1. Vài Nét Về Dân Tộc Tà Ôi
Dân số: 43.886 người
Ngôn Ngữ: Người Tà Ôi nói tiếng Tà Ôi, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, gần gũi với ngôn ngữ Ka Tu (Cơ Tu) và Bru (Vân Kiều)
Tên gọi khác: Tôi Ôi, Pa Cô, Ba Hi hay Pa Hi
Nhóm địa phương: Tà Ôi, Pa Cô, Ba hi
Địa bàn cư trú: Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Thanh Hóa, Quảng Nam
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tà Ôi ở Việt Nam có dân số 43.886 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Tà Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh: Thừa Thiên-Huế (29.558 người, chiếm 67,35% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam), Quảng Trị (13.961 người, chiếm 31,81% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam), Thanh Hóa (37 người), Quảng Nam (33 người)
2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng Trọt
Dân tộc Tà Ôi sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy- nương rẫy đa canh và du canh, theo phương thức canh tác cổ truyền là: phát cây, đốt rẫy, trỉa hạt. Riêng nhóm Pa Hi có làm thêm một số ít ruộng nước, nhưng nguồn lương thực chính và hoa màu quan trọng, vẫn là sản phẩm từ trồng trọt trên nương rẫy. Cây lương thực chính là cây lúa nương, cây ngô. Trước đây đồng bào Tà Ôi trồng một vụ lúa nương – vụ mùa vào mùa hè thu (từ tháng tư đến tháng 11). Từ giữa nửa cuối của thế kỷ trước, đồng bào làm thêm vụ rẫy chiêm, gieo trồng vào tháng 2, thu hoạch vào tháng 7. Trong vụ mùa, đồng bào chuyên gieo trồng các giống lúa cổ truyền và trồng xen canh là các loại cây ngô, môn và các loại cây gia vị. Với vụ chiêm, đồng bào trồng lúa ba giăng và trồng xen canh. Với lúa ba giăng trong vụ chiêm là ngô, sắn, bầu bí, dưa, môn. Ruộng nước có xu hướng phát triển, nhất là những nơi gần nguồn nước, gần sông A Sáp.
Người Tà ôi trên rẫy (Ảnh minh họa)
Trên ruộng nước, mỗi năm đồng bào cấy hai vụ, với giống lúa mới, cho năng suất cao. Công cụ sản xuất chủ yếu vẫn là con dao, chiếc cuốc, gậy chọc lỗ và những con dao cũ, cùn được bẻ ngoặt đề như cái cào. Việc dùng cày, kể cả làm ruộng nước vẫn còn rất hiếm thấy. Nhìn chung, trong quá trình phát triển có nhiều tác động từ bên ngoài và những tác động đó đang có ảnh hưởng nhất định đến xu hướng phát triển của dân tộc Tà Ôi.
Người Tà Ôi là cư dân sớm có nghề làm vườn. Mỗi gia đình đều trồng một số loài cây ăn quả như mít, dứa, cam, bưởi, muỗm trong vườn gần nhà. Nghề làm vườn không chỉ tận dụng được lao động người lớn tuổi, trẻ em, mà còn tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình.
2.2. Chăn nuôi
Người Tà Ôi có truyền thống chăn nuôi trâu, bò, lợn. dê, gà… Đồng bào chăn nuôi trâu không để làm sức kéo, mà chủ yếu làm vật tế sinh cúng Giàng và sau đó là bán xuống miền xuôi hoặc bán sang nước Lào. Trâu, bò nuôi theo phương thức chăn thả vào trong rừng. Lợn, gà cũng được nuôi phổ biến trong từng gia đình. Mục đích nuôi là vừa làm vật hiến sinh thờ cúng, vừa làm nguồn thức ăn cho gia đình trong những ngày lễ tết, những dịp hội hè, lễ tiết.
Chăn nuôi vẫn là nghề phụ thuộc, chưa tách thành ngành nghề độc lập, nhưng nó được tính là một nguồn lực kinh tế quan trọng, cho những nhà nào chăn nuôi nhiều đại gia súc được coi là nhà giàu có, có vị thế trong quan hệ cộng đồng, xóm giềng.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống ở miền Tây tỉnh Thừa Thiên – Huế và Quảng Trị, là vùng rừng núi, đồng bào Tà Ôi hết sức tận dụng khai thác các sản vật từ núi rừng. Đó là nấm khô, măng tươi, song, mây, mật ong rừng, các loại thảo dược. Đồng bào khai thác những sản vật này vừa để sử dụng như một nguồn thu phẩm quý giá, vừa để trao đổi, bán cho khách hàng ở ngoài chợ.
2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề dệt của người Tà Ôi (Ảnh sưu tầm)
Sinh sống bằng kinh tế tự túc, tự cấp, thì ngành nghề thủ công đương nhiên ít nhiều cũng cần và phát triển nhằm phục vụ cho nhu cầu gia đình. Trong dân tộc Tà Ôi, có hai nghề thủ công tương đối phát triển là nghề đan lát mây tre và nghề dệt vải, nghề rèn, nghề gốm. Đan mây tre là công việc của đàn ông, đồng bào đan những đồ gia dụng như giần, sàng, rổ giá, gùi, bồ đựng
thóc, ngô và các nông sản khác. Phụ nữ có làm nghề dệt, nhưng nghề dệt có xu hướng ngày càng giảm, do những khó khăn về kỹ thuật cũng như mẫu mã không cạnh tranh được với hàng xuôi và hàng từ Lào sang bán. Nghề rèn, nghề gốm trước đây khá phát triển, nhưng về sau cũng rơi vào tình trạng tương tự.
