A Lưới là một huyện miền núi phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi đây là địa bàn cư trú lâu đời của ba dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơme, mà trong đó, đông và tập trung nhất là dân tộc Tà ôi- bao gồm cả nhóm tự gọi là Pakoh- chiếm trên 80% tổng dân số của cả huyện.
Cũng như các cộng đồng tộc người cư trú dọc Trường Sơn, dân tộc Tà ôi còn bảo lưu, duy trì được những yếu tố văn hóa đặc sắc của tộc người, tiêu biểu cho cơ tầng văn hóa bản địa ở vùng lục địa Đông Nam Á.
Những hoạt động sản xuất của cộng đồng tộc người, tuy là vượt qua giai đoạn kinh tế cướp đoạt, đã tiến sâu vào giai đoạn kinh tế sản xuất với nền nông nghiệp lệ thuộc vào thiên nhiên, mà hình thái kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy, ruộng vườn... nhưng hình thái săn bắt hái lượm vẫn mang đậm dấu ấn trong đời sống văn hóa của họ. Ở đó còn tiềm ẩn những tín hiệu văn hóa đặc thù liên quan đến sự giao thoa tiếp biến của truyền thống, mà trong từng lĩnh vực, cần được tiếp tục nghiên cứu và giải mã.
Tuy nhiên, văn hóa cổ truyền dân tộc Tà ôi, cũng như các tộc ít người khác trong cộng đồng các dân tộc Việc Nam, như lời cảnh báo của GSTS Tô Ngọc Thanh: vốn dược sinh ra trong điều kiện của nền văn minh nông nghiệp lạc hậu và của xã hội chậm phát triển, đang bị thử thách gay gắt trước những yêu cầu của sự phát triển của xã hội hiện đại, mà trước hết là xu hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa mọi mặt đời sống của con người. Vì vậy, nếu không quan tâm đến vấn đề văn hóa thì quá trình phát triển cũng đồng thời là quá trình hủy diệt văn hóa. Quá trình này, có một nhà nghiên cứu đã diễn giải cụ thể, thực tế và rất hình ảnh: xích lô về làng đã đưa xe kéo tay vào bếp. Máy bơm nhiều mã lực có mặt trên đồng ruộng thì gàu sòng, gàu giai ra đi. Ti vi, phim ảnh lên núi, thì người múa hát dân dã bỏ dần vốn cổ “cây nhà lá vườn” ...nói chung, như nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn Văn Tiệp nhận định: đó là nguyên nhân làm rạn nứt các tập tục cổ truyền.
Việc chuyển từ ở nhà sàn sang ở nhà đất đã ảnh hưởng đến sự sắp xếp lại nơi ăn chốn ở; sự vắng mặt của ngôi Nhà Dài (dân tộc Tà ôi-Pacoh), là nơi bảo lưu rất rõ nét cơ cấu đại gia đình phụ quyền, đã tác động sâu sắc đến vấn đề hôn nhân và gia đình.
Quá trình hôn nhân của người Tà ôi thường diễn ra theo ba giai đoạn. Giai đoạn tiền hôn nhân. Giai đoạn hôn lễ, và giai đoạn kết thúc quá trình hôn nhân, trong đó hầu hết đều có sử dụng âm nhạc gắn bó với các bước của các lễ thức.
Cũng như đa số dân tộc ít người khác ở Việt Nam, các loại hình nghệ thuật của dân tộc Tà ôi chủ yếu tồn tại dưới dạng “phi vật thể” trong phương thức tổng thể nguyên hợp của văn hóa dân gian. Nó chỉ được lưu truyền qua trình diễn và ghi nhớ bằng trí nhớ con người. Trong đời sống của họ, âm nhạc luôn có mặt trong các sinh hoạt: trong nghi lễ tín ngưỡng, trong các lễ thức phong tục cũng như trong giao tiếp vui chơi... đã được phân định rõ nét về thể loại, chẳng hạn như điệu hát Ântoiq chỉ dùng trong đám cưới, và cũng chỉ ở giai đoạn tiến hành lễ thức cuối dùng, còn Karlơi thì hát trong các lễ thức ở giai đoạn đầu... Karlơi và Baboiqlà thể hát của người có tuổi, nhưng Karlơi được dùng rộng rãi hơn, trong giao tiếp, giáo dục khuyên răn con cái, vui chơi..., còn Baboiq thuộc về thể tự sự, nỗi niềm, gần với hát ru. Chachâp thì thường thích hợp với nam nữ thanh niên để trao gửi, giao duyên.
