộc “liên hoan văn hóa thể thao dân tộc Raglai 3 tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận năm 2005” đươc tổ chức tại thành phố Nha Trang, một số điều diễn ra trong thực tế đã làm cho chúng tôi hết sức ngỡ ngàng. Vì tuy cùng tộc người và cùng ngôn ngữ, song khi nghe các nghệ nhân Raglai ở Bình Thuận và Ninh Hải_Ninh Thuận hát ca, nói chuyện thì nhóm nghệ nhân ở Khánh Hòa đã không hiểu hết; cách diễn tấu nhạc cụ và trang phục cũng có nhiều dị biệt. Hỏi vì sao thì các nghệ nhân chỉ biết cười và lắc đầu. Đành suy luận,có phải đó chính là hệ quả của quá trình cộng sinh lâu dài của các nhóm tộc người Raglai với các tộc người có nền văn hóa ổn định hơn trong khu vực như Chăm,Êđê chăng? Và có phải vì thế mà có một số nhà dân tộc học chia tộc người Raglai thành Raglai bắc (cư trú tại Khánh Hòa), Raglai nam (cư trú tại Ninh Thuận ) và Raglai (cư trú tại Bình Thuận) chăng? Đặt những câu hỏi trên, chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng, khi nghiên cứu về âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa chúng ta phải làm thật kỹ công tác điền dã và cần thiết phải làm cuộc đối chiếu tay đôi, tay ba với các nền âm nhạc chăm, Êđê và có khi cần phải đối chiếu với cả âm nhạc của tộc người Rai đang ở cách xa với người Raglai ở Khánh Hòa muôn sông ngàn núi.


2. Cũng như hầu hết các dân tộc Tây Nguyên, đời sống văn hóa và tín ngưỡng của người Raglai ở Khánh Hòa luôn có sự gắn bó máu thịt với âm nhạc, trong đó âm nhạc cồng chiêng bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo. Cồng và chiêng là nhạc cụ được pha chê bằng đồng pha với các hợp kim khác như gang, chì, bạc và có khi còn pha với cả vàng nhằm tạo nên âm sắc đẹp và độ vang xa cho tiếng chiêng. Những bộ chiêng quý như thế, ngày nay chỉ còn giữ lại trong những câu chuyện kể của người già về một thời của kí ức.

Từ xưa đến nay, các tộc người Tây Nguyên không tự chế cồng chiêng mà đều đặt mua từ các nước Lào và Campuchia và cả người Kinh và sau đó về chỉnh sửa âm thanh cho phù hợp với tai nghe dân tộc mình rồi đưa vào sử dụng. Căn cứ vào xuất xứ, người Tây Nguyên chia cồng chiêng ra làm ba loại:

– Chiêng Joan-do người Lào chế tác (có khi được mua từ Mianma)
– Chiêng Kur- do người Campuchia chế tác
– Trong đó chiêng Lào được người Tây Nguyên quý nhất.

Từ các đặc điểm chế tác và các tiêu chí âm thanh, các nhà âm nhạc học đã xếp cồng chiêng Tây Nguyên vào loại nhạc khí tự thân rung (Idiphone), loại có núm thì gọi là Cồng, gọi không núm thì gọi là Chiêng. Cách gọi trên có phần áp đặt, bởi vì mỗi dân tộc Tây Nguyên đều có cách gọi tên riêng cho loại nhạc cụ này.

Người Raglai không dùng Cồng mà chỉ dùng Chiêng và họ gọi là Char (phát âm gần giống như “Sa” của tiếng Việt). Trong thực tế người Raglai ở Khánh Hòa cũng có “bộ Char” của mình là “Mã la” theo cách gọi của người Việt. (Sau đây xin gọi Char là Mã la).

Cũng như các dân tộc đồng bào Tây Nguyên, người Raglai không chỉ xem cồng chiêng là nhạc cụ đơn thuần mà nó còn biểu thị sức mạnh tâm linh, là vật thiêng được từng gia đình gìn giữ như bảo vật. Họ tin rằng mỗi chiếc chiêng đều có một vị thần (Yang) trú ngụ. Dàn chiêng càng cổ xưa thì âm sắc càng đẹp thì sức mạnh của tàn càng lớn. Vì vậy, để có được một dàn chiêng quý, thời xưa người Tây Nguyên phải đi thật xa để mua, có dàn phải đổi bằng hàng chục con trâu, có lúc phải đổi bằng voi mới được một dàn chiêng quý. Vì vậy, đối với người Raglai, dàn chiêng không chỉ biểu thị cho sự giàu có và hơn thế nữa biểu thị cho sự giúp đỡ, bảo vệ thần linh đối với người sỡ hữu.