2.5. Trao đổi mua bán
Người Tà Ôi có quan hệ giao lưu buôn bán tương đối phát triển, nhất là ở huyện A Lưới. Đây tuy là vùng rừng núi, nhưng giao thông tương đối thuận tiện, có đường quốc lộ 49 chạy từ thành phố Huế lên thị trấn A Lưới, rồi đi một đoạn ngắn nữa là sang Lào. Ở thị trấn A Lưới – nơi địa bàn giao lưu hàng hoá giữa Lào và tỉnh Thừa Thiên – Huế, luôn có hàng xuôi xuống vùng đồng bằng và có hàng chuyển sang bên Lào. Còn người Tà Ôi có một số mặt hàng lâm sản được đem bán ở chợ như: nấm khô, măng tươi, ớt sấy, song, mây, các loại lâm sản có tính dược. Bán thuốc lá là nét độc đáo của người Tà Ôi ở chợ A Lưới. Đồng bào Tà Ôi ra chợ thường hay mua các mặt hàng công cụ sản xuất bằng sắt, mua đồ, mắm, muối, sành sứ, trâu giống. Chính sự hoạt động buôn bán nhộn nhịp ở chợ A Lưới đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế cũng như tư duy kinh tế của đồng bào Tà Ôi.
3. Văn hóa truyền thống
3.1. Làng
Làng của người Tà Ôi có cấu trúc hình tròn, cấu trúc làng này mang tính tương đối phổ biến ở cư dân Bắc Trường Sơn. Kiểu làng là hình tròn, giữa làng là nơi dựng nhà công trình công cộng – nhà gươl, nơi sinh hoạt chung của dân làng. Một nguyên tắc dựng nhà ở trong làng là đòn nóc các nhà đều hướng vào trung tâm (nhà gươl), nhưng không đâm vào nhau. Tuy nhiên cũng có trường hợp làng không theo hình tròn, mà là hình chữ nhật, hình móng ngựa, hình đường phố. Những trường hợp làng hình chữ nhật, hình móng ngựa thường không có nhà gươl, mà giữa làng là một cây nghi lễ để làm lễ đâm trâu của làng.
Trong mỗi làng Tà Ôi có một kruông wel – đất làng, bao gồm đất ở, đất làm rẫy và núi rừng để săn bắn, hái lượm cũng như khai phá rẫy mỗi khi có nhu cầu. Phạm vi đất làng được xác định bằng các mốc tự nhiên như một con đường, một cái đèo, một gốc cây cổ thụ, một chỗ ngoặt. Ranh giới giữa các làng được mọi người dân trong làng cũng như các làng lân cận biết rõ, tuy không có văn bản quy định, mà chỉ truyền miệng. Phạm vi đất làng thuộc chủ quyền của làng và coi như bất khả xâm phạm. Trong phạm vi đất làng, người dân có thể du canh, luân canh. Mỗi khi du canh, đồng bào thường làm chòi – su ở gần rẫy để tiện cho sản xuất và bảo vệ mùa màng khi vụ thu hoạch đến. Chòi đi theo rẫy là có tính tạm thời, còn nhà ở chính thức thì thường cố định hàng chục năm. Chỉ khi nào rẫy du canh quá xa nhà ở, có thể mới tính đến dời làng đó đi tìm đất dựng làng ở nơi khác.
Trong làng còn có sân làng và ngôi nhà rông là những cơ sờ vật chất chung của làng. Đây là nơi gặp gỡ vui chơi hàng ngày của người già và trẻ nhỏ; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt nghi lễ của cộng đồng làng. Các nghi lễ tôn giáo của làng đều được thực hiện tại ngôi nhà rông. Mọi người dân trong làng đều có trách nhiệm đóng góp và tham dự.
Ngôi nhà rông của người Tà Ôi cũng như ngôi nhà rông của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên, có chức năng làm nơi thờ cúng các vị thần linh chung của làng, tiếp khách chung của làng, làm chỗ ngủ cho các chàng trai chưa vợ và những người đàn ông góa bụa. Một số làng của nhóm Cô, Pa Hi không có nhà rông, thì chức năng thờ cúng được thực hiện như một miếu – parông. Miếu thường được làm trong rừng sâu, phía sau làng, gần đầu nguồn nước; hoặc ở cái lễ đàn được dựng ở giữa sân làng dùng cho hiến sinh trâu. Lễ đàn luôn được trang trí đẹp với yêu cầu thẩm mỹ cao. Khách chung của làng thì được tiếp ở gian chung – mong của ngôi nhà dài lớn.