Nhạc cụ của người Tà ôi tuy đơn giản, thô sơ được chế tác chủ yếu bằng các nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên xung quanh họ như tre nứa, gỗ... nhưng không kém phong phú về chủng loại. Với trên mười loại nhạc cụ khác nhau có thể xếp vào các nhóm loại như: Nhóm hơi thổi gồm 6 loại: Areng, Tireel, Tale,Khên, Karyok ayol, Târkòi; nhóm dây gảy và kéo gồm 4 loại: Âmplưng, Abel, Âmpreng, và ânkoaiq; nhóm gõ gồm đàn: Ântoong, Koong, Tarlè, Xar và trống hai mặt da Arkư. Trong đám cưới, chỉ sử dụng một vài loại cho từng giai đoạn của quá trình hôn nhân.
Ở giai đoạn tiền hôn nhân, là sự tìm hiểu một cách tự do giữa nam nữ khi đến tuổi trưởng thành. Họ được phép hẹn hò nhau đến một chòi vắng trên rẫy hoặc bên dòng suối vào những đêm trăng sáng, gọi là “đi sim”. Những buổi đi sim như thế có thể hẹn trước, tuy nhiên nhiều lúc phải thông tin cho nhau bằng âm nhạc. Người con trai sẽ đến bên nhà sàn, chỗ cô gái thường ngủ, qua vách nứa mỏng manh, sử dụng một thứ nhạc cụ làm bằng đồng gọi là Ânkoaiq chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, ngậm vào môi dùng vòm miệng làm hộp cộng hưởng và ngón trỏ điều khiển làm rung lưỡi gà tạo nên những âm thanh như tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu trong đêm. Cô gái nghe được “tiếng lòng” ấy, liền nhẹ nhàng rời nhà theo người con trai đến chỗ hẹn hò.
Thổi sáo Areng tỏ tình trong tục “đi sim”
Trong đêm trăng sáng bên dòng suối giữa rừng, trong một chòi nhỏ họ ngồi bên nhau trao gửi ý tình. Ngoài ngôn ngữ bình thường, họ thường thổ lộ tình cảm bằng điệu hát chachâp hoặc bằng tiếng sáo Areng, tiếng đàn Âmplưng hoặc tiếng Khên.
Areeng được làm bằng một đoạn nứa nhỏ, ngắn khoảng 30cm, phát được 3 âm, đây là loại sáo dọc thường được trai gái sử dụng để trao gửi tình cảm cho nhau.
Đàn Âmplưng làm từ một ống tre có đường kính khoảng 8cm và dài khoảng 40cm, có hai dây bằng vỏ tre được tước ra từ chính ống tre đó, và dùng một miếng tre nhỏ khác làm ngựa đàn căng dây. Theo GSTS Trần Văn Khê, loại đàn ống tre này không chỉ có ở Việt Nam mà có mặt rất nhiều nước thuộc Đông Nam Á lục địa và hải đảo như: Mianmar, Philippin, Inđonêxia .v.v...
Khên là tên gọi của một nhạc cụ rất phổ biến ở các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam: Khèn bè. Khèn của dân tộc Tà ôi ảnh hưởng khèn Lào, gồm 14 ống sậy được sắp xếp song song từng đôi một thành 7 hàng thứ tự từ ngắn đến dài. Khèn bè là một nhạc cụ thể hiện rõ nét yếu tố đặc trưng trong âm nhạc Đông Nam Á là thường sử dụng âm trì tục trong hòa tấu cũng như trong độc tấu ở một số loại nhạc cụ.
Qua nhiều lần tìm hiểu bằng các buổi tối đi sim, nếu đôi bên đã ý hợp tâm đầu thì họ trao tặng vật làm tin như chiếc vòng bạc đeo tay hoặc xâu chuỗi cườm.v.v...
Sau đó, người con trai chủ động trình bày với gia đình tìm người mai mối đến đặt vấn đề với gia đình bên gái. Việc đặt vấn đề có tốt đẹp, nhanh chóng hay không là tùy thuộc vào việc thõa mãn yêu cầu thách cưới của nhà gái. Nếu đã được thõa thuận về của cải thì sẽ nhanh chóng định ngày làm lễ cưới.
Giai đoạn làm lễ cưới, theo phong tục, được chia làm hai bước. Bước 1, được tổ chức tại nhà gái. Nội nhung và tính chất tựa như lễ hỏi của người Kinh, được gọi là “lễ bỏ của”.
Trong lễ này, nhà trai phải đưa đến một phần của cải đã thõa thuận và các vật phẩm khác như lợn, gà, xôi, bánh .v.v...