Từ quan niệm trên, dàn cồng chiêng luôn được giữ gìn cẩn thận, nó chỉ được sử dụng trong những ngày trọng đại của gia đình và làng buôn. Mỗi tiếng chiêng vang mang cả lời ước nguyện của cả cộng đồng gởi tới thần linh, và giải thích vì sao cồng chiêng luôn xuất hiện trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng và tâm linh của đồng bào Tây Nguyên. Mỗi điệu chiêng chỉ vang lên trong một không gian văn hóa riêng biệt để bày tỏ ước nguyện riêng biệt đến thần linh. Cho nên chỉ cần tiếng chiêng, người ta có thể biết được ở nơi nào đó xảy ra việc gì. Hồn của chiêng bao giờ cũng cũng gắn với một không gian văn hóa cụ thể. Sự lẫn lộn về bài bản chiêng vì vậy cũng là điều cấm kị.


3. Dàn Mã la của người Raglai có số lượng bao nhiêu chiếc đến nay vẫn còn phải tìm hiểu tiếp tục. Trong các sinh hoạt văn hóa, người Raglai nói chung và người Raglai ở Khánh Hòa nói riêng thường dùng bộ mã la 5 chiếc để diễn tấu độc lập hoặc đi kèm với các nhạc cụ khác hoặc dùng để đẹm them trong các bài nhạc cụ dân ca. Dàn Mã la 5 chiếc của người Raglai ở Khánh Hòa thuộc hệ thống 5 âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù hợp với hệ thống năm âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù hợp với hệ thống thang âm phổ biến của các bài dân ca Raglai. Năm “mặt chiêng” trong bộ Mã la Raglai được lấy tên theo trật tự của một gia đình mẫu hệ và âm chủ của một dàn Mã la là Chiêng mẹ. Tên gọi các mặt chiêng như sau:

a. Char Yna_Chiêng mẹ
b. Char Ato_Chiêng cha
c. Char Malóa_Chiêng con gái lớn
d. Char Dướp_Chiêng con gái thứ
e. Char Pen_Chiêng con gái út

Cách tổ chức và gọi tên cho dàn mã la như trên rất phổ biến ở các Plơi Raglai thuộc hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) và đã được hầu hết những người có hiểu biết ít nhiều về văn hóa Raglai đồng ý. Trong công trình “Trang phục cổ truyền của người Raglai”, tác giả Hải Liên –nguyên chủ tịch hội văn hóa dân tộc tỉnh Ninh Thuận có kể, ông đã từng thấy bà con người Raglai ở Ninh Sơn diễn tấu dàn Mã la 9 chiếc. Bản thân tôi cũng từng đươc nghe một vài người già Raglai bảo rằng, bộ Mã la đầy đủ của Raglai phải có 12 chiếc… Thế nhưng, trong quá trình tìm hiểu âm nhạc Raglai, chúng tôi vẫn chưa được tận mắt thấy được những bộ Char như vậy.

Gần đây – từ ngày 03 đến ngày 05 tháng 09 năm – chúng tôi đã được tham dự Lễ Bỏ Mả do gia đình anh Mấu Xuân Danh (ở xóm 4, thôn dốc trầu, xã ba cụm bắc, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa) tổ chức bỏ mả cho vợ là Cao Thị Bông theo đúng nghi thức cổ truyền. Theo quy định, lễ Bỏ Mả của người Raglai bao giờ cũng phải có dàn Mã la diễn tấu điệuTumaya suốt quá trình tế lễ.

Đội Mã la của xã Ba cụm bắc phục vụ cho lễ Bỏ Mả hôm ấy gồm 9 chiếc chiêng và một chiếc trống da nai (Xa gơ). Khi diễn tấu vòng tròn cùng với chủ nhang, thì đội Mã la được phân bổ như sau: Từ chiếc chiêng thứ nhất, đến chiếc chiêng thứ 6 làm thành cụm đầu, kế đến là chiếc trống đi xen vào giữa, sau đó là 3 chiếc chiêng còn lại đi sau cuối.