Mỗi làng Tà Ôi là một đơn vị tự quản. Cư dân sinh sống trong làng thuộc về nhiều dòng huyết thống khác nhau. Mỗi dòng huyết thống sống trong nhiều ngôi nhà. Mỗi ngôi nhà có một người đứng đầu. Những người đứng đầu ngôi (nóc) nhà hợp thành bộ máy quản lý mọi công việc chung của làng. Trong bộ máy này có phân công công việc cho từng cá nhân, nhưng từng người vẫn tự lao động kiếm sống hàng ngày.
3.2. Nhà ở
Người Tà Ôi nói chung ở nhà sàn. Tuy nhiên có nhóm Pa Hi thì lại ở nhà đất. Một trong những nét đặc thù của nhà ở người Tà Ôi là mái hai đầu hồi có hình trỏn và trên mái, nơi tiếp giáp đầu đòn nóc với mái đầu hôi, đều có “khau cút”. Loại nhà có mái dầu hồi tròn là đặc trưng kiến trúc nhà ở của nhiều dân tộc nói ngôn ngữ Môn – Khmer ở miền Nam Việt Nam và Trung Đông Dương. “Khau cút” trên đầu hồi của nhóm Tà Ôi, có nét đặc trưng khác với các nhóm khác trong cùng dân tộc, là “khau cút” bằng gỗ, có hai hình đầu chim cu – age aku. Người Tà Ôi quan niệm rằng, chim cu là hình tượng tình yêu quê hương và tâm tính hiền hoà của dân tộc.
Nhiều nguồn thông tin cho hay, đến giữa thế kỷ XX ở vùng dân tộc Tà Ôi vẫn còn bóng dáng những ngôi nhà dài. Sách báo có đề cập đến ngôi nhà dài nhất, chứa đựng đến 50 cặp vợ chồng, cùng một nguồn gốc tổ tiên tính theo dòng cha. Trong ngôi nhà dài đó có một số cặp vợ chồng cùng con cái làm riêng, ăn riêng. Những gia đình còn lại, làm chung, ăn chung, dưới sự điều hành và quản lý của cặp vợ chồng gia trưởng. Ngôi nhà dài của cụ Hồ Rí ở A Roàng, huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên – Huế, dài đến một trăm mười tám mét, tồn tại đến năm 1992.
Nguyên vật liệu làm nhà của người Tà Ôi là gỗ, tre, nứa, lá, dây rừng để buộc. Đây là nguyên liệu thu hái tại chỗ, không mất tiền mua, mà chỉ mất công vào rừng kiếm lấy. Những ngôi nhà của dân tộc Tà Ôi cũng được dựng bằng kỹ thuật thủ công đơn giản, tận dụng cây thẳng, cây có ngoãm để làm xà, làm cột. Công cụ làm nhà chủ yếu là con dao, chiếc rìu. Không có thợ chuyên, là đàn ông, ai cũng có thể tham gia làm một công việc nào đó cho ngôi nhà.
3.3. Y phục, trang sức
Trang phục cổ truyền của người Tà Ôi cũng như trang phục cổ truyền của nhiều dân tộc Tây Nguyên, nhìn chung là đơn giản về kiểu dáng, mẫu mã, nhưng lại thiên về làm đẹp bằng cách trang trí hoa văn. Bộ y phục của nam giới gồm có một cái khố, một cái áo, và một tấm choàng. Bộ y phục cho phụ nữ gồm một cái váy với nịt lưng và một cái áo. Áo của nam và áo của nữ Tà Ôi đều cắt theo kiểu chui đầu, xẻ trên vai để chui đầu qua khi mặc. Áo nữ, thông thường không có tay áo. Nhóm người Pa Cô có tập tục, khi con gái chưa lấy chồng thì mặc váy dài quá đầu gối còn khi có chồng thì mặc váy ngắn ngang đầu gối hoặc trên đầu gối một chút. Tấm choàng được sử dụng khi thời tiết se lạnh. Tấm choàng thường có màu đỏ, còn váy, áo có màu nên là màu xanh chàm, nhưng trên đó có những mô típ hoa văn trang trí là những đường chỉ sọc đỏ.
Người Tà Ôi thường sử dụng hai hình thức trang sức: đeo đồ trang sức và xăm trên người. Những đồ trang sức đeo trên người Tà Ôi có bông tai bằng xương động vật hay bằng ngà voi. Bông tai có hình chóp nón cụt, có đường kính to, làm tai căng rộng. Đồng bào quan niệm người có tai to căng, xệ xuống là tai đẹp, là người phúc hậu. Đồ trang sức đeo còn được đeo ở cổ. Đeo ở cổ là những dây mã não màu nâu trong, chuỗi hạt cườm nhiều màu quấn thành nhiều vòng. Đeo ở cổ tay, cổ chân là những vòng bằng kim loại. Loại vòng chất liệu bằng đồng thau vừa là vật trang sức, vừa có ý nghĩa sự cam kết không chỉ ở dân tộc Tà Ôi, mà còn thấy ở nhiều dân tộc khác cư trú ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên
Xăm mình là hình thức trang trí được thực hiện ngay trên cơ thể con người. Hình thức trang trí bằng xăm mình không phổ biến cho tất cả mọi người. Chỉ có một số người dùng hình thức xăm để trang điểm Người ta thường xăm trên trán, trên lông mày, ở hai gò má, môi trên, môi dưới, cằm, cổ và có thể ở nhiều chỗ khác thuộc nửa trên của thân. Các mô típ xăm thường thấy là hình ngôi sao 5 cánh, hình mặt trời ở ngực nam giới; hình chữ vạn ở trên trán và má người phụ nữ; hình vuông và hình người cách điệu hoá ở trên trán nam giới.
