Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Địa lý
Showing posts with label ₪ Địa lý. Show all posts
Showing posts with label ₪ Địa lý. Show all posts

Wednesday, April 20, 2016

Sơn là núi, La là suối. (Văn Hóa Tây Bắc)

 Sơn La có nghĩa là vùng đất bắt nguồn từ con suối trên núi. Cùng với thời gian, con suối ấy vẫn đang tuôn trào bao bọc 12 dân tộc anh em, tạo thành sức mạnh, tỏa sáng như viên ngọc giữa đất trời Tây Bắc.
Sơn La - vẻ đẹp hoang sơ, thuần khiết đầy quyến rũ.
Vùng đất Sơn La có vẻ đẹp hoang sơ thuần khiết của rừng, của núi, của những dòng suối nước trong veo, của những thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, và cả tấm lòng chân chất, hiếu khách của người dân bản xứ. Mùa xuân về, hoa ban nở trắng càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc trong những cuộc hành trình về với Sơn La.
Đến Sơn La  để ngắm nhìn những cảnh đẹp hùng vĩ mà nên thơ như Hang Dơi, Thác Dải Yếm, hang Trâu… và để tận hưởng không khí trong lành của vùng khí hậu tiểu ôn đới đang quyện hòa cùng hương chè ngan ngát.

Thác Dải Yếm

Hang Thẳm Ké (hang Trâu)  dài chừng 1km với 2 cửa hang thông ngang 2 sườn núi. Đây từng là kho chứa vũ khí lớn nhất mà chúng ta tìm được ở Tây Bắc sau khi thực dân Pháp thua trận ở Điện Biên. Hang bia Quế Lâm Ngự Chế - nơi ghi dấu bút tích của Vua Lê Thái Tông năm 1440 với bài thơ được khắc trên vòm hang vách đá thẳng đứng. Dưới lòng hang rộng là rất nhiều thạch nhũ từ vòm hang buông xuống.
Thác nước Bản Vặt, một địa danh gắn liền với lịch sử cư trú rừ rất xa xưa của tộc người Thái ở vùng đất Mường Sang xưa, Mộc Châu ngày nay.Có thể nói đây là một cảnh quan sinh thái tuyệt đẹp được thiên nhiên ban tặng cho chủ nhân vùng đất này. Ngoài tên gọi dân dã trên, thác nước này còn có tên gọi khác như thác Nàng, thác Dải Yếm, nhằm ví vẻ đẹp của thác nước như xuân sắc của người con gái tuổi trăng tròn.
Đó là những thắng cảnh kỳ vĩ do thiên nhiên và con người kiến tạo,  là một phần không thể thiếu của vùng rừng núi Tây Bắc Sơn La. 

Vùng đất văn hoá giàu hương sắc
Đến với Sơn La, bạn không chỉ được ngắm nhìn một vùng núi non hùng vĩ mà còn được khám phá về giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc: những vòng xòe cuốn hút, rượu cần ngây ngất men say, ánh lửa bập bùng và giọng hát ngọt ngào của các thiếu nữ miền sơn cước….
Sơn La là nơi hội tụ sinh sống lâu đời của 12 dân tộc anh em: Thái, Mông, Dao, Kinh, Mường, Khơ Mú, Kháng, La ha, Xinh Mun, Lào, Hoa, Tày. Giữa cái rất riêng của 12 dân tộc ấy là những nét rất chung, đó là sự giao hòa giữa các nền văn hóa:

Di tích lịch sử, văn hoá và khảo cổ
Vùng đất Sơn La hiện còn lưu giữ hơn 100 di tích lịch sử văn hóa và di chỉ khảo cổ, trong đó có chín di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia. Ngoài những chứng tích từ thời kỳ Lê sơ cho đến các di tích của một thời oanh liệt chống thực dân Pháp, các nhà khảo cổ còn phát hiện nhiều dấu vết của người Việt cổ và thu được nhiều công cụ sản xuất, săn bắt của người tiền sử.
Những di tích, dấu tích trên Hang Bia, Quế Lâm Nghị Chế, với bài thơ khắc của vua Lê Thái Tông đã khẳng định lịch sử, truyền thống hàng nghìn năm trước của mảnh đất này. Nhà tù Sơn La và cây đào Tô Hiệu vẫn còn đó, là một minh chứng về những tội ác của giặc Pháp và tinh thần bất khuất, anh hùng của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hàng nghìn cán bộ cách mạng từng bị giam cầm và có tới gần 200 đồng chí lãnh đạo các cấp của VN đã trưởng thành từ đó.