Mỗi chiếc chiêng có một tên gọi riêng và đi cùng cặp:

Char Ana (chiêng Mẹ)
Char t’rua (con trai)
Char Pacho 2 (con gái thứ 2)
Char Paloa 1 (con gái thứ 3)
Char Paloa 2 (con gái thứ 4)
Char Pudu 1 (con gái thứ 5)
Char Pudu 2 (con gái thứ 6)
Char Puda (con gái thứ 7)
và chiếc trống Saigor (vai ông).

So sánh với cách tổ chức và tên gọi các mặt chiêng, ta thấy hoàn toàn khác với dàn Mã la 5 chiếc mà lâu nay mọi người vẫn biết. Được biết, ở Ba Cụm Bắc dàn Mã la 9 chiếc chỉ được sử dụng trong khi diễn tấu điệu Tumaya tại lễ bỏ mả. Trong các cuộc sinh hoạt văn hóa và lễ thức khác thì người Raglai ở Ba Cụm Bắc cũng sử dụng dàn Mã la 5 chiếc. xin được nêu ra hiện tượng này để chúng ta cùng suy nghĩ.


4. Mã la của người Raglai được diễn tấu theo hình thức tập thể. Mỗi nghệ nhân đảm trách 1 chiếc, hòa với nhau để tạo nên một diệu chiêng hoàn chỉnh. Người Raglai có khá nhiều điệu chiêng riêng và mỗi điệu dành cho một dịp lễ: Lễ cưới, cuộc vui thì đánh điệu Ru-wo, Lễ Ăn đầu lúa mới thì chơi điệuAto-pa-kruc, điệu Sa-va-lu-o, Lễ Bỏ mã thì phải đánh điệu Tu-ma-ya… Có cả các điệu chơi theo tiếng chim rừng (Ato-pa-ra-vu), chơi theo tiếng gà rừng gáy (Ato-pa-rai-manh), chơi theo tiếng chim cu (Ato-ka-to-rau-ma-nhi). Các điệu chiêng Raglai có điệu chiêng khá rõ nét, tiết tấu vừa phải cho người nghe cảm giác nhẹ nhàng pha chút cảm giác buồn chứ không rạo rực cháy bỏng như các điệu chiêng của các dân tộc anh em Ê-đê vốn cùng chung ngữ hệ. Mỗi điệu chiêng Raglai có độ dài từ 4 đến 8 nhịp 4/4, lặp đi lặp lại nhiều lần và kết bài theo quy định của người giữ chiêng mẹ

Nếu người Ê-đê đánh chiêng trong tư thế ngồi thì người Raglai lại diễn tấu Mã la trong tư thế vừa đi vừa nhún nhảy rất độc đáo. Vì thế mà người Raglai còn gọi cách diễn tấu Mã la là múa Mã la. Đối với người Raglai thì Mã la là nhạc cụ chỉ dành cho nam giới, khi diễn tấu họ không dùng dùi mà dùng bằng tay tạo nên âm thanh dịu dàng, mềm mại. Nhà báo Bảo Trân – trưởng văn phòng đại diện Báo Lao động tại Nha Trang trong một bài viết đã diễn đạt quan niệm người Raglai ở Khánh Hòa về vấn đề này như sau: “Mã la (Char) là đàn bà nên chỉ đàn ông mới hiểu. Đàn ông Raglai dùng phần mềm nhất của bàn tay vỗ nhẹ lên Mã la, âm điệu nhanh chậm và trầm bổng như hơi thở, nhịp tim của mỗi người… Tiếng Mã la bay lên đỉnh núi, tỏa xuống lá rừng, đọng trong sương sớm… kết thành hoa trái”. Tưởng không còn gì hơn để nói.

Khảo sát thực tế, khi diễn tấu Mã la bao giờ các nghệ nhân cũng đi vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ. Điều đó cho thấy các Mã la hình thức dâng cúng thần linh, ông bà chứ không phải là âm nhạc đời thường. Chính vì vậy mà chỉ cần sử dụng Mã la người ta vẫn có thể cúng Yang và các nghệ nhân luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy định về bài tiết diễn tấu trong từng cuộc lễ. Ngày nay, trong quy định truyền thống, các nghệ nhân có thể sử dụng Mã la để phục vụ cho những cuộc hội hè và cả biểu diễn trên sân khấu, nhưng tại các cuộc lễ truyền thống thì những quy định của cha ông vẫn luôn được giữ gìn nghiêm ngặt.