Cũng thực hiện trang trí trên cơ thể, người Tà Ôi có tục cà răng. Trước đây, thanh niên nam, nữ hay cà 6 răng cửa thuộc hàm trên. Cà răng được thực hiện khi con trai, con gái bước vào tuổi dậy thì, đánh dấu là người đã trưởng thành, về mặt xã hội, sau cà răng được cộng đồng dan tộc đánh giá cao, có quyền tham gia công việc của cộng đồng với tư cách là người lớn, người trưởng thành.
Tục xăm mình và cà răng đã lùi sâu vào quá khứ, nó chỉ còn tồn tại dưới dạng ký ức của lớp người cao tuổi.
3.4. Ẩm thực
Người Tà Ôi ăn cơm là chính. Cơm có cơm nếp và cơm tẻ. Gặp khi mùa màng thất bát, đồng bào ăn ngô, hoặc độn thêm khoai, sắn. Thức ăn thực vật thường ngày là rau rừng kết hợp với rau trồng trong vườn nhà. Ngoài ra đồng bào cũng hay ăn cá khô, mua ở chợ A Lưới, do thương gia từ dưới đồng bằng mang lên. Thức ăn có nguồn gốc động vật còn có các loại thịt trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt. Thịt trâu băm nhỏ trộn muối ớt, tỏi nhét vào ống lồ ô để vài ba ngày đem ra ăn được đồng bào ưa thích.
Bánh sừng của người Tà Ôi (Ảnh sưu tầm)
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Tà Ôi sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng
3.6. Ngôn Ngữ
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
Tiếng nói: Tiếng nói của người Tà Ôi thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á. nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Ngôn ngữ của người Tà Ôi cũng như ngôn ngữ dân tộc khác trong nhóm này, có một vốn từ đặc thù, khác với vốn từ của các dân tộc Môn – Khmer ở phía Nam, điển hình là các số đếm từ 5 đến 9.
Chữ viết: Người Tà Ôi trong lịch sử chưa có chữ viết riêng.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Tà Ôi tin theo đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật đều có linh hồn – thần linh. Các thần linh đều có tên gọi chung là giàng. Có nhiều loại giàng khác nhau như: giàng núi rừng, giàng sông suối, giàng đất làng. Người ta thờ giàng ở trong nhà rông của làng, hoặc trong một miếu trong rừng. Các giàng này, mỗi năm được cúng một lần bằng trâu. Nghi lễ này được gọi là a riêu giàng sự, do người đứng đầu làng làm chủ lễ.
Người Tà Ôi quan niệm người sống là có xác và có vía. Mỗi người sinh ra được cha mẹ cho một cái bát làm vật ký thác cho cái vía đó. Trong nhà có bao nhiêu người thì hiện diện bấy nhiêu cái bát. Con gái đi lấy chồng, đem theo bát của mình về nhà chồng, ở mỗi gia đình, các bát vía đều được tập trung thờ ở một bàn thờ đan bằng tre. Bàn thờ đó gọi là war. Chính vì vậy, vía còn được gọi bằng cái tên là giàng war.
Theo quan niệm của người Tà Ôi, cây lúa, cây ngô và các của cải khác cũng đều có giàng. Giàng sro là hồn lúa; giàng panuôl là hồn của các của cải, là hồn của những vật ký thác được thể hiện qua những hòn đá có hình thù kỳ lạ như hình người, hình con vật. Việc thờ cúng các giàng trên là việc của từng gia đình do người đàn ông đứng đầu gia đình chủ trì. Các hòn đá ký thác của thần được đựng trong một cái “sọt thờ”- (hay knih). Sọt này được treo ở đầu giường người đàn ông chủ nhà. Ở nhiều vùng người Pa Cô, vật ký thác còn gồm cả sừng nai, răng cọp.
Giàng sro – thần lúa của người Tà Ôi là nữ thần. Các vật ký thác của thần là váy, áo và đồ trang sức cho đàn bà. Việc thờ cúng hồn lúa cũng là việc của từng gia đình, nhưng do đàn bà đứng đầu gia đình chủ trì. Các gruh đựng những vật ký thác của thần được treo ở đầu giường người chủ sự – người mẹ lúa, trên một cái cột thiêng tại góc nhà. Hàng năm, người Tà Ôi có hai kỳ làm lễ cúng thần lúa: một là lễ apiêr tổ chức vào thời điểm cây lúa mọc cao bằng chiều dài ngón tay, để cầu mong cho cây lúa sinh trưởng được tốt; hai là lễ aja tổ chức vào thời kỳ thu hoạch lúa, cầu mong thu hái được trọn vẹn và cũng là để tạ ơn thần lúa. Trong hai lễ này, thì lễ aja được tổ chức quy mô lớn hơn và nhiều nghi thức đáng quan tâm hơn.