Hôn nhân của người Tà ôi ngày xưa nặng về tính chất mua bán với các tục tảo hôn, thách cưới rất nặng nề, nhưng được luật tục của cộng đồng thừa nhận. Vì vậy, cưới vợ đồng nghĩa với “mua vợ”, và do phải bỏ số của cải lớn theo yêu cầu của nhà gái, cho nên cô gái về nhà chồng phải quằn lưng làm lụng vất vả. Nếu không may chồng chết, người vợ không có quyền tái hôn với người nào khác, mà phải suốt đời ở lại như vật sở hửu của nhà chồng, và luật tục cổ truyền của người Tà ôi cho phép có thể tiếp tục tái hôn với người trong gia đình chồng, như lấy em trai hay anh trai chồng, thậm chí cả bố chồng, hoặc ngược lại con trai có thể lấy vợ lẻ của bố, cháu trai có thể lấy cả vợ của chú trong trường hợp bố, chú mất...
Trong lễ này, số của cải đã thõa thuận sẽ được xem xét, tính toán còn lại bao nhiêu mà nhà trai cho phép tiếp tục trả sau này. Đơn vị của cải này được nhà gái tính toán bằng số lượng hạt ngô...
Nếu không có gì trở ngại, cô dâu được phép theo họ ngà trai về luôn bên nhà chồng. Theo tục lệ, lễ này phải được diễn ra từ chiều tối,và cô dâu sẽ được đưa về lúc đêm khuya để tránh sự nhòm ngó của người khác, tránh điều rủi ro, vợ chồng sẽ không hạnh phúc. Lệ thường, thì sau 5, 7 ngày, hai vợ chồng còn phải trở lại nhà vợ để chính thức từ giã gia đình bằng 2 lễ thức phong tục, là cô dâu cắm một cây dao vào bếp, và ném đôi đũa xới cơm xuống sàn nhà, chấm dứt thời kỳ phụng dưỡng bố mẹ, để hoàn toàn thuộc về một gia đình khác.
Bước 2 trong giai đoạn này là sau khi cô dâu về nhà, sẽ diễn ra một cuộc lễ tại nhà trai để đón gia đình nhà gái. Nhà trai mời nhà gái những vật phẩm của mình. Phần này có một lễ thức mang tính ước lệ là đại diện 2 nhà nhúng mảnh lá chuối vào một bát rượu, biểu hiện sự nhất trí và giao kết giữa 2 họ... Nhà gái cũng mang đến đóng góp những vật phẩm của mình.
Tiếp đến là phần diễn xướng. Nhà trai mời nhà gái cùng nhảy múa hát chúc mừng 2 bên trong điệu hát Karlơi rất được ưa chuộng.
Karlơi là một điệu hát khá hoàn chỉnh về cấu trúc. Một mô-típ âm điệu sử dụng tiếng đệm, được láy đi láy lại ở âm khu cao xuất hiện nhiều lần sau các vế kể, tạo thành một “đoạn điệp” làm cân bằng kết cấu âm nhạc. Giai điệu đơn giản nhưng đường nét quán xuyến theo thủ pháp nhắc lại ở các cao độ khác nhau trong một mô-típ tiết tấu có tiết phách rõ ràng của loại nhịp chẵn, làm cho điệu hát mang tính giai điệu cao, so với các điệu hát khác của dân tộc này. Điệu hátKarlơi thường được hát với nhiều nội dung khác nhau, rất dược ưa thích và thường phải nhún nhảy, lắc lư theo nhịp trống. Đây là một điệu hát không thể thiếu trong mọi sinh hoạt diễn xướng của người Tà ôi...
Trong lúc vừa hát Karlơi vừa lắc lư theo nhịp điệu, sẽ thực hiện một lễ thức kết thúc là đại diện 2 họ khoác áo cho nhau. Nhà gái khoác tấm “dèng” thổ cẩm (là loại vải dùng cho phụ nữ) lên vai đại diện nhà trai, mang ý nghĩa gửi gắm con gái cho nhà trai, nhà trai thì khoác cho nhà gái chiếc áo đàn ông.
Giai đoạn cuối cùng là tiến hành lễ “hoàn tất” (Pẩy Plồh). Theo các nhà nghiên cứu văn hóa-dân tộc học như Nguyễn Hữu Thông, Huỳnh Đình Kết, Nguyễn Xuân Hồng và Phan Thị Đào, giai đoạn này được xem như sự đánh dấu cô dâu đã hoàn toàn thuộc về nhà chồng. Phía nhà trai phải thanh toán trọn vẹn số của thách cưới đang còn thiếu. Lễ hoàn tất có thể tiến hành ngay sau lễ cưới đối với nhà chồng giàu có, nhưng có thể hằng năm sau mới tiến hành được nếu nhà chồng khó khăn chưa đủ của cải để trả món nợ thách cưới của nhà gái. Có khi con cái của 2 vợ chồng đã lớn khôn mới thực hiện được, thậm chí lúc còn sống chưa trả được, lúc chết đi thì con cái hoặc dòng họ góp sức làm để trả.