Tiếng Mã la linh thiêng là thế, nhưng phải đang đối mặt với sự mai một từng ngày. Nhiều người già Raglai đã rất buồn khi thấy con em mình ngày càng ít quan tâm các giá trị tâm linh của ông bà. Số thanh niên biết đánh Mã la ở các Ploingày càng ít đi, tiếng Mã la ngày càng thưa dần trong những buổi sinh hoạt cộng đồng. Không ít cuộc lễ của người Raglai dược tổ chức mà không có sự tham dự của đội Mã la. Không gian văn hóa Raglai thiếu tiếng Mã la và ngày càng phổ biến, và đây là vấn đề lớn đang được đặt ra trong công tác bảo tồn và chấn hưng văn hóa dân tộc.

Mã la Raglai

Ninh Thuận: Bảo tồn bộ gõ Mã la của người Raglai
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đã xây dựng kế hoạch truyền dạy mã la cho 2 thôn Cầu Gãy và Đá Hang thuộc huyện Ninh Hải.

Đây là hai thôn có người Raglai cư trú độc lập ở vùng núi khu vực du lịch vịnh Vĩnh Hy, từ lâu đã thất truyền vốn văn hoá văn nghệ dân gian truyền thống, trong đó có văn hoá mã la.

“Mã la”, “mả la” hay “ma la” là cách gọi theo tiếng dân tộc Kinh về nhạc cụ gõ bằng đồng của dân tộc Raglai. Có thể vì loại nhạc cụ này thường được sử dụng nhiều trong lễ bỏ mả (bỏ ma) nên được gọi là ma la, sau này gọi trệch đi thành mã la? Còn người Raglai gọi mã la là “char”, là một loại chiêng không có núm, người Ê đê gọi là chiêng bằng.

Trong vùng đồng bào Raglai sinh sống, hầu như không làng (palei) nào là không có mã la. Theo số liệu điều tra của Sở Văn hóa Thông tin Ninh Thuận, năm 2005, trên toàn 26 xã, 78 palei Raglai ở Ninh Thuận còn 220 bộ, 1772 chiếc mã la. Làng còn nhiều mã la nhất là làng Kamau, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn với trên 30 bộ, 168 chiếc.

Bộ mã la là biểu hiện của một gia đình mẫu hệ Raglai. Mỗi bộ mã la có ít nhất là 2 chiếc (mã la đôi), còn gọi là mã la mẹ – con (Ina – Ana). Bộ mã la 4 chiếc là bộ có 1 mẹ và 3 con (mẹ, con trưởng, con giữa, con út). Nhiều vùng có các bộ mã la 7, 9 hoặc 12 chiếc. Những bộ mã la nhiều chiếc thì có nhiều mã la mẹ: mẹ cả, mẹ hai, mẹ ba và nhiều con. Trong một bộ mã la, 3 chiếc mã la quan trọng nhất có chung tên gọi với thứ bậc khác nhau: mã la Ina mul (mẹ lớn – bà trưởng tộc); mã la Ina Ru wơ (mẹ Ru wơ) và mã la Ana Tuluih (con gái út). Ngoài các mã la “mẹ” ra, trong bộ mã la còn có rất nhiều “con”. Khác với bộ cồng chiêng Ê Đê, cồng lớn có vai trò giữ nhịp cho cả bộ. Còn ở bộ mã la Raglai, chiếc mã la “mẹ” có vai trò giữ nhịp chính để các mã la con hoà theo. Nếu là bộ mã la nhiều mẹ thì mã la “mẹ cả” sẽ đảm nhiệm vai trò này.

Mã la của người Raglai có thể chưa được đặt vào thể loại nhạc cụ chính trong hồ sơ văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng: mã la là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng độc đáo của một trong những dân tộc Tây Nguyên đã tồn tại hàng bao đời nay, phải được đặt nằm chung trong sắc màu văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, cần được nghiên cứu, sưu tầm nghiêm túc để bổ sung cho hồ sơ về văn hóa cồng chiêng ở Việt Nam.

Trước nguy cơ, nhạc cụ mã la của người Raglai cũng như các nhạc cụ gõ bằng đồng khác của các dân tộc miền Trung – Tây Nguyên khác hiện đang nằm trong tình trạng “chảy máu”. Thực hiện chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đã có chính sách trang bị lại nhạc cụ dân tộc cho các thôn, bản người dân tộc thiểu số mỗi khi được phát động xây dựng thôn văn hoá, trong đó có nhạc cụ mã la cho các thôn người Raglai. Gần đây nhất, Sở đã mở lớp dạy Mã la cho người Raglai sinh sống ở hai thôn Cầu Gãy và Đá Hang.