Nghi thức cúng lễ aja chia làm hai phần: phần thứ nhất cúng ở rẫy; phần thứ hai cúng ở trong làng. Nghi lễ thứ nhất cúng ở rẫy được thực hiện vào một buổi sáng sớm ngày đã chọn trước để bắt đầu suốt lúa đàn là một cái vòm kết bằng 4-5 khóm lúa ở chân rẫy của hai ba hàng lúa được chọn, là những cây lúa có bông mây hạt nhất. Các vật ký thác của hồn lúa và lễ vật được bày ra tại lễ đàn. Chủ lễ là người phụ nữ đứng đầu gia đình. Sau khi khấn lễ xong, chủ lễ suốt những nhánh lúa đầu tiên, sau đó những người trong gia đình đi theo mới được bắt đầu suốt. Người Tà Ôi có tập quán suốt lúa từ chân rẫy lên đầu rẫy. Phần thứ hai cúng tại trong làng. Trong lễ này người ta tổ chức một lễ hiến sinh lớn ở từng gia đình. Cả làng cùng tổ chức trong một ngày. Tại nghi lễ này, vật ký thác cũng được bày ra, đồng thời thêm vào đó một số bông lúa mây hạt nhất mới thu hoạch về. Người chủ trì nghi lễ cúng vẫn là người phụ nữ chủ gia đình. Đây là nghi lễ cuối cùng của một chu kỳ nương rẫy.
3.8. Lễ hội
Lễ mừng nhà mới của người Tà Ôi được tiến hành với một cây nêu cao được dựng lên trước cửa nhà; thầy cúng, đội cồng chiêng và rất đông đồng bào Pa Coh tham dự lễ cùng nhau nhảy múa trên nhà, dưới đất, trảy lửa đuổi ma quỷ để gia cư được yên ổn, người nhà an tâm làm ăn.
Lễ mừng nhà mới của người Tà Ôi
(Ảnh sưu tầm)
Sau lễ mừng nhà mới là lễ Cúng nhà mồ với rất nhiều các nghi lễ như: lễ hiến tế, lễ đâm trâu hoặc dê, lễ đưa Mả vào lăng, lễ Cầu kết… tất cả đều do thầy cúng điều hành. Lễ hội Ariêu Ping của người Tà Ôi đã có từ lâu đời và được duy trì cho đến tận ngày nay. Đây là một lễ hội bao hàm tổng thể cả đời sống văn hoá lẫn tâm linh. Người Tà Ôi quan niệm, xung quanh đời sống của họ luôn có các linh hồn song song tồn tại. Bởi vậy, Lễ hội Ariêu Ping được tổ chức nhằm tưởng nhớ và tỏ lòng tôn kính đến những người đã khuất, khơi dậy những nét đẹp văn hóa truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào từ xa xưa.
Lễ hội Ariêu Ping không được ấn định niên hạn tổ chức cụ thể, thường đến mười năm mới tổ chức một lần căn cứ vào điều kiện đời sống và kinh tế của các hộ gia đình trong làng bản. Địa điểm tổ chức tuỳ thuộc vào sự bố trí của già làng đối với những thôn có nhiều mặt thuận lợi và đảm bảo việc đi lại của những người tham dự lễ hội…
Một số hình ảnh tại Lễ mừng nhà mới và lễ hội Arieuping của dân tộc Tà Ôi
Đầu tiên, đồng bào làm chung một ngôi nhà ở trung tâm để mời các già làng, trưởng bản lân cận, những vị khách quý tham dự lễ đến ở trong suốt thời gian lễ hội. Tiếp đó, các nghi lễ thờ cúng sẽ diễn ra theo phong tục của đồng bào Tà Ôi. Mọi người tham gia lễ hội nhảy múa xung quanh nhà mồ cho đến khi lễ hội kết thúc.
Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa truyền thống cũng được tổ chức, đặc biệt là lễ hội đâm trâu – một nghi lễ quan trọng để cúng tế thần linh, khấn cầu cho bản làng yên vui, đoàn kết, tương thân tương ái…
Có thể nói, lễ hội Ariêu Ping đã trở thành một nét văn hóa độc đáo trong tiến trình phát triển của dân tộc Tà Ôi ở Quảng Trị. Đây là một hình thức giáo dục nhằm chuyển giao cho các thế hệ sau biết kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dòng tộc. Đồng thời, lễ hội còn thể hiện nét văn hóa tâm linh, sự tôn kính, hiếu nghĩa của người sống đối với người đã khuất góp phần khơi dậy truyền thống hiếu nghĩa, đoàn kết gắn bó bền chặt trong cộng đồng làng bản.