Tùy theo điều kiện mà lễ này được tổ chức lớn hay nhỏ, nhưng thường có quy mô không kém hơn so với lễ cưới. Bà con hai họ, láng giềng đông đủ hơn để ăn uống, vui chơi, cũng như để cộng đồng chứng kiến việc bán gã đã hoàn tất theo luật tục, cô dâu từ đây đã chính thức thuộc về gia đình nhà trai...
Khi nhà trai tuyên bố xin thanh toán hết số của cải còn thiếu, nhà gái cũng trao lại cho nhà trai một số của cải tượng trưng, chủ yếu là dèng, chiếu, một ít thực phẩm đựng trong ống tre... có ý nghĩa như của “hồi môn” cho con gái trong tục lệ của người Kinh. Có thể đây là sự giao thoa văn hóa chăng?
Diễn xướng trong giai đoạn này cũng được xem là một bộ phận của lễ thức... Lúc mọi người vẫn ăn uống vui vẻ trong tiếng cồng, tiếng trống, chủ nhà gái cất hát Karlơi chúc mừng nhà trai và công nhận con gái của chúng tôi từ giờ phút này hoàn toàn thuộc về nhà chồng, mong nhà chồng săn sóc con dâu để đừng ốm đau bệnh tật. Đại diện nhà trai hát đáp lại cảm ơn gia đình nhà gái đã nuôi nấng dạy dỗ con cái nên người, và đã cho con gái về làm vợ, làm nội trợ cho gia đình chồng...
Kết thúc phần diễn xướng, chủ của 2 họ lại làm thủ tục quàng áo cho nhau. Chủ nhà gái quàng cả tấm dèng thổ cẩm lên người chủ nhà trai và trao cho chủ nhà trai một con gà sống, đồng thời ôm nhau trong một cử chỉ thân thiện, mãn nguyện.
Buổi lễ kết thúc bằng lễ thức cuối cùng: hai bên nói lời cam kết bằng điệu hát Ântoiq.
Ântoiq là điệu hát đặc biệt của người Tà ôi, chỉ dùng trong đám cưới và cũng chỉ ở giai đoạn kết thúc. Đường nét giai điệu không uyển chuyển như điệu hátKarlơi mà gần với lối “hát nói”, nhịp điệu tự do tùy hứng. Nội dung của điệu hát Ântóiq là sự cam kết giữa 2 gia đình: Vợ chồng không được bỏ nhau, phải yêu thương nhau và gắn bó với gia đình chồng suốt đời. Nếu bỏ nhau phải bồi thường theo lệ làng.
Nhà gái hát cám ơn nhà trai đã bỏ của cải để cưới con gái, sau đó nhà trai lại hát về việc của cải cho con không được nhiều... mong nhà gái không đòi con lại, hai gia đình sẽ mãi mãi là sui gia giữ vững tình đoàn kết thân ái...
Đứng trước sự phát triển của xã hội hiện đại , những ngôi nhà Dài, nhà Gươl của các dân tộc thiểu số cư trú dọc Trường Sơn ở Thừa Thiên Huế, đã bắt đầu hiếm hoi. Các tập tục văn hóa cổ truyền chứa đựng trong nó, được sản sinh ra trong nền kinh tế rẫy nương, săn bắt đã dần dần mai một đi trong đời sống “ở đất bằng làm ruộng nước” với thiết chế “điện, đường, trường, trạm” như hiện nay. Giữa thời điểm này, một lễ cưới của người Tà ôi ít nhiều còn bảo lưu được các tập tục cổ, cũng như nghệ thuật diễn xướng gắn bó với nó, mang tính nguyên hợp của một loại hình... tưởng cũng là một điều may mắn cho công việc bảo tồn các biểu hiện văn hóa còn tiềm ẩn những tín hiệu, những yếu tố mang đậm chất văn hóa bản địa này.
Cũng cần nói thêm rằng, những trình thức trong đám cưới, điều do các người già điều khiển qua sự tái tạo lại bằng trí nhớ; những điệu hát ở mỗi giai đoạn trong lễ cưới, cũng do người già nhớ và hát; các loại nhạc cụ cũng do người già chế tác... Giới trẻ, hầu như vắng mặt trong đời sống tinh thần của quá khứ, và như thế, những sinh hoạt mang tính phong tục, tập quán đặc trưng của tộc người khó mà lưu giữ được vào ký ức văn hóa của họ, như ý kiến cảnh báo của các nhà nghiên cứu: “truyền thống văn hóa của một dân tộc sẽ chấm hết khi thế hệ cuối cùng lưu giữ nó chết đi”... Và điều này, đang đúng với thực trạng văn hóa của các dân tộc thiểu số miền núi ở Thừa Thiên Huế.
Triệu Minh Bắc (sưu tầm)