Nghệ nhân Mấu Quốc Tiến – tộc Raglai.

Người giữ hồn sử thi Raglai
Nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến đã hơn 25 năm rong ruổi qua từng thôn làng của người Raglai và ghi lại những câu hát sử thi Raglai. Tài sản quý giá nhất ông có được là 4 bộ sử thi đã được biên soạn, xuất bản và hơn 300 băng ghi âm của 4 bộ sử thi Raglai khác. Ông được mọi người cảm phục, yêu mến gọi là “người giữ hồn sử thi Raglai” của núi rừng Khánh Sơn

Trong không gian tĩnh lặng một chiều tháng 3 ở thung lũng Tô Hạp, huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa), chỉ có tiếng chim và gió rừng lồng lộng, ông Mấu Quốc Tiến cất vang bài ca sử thi của người Rắc Lây (Raglai). Giọng ca tha thiết, từng tiếng ngân nga như đưa người nghe hòa vào không gian mênh mang của núi rừng. “Không để sử thi Raglai rơi dần vào quên lãng”, niềm trăn trở ấy đã thôi thúc nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến hơn 25 năm rong ruổi qua từng thôn làng của người Raglai và ghi lại những câu hát sử thi Raglai. Đến bây giờ, khi tuổi đã ngoài ngũ tuần, tài sản quý giá nhất ông có được là 4 bộ sử thi đã được biên soạn, xuất bản và hơn 300 băng ghi âm của 4 bộ sử thi Raglai khác. Ông được mọi người cảm phục, yêu mến gọi là “người giữ hồn sử thi Raglai” của núi rừng Khánh Sơn.

Miệt mài hơn 25 năm sưu tầm, ông chia sẻ về niềm đam mê ấy: Thế hệ chúng tôi lớn lên cùng lời ru của bà, của mẹ. Lúc đưa nôi, hay nằm trên lưng mẹ lên rẫy, từng tiếng ru dìu dặt, dịu dàng ngấm dần vào tâm hồn, để rồi khi lớn lên những âm sắc ấy vẫn không sao phai nhạt trong tâm trí. Cả cuộc đời qua những năm kháng chiến, hòa bình, hội nhập kinh tế, đời sống đồng bào ngày càng phát triển ấm no, hạnh phúc… tôi chứng kiến và lo ngại là nền văn hóa Raglai ngày càng mai một. Lớp trẻ hôm nay ít quan tâm đến sử thi, những tiếng ru của người Raglai đang bị thay bằng những bài nhạc trẻ…

Để tìm lại lời ru, chuyện kể một thời nuôi lớn tâm hồn mình và bảo tồn sử thi Raglai không để rơi dần vào quên lãng, ông Tiến đã cất công sưu tầm lại những lời ru ấy từ các già làng, các bà, các mẹ. Từ năm 1985, ông Tiến bắt đầu tiến hành việc sưu tầm sử thi Raglai cùng với sự giúp sức của cụ Nguyễn Thế Sang, cụ Trần Vũ (nguyên là cán bộ văn hóa của tỉnh, huyện). Năm 1987, tác phẩm đầu tiên “Bảo tồn chữ viết và văn hóa Raglai” của ông Tiến đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá cao, mở đầu cho một loạt kế hoạch bảo tồn văn hóa Raglai của ông. Năm 1999, phối hợp với Viện Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tác phẩm “Akhàt jucar Raglai” đầu tiên của ông được xuất bản. Trong 10 năm kế tiếp, 3 bộ sách “Udai- Ujàc”,̣ “Amã Chisa – Amã cuvau Vongcơi”,̣ “Awơi nãi tilơr” ra đời. Tổng cộng 4 bộ sử thi được xuất bản dày hơn 10 nghìn trang giấy, viết bằng 2 thứ tiếng Raglai và tiếng Việt. Ông Tiến đã sưu tầm được 8 bộ sử thi, ngoài 4 bộ đã xuất bản thành sách, còn 4 bộ được ghi ở hơn 300 băng thu âm đang nằm ở Viện Nghiên cứu văn hóa Việt Nam chưa được gỡ ra và dịch lại.