3.9. Văn nghệ dân gian
Dân tộc Tà Ôi có một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú: gồm các thể lại văn học, các loại hình nghệ thuật. Đáng chú ý là bộ nhạc cụ bao gồm dàn cồng chiêng, nhạc cụ thổi và nhạc cụ dây. Đàn cồng chiêng của người Tà Ôi được sử dụng chủ yếu trong lễ hiến sinh cúng giàng. Mỗi dàn gồm 6 cồng chiêng có núm và 6 tala- chiêng băng và một chagor – trống lớn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, bộ cồng chiêng của người Tà Ôi và bộ cồng chiêng của các dân tộc Bru – Vân Kiều và dân tộc Cờ tu láng giềng rất giống nhau, nhưng lại rất khác nhau ở tiết tấu âm nhạc. Chính vì vậy, nếu nhìn hiện vật bộ cồng chiêng rất khó phân biệt là của dân tộc này hay dân tộc nọ, nhưng khi nổi hồi cồng chiêng lên thì ta nghe tiết tấu hoàn toàn khác nhau. Bộ nhạc cụ thổi và nhạc cụ dây cũng có nét tương tự như bộ cồng chiêng là rất giống nhau với bộ nhạc cụ của dân tộc láng giềng (Bru – Vân Kiều, Cơ Tu). Đó là cây đàn hai dây chcim preh, cây đàn một dây – ndro kéo băng cân; đó là những chiếc kèn môi – I awơt, những ống sáo areng dành riêng cho phụ nữ thổi.
3.10. Gia đình, dòng họ
Hình thái gia đình nhỏ phụ hệ là hình thái gia đình mang tính phố biến. Trong gia đình người Tà Ôi, quyền thừa kế tài sản thuộc về con trai. Người con trai trưởng có trách nhiệm chủ trì các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và được ưu tiên ở nhà gốc – nhà của bố mẹ để lại. Khi còn ở nhà dài, thì con trai cả được ở gian sát với gian chung; em trai kể ở gian cuối của ngôi nhà; các em trai khác ở các gian giữa.
Trong quan hệ gia đình của người Tà Ôi, vai trò ông cậu – anh hoặc em trai của mẹ, có vai trò quan trọng trong việc tổ chức cưới xin cho các cháu – con của chị hoặc em gái của mình. Đối với cháu trai – con của chị hoặc em gái, ông cậu là người bán con gái mình cho nó; còn đối với cháu gái – con của chị hoặc em gái, ông cậu là người đứng ra gả chồng cho chúng. Theo phong tục người Tà Ôi, mỗi khi có việc gả chồng cho cháu gái ông thường được hưởng một phần tiền cưới.
Gia đình người Tà Ôi là gia đình nhỏ phụ quyền. Trong gia đình, người cha có quyền hành lớn giải quyết các công việc như sản xuất, làm nhà mới, tổ chức cưới xin, giao tiếp họ hàng, giao tiếp cộng đồng. Khi người cha mất đi, những điều đó thuộc về trách nhiệm người con trai cả.
Khi dựng vợ, gả chồng rồi, đôi vợ chồng trẻ đều tách ra ở riêng để sớm có cơ hội gây dựng một cơ ngơi riêng cho mình và hơn nữa cũng muốn khẳng định mình trong dòng tộc và trong cộng đồng.
Tuy nhiên đến giữa thế kỷ XX, ở dân tộc Tà Ôi vần có bóng dáng của đại gia đình. Đại gia đình thường có 4 – 5 thế hệ cùng sinh sống trong một ngôi nhà dài. Trong gia đình này chỉ có những người có quan hệ huyết thống tính theo dòng cha cùng sinh sống với nhau.
Về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, có sự khác nhau giữa các thành viên trong gia đình lớn và các thành viên trong gia đình nhỏ… Trong đại gia đình, quan hệ giữa các thành viên chủ yếu là quan hệ có tính chất quan hệ dòng họ; còn quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nhỏ phụ hệ chủ yếu là quan hệ huyết thống trực hệ, bao gồm quan hệ vợ chồng, quan hệ bố mẹ và con cái.
3.11. Tục lệ cưới xin
Người Tà Ôi thực hiện hôn nhân ngoại dòng tộc. Nghiêm cấm những người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau. Người Tà Ôi quan niệm, những người cùng một tổ tiên theo dòng cha là cùng một họ. Đã cùng một tổ tiên chung thì không được có quan hệ tình giao với nhau. Vi phạm quy định này là loạn luân – agam. Hôn nhân của người Tà Ôi là hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Nếu có trường hợp lấy hai vợ cũng là những trường hợp ngoại lệ, chứ không phải là thông lệ. Cho nên dư luận cộng đồng thường chê trách những người đa thê.
Sau hôn nhân, người phụ nữ Tà Ôi phải về cư trú bên nhà chồng. Tục lệ cô dâu sang cư trú bên nhà chú rể sau hôn nhân là tiền đề, nhà trai phải trả cho nhà gái một khoản tiền đền bù thường là rất cao. Tục lệ cưới xin của người Tà Ôi gồm hai nghi lễ chính: nghi lễ thứ nhất là aboh – đập bếp và nghi lễ thứ hai là pei blô – mua cái đầu. Trong nghi lễ thứ nhất, nhà trai đưa đến nhà gái một phần tiền cưới; trong nghi lề thứ hai, nhà trai thanh toán nốt số tiền cưới còn thiếu.