Nói về sử thi người Raglai, ông Tiến cho biết đó là những câu chuyện, kể về những anh hùng chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, đấu tranh sinh tồn và chống giặc ngoại xâm. Người anh hùng là những chàng trai vạm vỡ như Udai- Ujàc, là người đội lốt thú như Amã Chisa – Amã cuvau Vongcơi hay là người phụ nữ như Awơi nãi Tilơr đấu tranh chống lại thần rừng, thần biển bảo vệ người dân… Những câu chuyện đấy được truyền từ đời này sang đời khác bằng nhiều âm điệu. Điệu “Siri” dìu dặt kéo dài như lời ru con của các bà mẹ Raglai hát trên đường đi lên rẫy, khi trỉa bắp, trồng mì, hái rau rừng. Điệu “Majêng” ngân nga như lời tâm sự của người mẹ kể cho con nghe khi ru bé ngủ. Điệu “Adoh” với âm tiết nhanh, rộn ràng thường được dùng cho những buổi sinh hoạt cộng đồng, những mùa lễ hội. “Say mê lắm, mỗi lần nhớ về những bài hát ru của mẹ, hình ảnh những anh hùng hiện lên trong trí tưởng tượng của mình. Họ uy nghi, mạnh mẽ làm được những việc phi thường, khuấy động đất trời… Mỗi lần nghe tôi thêm yêu mến vùng đất này, thêm tự hào dân tộc của mình, có được những nét văn hóa đặc sắc”- ông Tiến tâm sự.

Để sưu tầm lại 8 bộ sử thi trên quả không dễ dàng chút nào, với chiếc casset cầm tay, tuần nào ông cũng đến các làng bản để gặp các mẹ, thu lại các bản sử thi qua trí nhớ của họ. Lúc đầu còn nhiều người biết, còn nhiều người nhớ nên việc thu âm còn thuận lợi nhưng những năm gần đây công việc trở nên rất khó khăn. Các bà, các mẹ bây giờ tuổi đã cao, trí nhớ mai một, sức khỏe yếu lắm, rất nhiều người đã khuất núi. Huyện Khánh Sơn chỉ còn 2 bà nắm rõ sử thi Raglai nhưng đều đã yếu rồi.

Gian khổ là thế, nhưng điều làm ông trăn trở là lớp trẻ ngày nay ít người thuộc sử thi của người Raglai. Nếu có biết thì cũng chỉ thuộc được một vài đoạn, có thuộc thì nhiều lúc cũng không hiểu vì có nhiều từ cổ. Để lớp trẻ học được, những đêm bên bếp lửa, ông Tiến lại nghiền ngẫm từng đoạn, từng câu của sử thi. Những đoạn nào hay, sống động ông trích dẫn lại và soạn thành từng tập nhỏ để hát lại cho thế hệ trẻ nghe. Không chỉ là sử thi, để thế hệ trẻ hiểu hơn về văn hóa Raglai, ông còn sưu tầm và dịch ra 2 thứ tiếng Raglai và Việt một loạt các tác phẩm khác được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cấp bằng chứng nhận như: “Truyện cổ Raglai”, “Tri thức bản địa của người Raglai”, “Thành ngữ, tục ngữ Raglai”, “Khánh Hòa diện mạo văn hóa một vùng đất”… Hiện tại ông Tiến còn là người dịch thuật, phụ trách chương trình tiếng dân tộc Raglai ở Đài Phát thanh truyền hình tỉnh Khánh Hòa.

Ghi nhận sự đóng góp của ông Mấu Quốc Tiến cho nền văn học dân gian, đầu năm 2012, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã phong tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian đối cho ông Tiến. Có được vinh dự này, ông Tiến phấn khởi lắm. Mỗi ngày, những bước chân của “Người giữ hồn sử thi Raglai”- Mấu Quốc Tiến lại thêm phần miệt mài hơn. Ông lại rong ruổi khắp thôn làng để tìm, ghi chép, lưu giữ những lời ru của núi rừng với ước muốn làm sao để những Akhàt Jucar, Udai- Ujàc, Amã Chisa – Amã cuvau Vongcơi, Awơi nãi tilơr… không chỉ lưu giữ trên văn bản mà mãi vang lên trên nương, rẫy, trong những đêm bên bếp lửa ấm áp của người Raglai.

Một sử thi Raglai độc đáo

Awơi Nãi Tilơr là một trong những Akhàt Jucar Raglai mà đoàn cán bộ của Viện Nghiên cứu văn hoá Việt Nam phối hợp với nhóm nghiên cứu địa phương sưu tầm được ở Khánh Hoà trong khuôn khổ dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên.

Tóm tắt tác phẩm Awơi Nãi TiLơr
Trong các akhàt jucar, người Raglai thường lấy ngay tên nhân vật chính trung tâm làm tên tác phẩm. Trường hợp Awơi Nãi TiLơr cũng vậy, đây là câu chuyện về nữ nhân vật anh hùng được người Raglai tôn kính như vị nữ thần của họ.

Tác phẩm gồm 54 khúc ca, có thể tóm tắt cốt truyện theo 4 phần chính.
Phần thứ nhất (Từ khúc ca 1 đến khúc ca 10):
Kể về hành trình của Awơi Nãi TiLơr đến xứ Thần Biển Khơi và cuộc hôn nhân giữa ChiGanrưh và ChiGanval với hai công chúa con thần Biển Khơi là Matien và Sa-ien.

Tại một Palơi Raglai ở cõi trần gian nọ, có một người con gái xinh đẹp tuyệt trần lại có tài phép do trời ban cho, đó là Nãi TiLơr. Mồ côi cha mẹ, nàng ở với người chú “chủ cơ ngơi rẫy cũ kho tàng tại nhà tổ mẫu”. Tiếng tăm về tài sắc của Awơi Nãi TiLơr lừng lẫy khắp núi rừng, khắp buôn xa bản gần, vang xa, vang mãi đến tận xứ sở của thần Biển khơi Putau Tuwaq và chúa thần mẫu Via Valìq. Vua thần Biển khơi cùng chúa mẫu lệnh cho thuộc hạ đến nhà Awơi Nãi TiLơr buộc nàng phải tìm cho được trầm hương to bằng đùi, ngà voi cao bằng đầu người để cống nạp, nếu không sẽ dâng nước làm hại dân làng.

Các dũng sĩ Amã Dưh, Tumữh, Chi Ganrưh, Chi Gaval…bèn cấp tốc đem thừng to bằng bắp tay, đem ná và đủ các loại bẫy lên rừng tìm trầm hương, tìm kỳ nam, vây bắt voi giúp nàng Nãi TiLơr. Họ đi hết ngày này sang tháng khác để rồi đều trở về tay không.

Awơi Nãi TiLơr quyết định một mình đi tìm vật lễ. Nàng đi mãi vào rừng sâu gặp thần trầm hương. Sau khi nghe nàng kể, thần thương tình hóa phép cho nàng cây kỳ nam “to bằng đùi”. Awơi Nãi TiLơr tiếp tục tìm đến nơi đàn voi thần thường đi uống nước biển tận xứ Ia Tra. Nàng ra tận cuối con đường, nằm xõa tóc chờ. Thấy người con gái xinh đẹp nằm chắn đường khóc lóc, chúa voi trắng hỏi nguyên nhân mới hay nàng muốn xin ngà trắng “cao bằng đầu” để làm lễ vật. Chúa voi, sau khi căn dặn bầy đàn mọi điều, đã rút cặp ngà trao cho Awơi Nãi TiLơr. Cặp ngà thần vừa rút ra, voi trắng đầu đàn gục xuống, đàn voi cùng nhau đưa xác voi thần vào rừng sâu.

Có đầy đủ lễ vật, Awơi Nãi TiLơr cùng các tráng sĩ Raglai đến xứ sở của vua chủ thần Biển. Sau khi cống nạp, tức giận vì lời nói xúc xiểm xấc xược của hai công chúa con thần Biển là MaTien và Sa-ien, nàng Awơi Nãi TiLơr rút gươm thần thách chém. Thua cuộc, hai công chúa buộc phải đi theo Awơi Nãi TiLơr.

Về đến xứ sở nhà sàn, Awơi Nãi TiLơr tổ chức đám cưới cho hai nàng công chúa nên duyên chồng vợ với hai dũng sĩ của mình là ChiGanrưh và ChiGanval. Ban đầu MaTien và Sa-ien không chịu nhưng khiếp sợ trước lưỡi gươm của Awơi Nãi TiLơr hai nàng buộc phải bằng lòng.


Đám cưới được tổ chức xong phần lễ đến phần hội. Awơi Nãi TiLơr sai người đến nhà chứa bông dệt vải mời hai chàng Chiyàc và Chijaràc ra chung vui. Nghe đầu đuôi câu chuyện, hai chàng trai này muốn đích