Đi Sim (Ảnh sưu tầm)
Theo phong tục dân tộc Tà Ôi, trai gái đến tuổi dậy thì phải nhuộm răng, xâu tai, được tự do tìm hiểu người bạn đời. Họ có thế gặp nhau trên nương, trong các dịp hội hè, lễ hội,… Nhưng hình thức tìm hiểu mang nét đặc trưng của dân tộc Tà Ôi (cả người Cờ tu và Bru – Vrtn Kiều) là tục đi “sim”. Theo tục lệ này, thông thường vào các buổi tối tuần trăng sáng, các chàng trai – la lâu và các cô gái – cu môr, theo nhau vào rừng hoặc đến các nhà xu để trò chuyện thổ lộ tâm tình. Có khi họ tự động tập hợp lại thành tốp dăm, bảy người hay đông hơn lũ lượt từ làng này sang làng khác, để hò hẹn, tìm gặp nhau trò chuyện tình cảm. Đây hoàn toàn là một sinh hoạt lành mạnh, một nét đẹp. độc đáo trong văn hoá của người Tà Ôi. Buổi đầu đi sim, lúc nào cũng là đi tập chuyện tập thể, hát tập thể, nhưng khi có đôi nào đó “phải lòng nhau thì họ tự động tách ra thành đôi riêng lẻ, trò chuyện riêng tư. Khi đi sim. khi hát, các chàng trai, cô gái thường sử dụng nhạc cụ: sáo, đàn ta lư, kluII bè (một loại nhạc cụ của người Lào) với âm thanh rộn ràng, lôi cuốn. Ngoài ra, trong lúc đi sim, họ còn sử dụng các nhạc cụ như: krào, chiêng thích hợp với lối nói a cặm – lối nói bóng gió, một lối nói phổ biến và được ưa chuộng trong các cuộc đi sim. Trai gái Tà Ôi nhận biết các tín hiệu ngôn ngữ tình yêu qua các nhạc cụ này rất giỏi. Sau mỗi buổi đi sim, người con trai thường tặng cho người con gái những kỷ vật như: vòng hạc, chuỗi hạt cườm, hoặc một ít tiền. Nếu cô gái nhận kỹ vật đó có nghĩa là ngấm ngầm hẹn ước với chàng trai; còn nếu từ chối có nghĩa là không chấp nhận tiếp tục gặp lại nữa. Những kỷ vật mà cô gái nhận từ chàng trai, nếu vì một lý do nào đó, đôi trai gái không thành vợ chồng thì cô gái sẽ tìm cách hoàn lại. Cũng theo tập quán dân tộc, người Tà Ôi trong một thời điểm có thể làm quen, tìm hiểu nhiều đối tượng khác nhau. Bởi vì chỉ có vậy, họ mới tìm được cho mình một người tình lý tưởng – cà răm.
Qua các cuộc đi sim, khi đôi trai gái thực sự yêu nhau, chàng trai về nhà báo cho bố mẹ biết. Thông thường, bố mẹ chàng trai hoan nghênh tình yêu của con cái và nhờ ông mai bà mối – kanlrana đánh tiếng cho nhà gái biết. Kanlrana thường là ông cậu của chàng trai. Kanlrana có vai trò rất quan trọng, thay mặt nhà trai đi lại thăm hỏi nhà gái nhiều lần. Mỗi lần đến thăm nhà gái, nhất thiết phải có một món quà “tình cảm” nho nhỏ như: con gà, cân nếp, chai rượu. Trong đám cưới kanlrana là chủ hôn.
Khi được sự nhất trí hai bên gia đình, nhà trai sẽ tiến hành làm lễ ăn hỏi – poộc plô cam pav, lễ bỏ của – dò văn chính thức. Đoàn nhà trai đi ăn hỏi gồm có: người làm mối – kanlrana, chủ làng – ariay cầm kiếm bạc, bố đẻ chàng trai – a ăm, trưởng họ – xuất mu và em gái bố mang gánh đồ đạc của cải. Đoàn ăn hỏi nhà trai sẽ gặp chủ làng, trưởng họ, bố và ông cậu của cô gái bàn bạc thống nhất hai nội dung quan trọng là: ngày cưới và số của cải tiền bạc mà bên nhà trai sẽ trao cho nhà gái trong ngày cưới. Sau lễ ăn hỏi, quan hệ đôi trai gái được cả dòng họ thừa nhận là đã dính hôn, chỉ còn chờ lễ cưới chính thức.
Lễ cưới: Theo tập quán, người Tà Ôi không chờ làm xong lễ cưới nàng dâu mới về nhà chồng, mà cô ta có thể về nhà chồng ngay sau khi hai bên cha mẹ thoả thuận xong khoản tiền cưới. Sau khi ở nhà chồng khoảng 5-7 ngày, cô gái mới trở lại nhà bố mẹ đẻ cùng với chồng để tổ chức lễ cưới lần thứ nhất – lễ tăp aboh (lễ đập bếp). Thực hiện nghi lễ này, nhà trai phải mang sang nhà gái những đồ đã được thoả thuận từ trước như: trâu, bò, heo, gà, rượu, gạo tẻ, gạo nếp, cá khô, chiếu, thanh la, chiêng, ché,… Ngoài ra nhà trai còn phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho hôn lễ tiến hành tại nhà mình. Cũng trong ngày cưới, không chỉ nhà trai mang của sang nhà gái, mà theo phong tục, nhà gái cũng phải mang của sang nhà trai. Nhưng phần nhà gái mang sang nhà trai lúc nào cũng ít hơn phần mà nhà trai mang sang nhà gái về số lượng và chất lượng. Hiện vật nhà gái mang sang nhà trai thường là: gà, cá, chim muông, rượu, một ít gạo tẻ. Ngày cưới không chỉ là ngày vui của đôi trai gái, mà còn là ngày vui của cả gia đình, của dòng họ, của bản làng, của cộng đồng. Chính vì vậy, hôn lễ thường kéo dài suốt hai ngày một đêm. Trong những ngày đêm đó, anh em trong dòng họ – mu, bà con trong làng đến vui chơi ca hát, kể chuyện, ăn uống. Những hình thức hát và kể chuyện phổ biến là: lối hát đối đáp bao hàm cả trách móc, khiêu khích hay ca ngợi; kể cho nhau những câu chuyện về tình yêu đôi lứa trong sáng, chung thuỷ như: chuyện Achul, chuyện nàng Ta Ngực, Kinhiêu, Anan,… Cũng trong nghi lễ cưới, đôi trai gái Tà Ôi phải thực hiện nhiều tục lệ phức tạp khác nhau như tục trao kiếm, tục rửa chân – pa rin, tục ăn cơm chung – cha chum, tục lại mặt,… Trong nghi lễ cưới, chú rể chỉ được ăn những thứ do nhà gái mang tặng như: gà, vịt, chim, cơm nếp, cá; còn cô dâu và họ hàng nhà cô dâu bắt buộc chỉ ăn những thứ do nhà trai mang đến như: trâu, bò, dê, lợn, cơm tẻ. Những quy định này được hai họ thực hiện một cách tự nguyện và rất nghiêm túc.
Ở lễ này, người con gái từ giã cha mẹ đẻ bằng hai lễ thức: cắm một con dao nhọn bằng sắt vào bếp nấu ăn của người mẹ và vứt xuống gầm sàn đôi đũa cả mà người mẹ vẫn dùng để ghế cơm.
Thực hiện xong các nghi lễ cần thiết, đoàn đón dâu xin đươc con dâu về nhà chồng. Trên đường rước dâu về nhà chú rể, đồng bào Tà Ôi rất kiêng thấy cây đổ, và tuyệt đối cấm việc người đi sau chạm chân vào người đi trước.
Nghi lễ pei blô – mua cái đầu: Lễ khơi là nghi lễ cưới lần thứ hai, để thanh toán phần tiền cưới còn lại và tạ ơn thần linh. Nghĩa đen của thuật ngữ pei blô có nghĩa là xong xuôi, trọn vẹn, tròn trịa. Tổ chức xong nghi lễ này là đôi vợ chồng thực hiện xong nghĩa vụ của cuộc đời đối với đôi bên cha mẹ, dòng họ, bản làng.
Lễ khơi: Là một nghi lễ rất tốn kém phải làm thịt nhiều trâu, bò, lợn, gà,… và bắt buộc phải có nhiều cá khô. Lễ khơi được tổ chức tại nhà trai, kéo dài ba, bốn ngày đêm. Trong lễ khơi, anh em bên nhà trai cũng như bên nhà gái từ khắp mọi nơi về họp mặt đông đủ, ăn uống, hát hò. nhảy múa, kể chuyện cho nhau nghe. Do lễ khơi cần nhiều của cài, cho nên lễ khơi thường không ấn định trước và thường kéo dài vài năm. Mặc dù nghi lễ khơi tốn kém, nhưng đã là phong tục thỉ nhất thiết phải làm. Ông bà, cha mẹ sống chưa làm được lễ khơi, thì sau khi chết, con cháu phải thực hiện cho bằng được. Bởi vì nếu không làm được lễ khơi, người chết sẽ không an lòng nơi chín suối, người sống thấy có tội với giàng, với ma, với bà con xóm giềng hai bên nội, ngoại.
3.12. Tập quán tang ma
Nhà mồ của người Tà Ôi (Ảnh sưu tầm)
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Tà Ôi quan niệm rằng, con người khi sống có xác và có hồn. Khi chết đi phần hồn biến thành ma. Ma người mới chết chưa được cải táng gọi là giàng kumui; ma của người chết đã được cải táng gọi là giàng kane. Ma mới được thờ trong một cái miếu dựng ở trong rừng sâu. Cái miếu đó
gọi là đung kumui – nhà kumui; còn ma cũ được thờ tại nhà ở, trên một cái wa. Lễ cải táng- rơpớp là nghi lễ lớn nhất trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Tà Ôi, đồng thời là một ngày hội lớn của dân làng và của các làng lân cận. Lễ cải táng với nội dung chính của nó là đào lấy hài cốt lên, rồi chuyển đến nghĩa trang cải táng chung của làng, chôn theo từng khu vực riêng của mỗi gia đình hay của mỗi dòng họ. Tuy nhiên về cách thức tổ chức thì làm rất linh đình, tổ chức ăn uống linh đình cho cả làng, ăn uống, vui chơi, ca hát, nhảy múa suốt mấy ngày đêm. Vì vậy, việc cải táng thường được tố chức chung cho cả làng và thường 5-7 năm mới cải táng một lần.
Dương Công Thức (sưu tầm)