Cây Đào Tô Hiệu

Bảo tàng Sơn La lưu giữ những nét văn hoá đặc sắc của 14 dân tộc anh em sống ở Sơn La với hàng trăm di vật từ thời kỳ tiền sử, sơ sử được tìm thấy tại địa phương. Gần 1.000 bản sách được ghi chép bằng chữ Thái cổ ở nhiều thể loại (sử thi, trường ca, truyện thơ dân gian...) và  nhiều vật dụng cầm tay bằng đá, sắt, hay trống đồng có niên đại nhiều nghìn năm, được tìm thấy trong các hang động và di chỉ ở Chiềng Ơn, Pắc Ma, Mường Chiên và khắp vùng lòng hồ sông Đà đang được bảo quản và trưng bày tại đây.
Đồn mộc lỵ huyện Mộc Châu, một địa danh đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp của quân và dân Mộc Châu, Son La. Đồn được Thực Dân Pháp xây dựng năm 1947, năm 1951 được tăng cường lực lượng, vũ khí và mở rộng qui mô để cai trị, đàn áp nhân dân các dân tộc huyện Mộc Châu, khống chế quốc lộ 6 và quốc lộ 43 sang Hủa Phăn (Lào). Trong chiến dịch Tây Bắc, đêm 19/11/1952, trung đoàn 174, sư đoàn 3, đại đoàn 316 tấn công tiêu diệt Đồn Mộc Lỵ 53 chiến sĩ đã hy sinh trong trận đánh lịch sử này.
Đền thờ Vua Lê Thái Tông mang dáng dấp kiến trúc Đền cổ Việt Nam với các hoạ tiết mang đậm nét tâm linh của dân tộc, được khởi công tháng 9/2001, khánh thành 22/01/2003 để ghi nhớ công đức của nhà Vua, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương.
Di tích lịch sử Tập đoàn cứ điểm Nà Sản, nơi đánh dấu 5 trận đánh lớn nhất của quân và dân ta vào một căn cứ quân sự mạnh về hoả lực, đông về lực lượng của Pháp. Di tích đã đi vào lịch sử quân sự cách mạng Việt Nam, là bước tập dượt cho cuộc tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ; Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.

Lễ hội truyền thống
Phong tục tập quán và lễ hội truyền thống ở Sơn là mang nét đặc trưng riêng biệt của từng dân tộc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của 12 dân tộc sinh sống tại Sơn La đang được gìn giữ, phát huy, tiêu biểu như các lệ hội: Vào mùa, Hoa Ban, Cầu mưa của dân tộc Thái; Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Mương A Ma của dân tộc Xinh Mun; Xênh Pang Ả của dân tộc Kháng…
Như lễ hội Xen Pang Ả dân tộc Kháng được tổ chức với quy mô một vùng rộng lớn, gồm nhiều bản, và cứ 2 hay 3 năm được tổ chức một lần vào khoảng từ tháng 10 tới tháng 12. Lễ hội được tổ chức với mục đích mời các "ma nhà", "ma bản", "ma trời" hưởng lễ vật và những người được Pa Ả chữa cho khỏi bệnh (được coi là con nuôi) đến dâng lễ, tạ ơn, đồng thời để Pa Ả cầu chúc cho hồn vía các con nuôi lành mạnh, không hay ốm đau, làm ăn phát tài. Lễ hội Xen Pang Ả ngoài phần lễ cúng cầu xin, còn là nơi nhân dân diễn lại các công việc nương rẫy, thu hái lâm sản trong đời sống thường nhật, thông qua các trò diễn; chơi các trò chơi dân gian; hát đối đáp giao duyên; múa ống, múa khăn.
Đây là dịp để mọi người tạ ơn tổ tiên và các thế lực siêu nhiên đã giúp đỡ cho họ có sức khỏe, bản mường yên bình, no ấm. Đặc biệt lễ hội còn là dịp để lớp thanh niên chưa vợ chưa chồng tìm hiểu, hẹn hò nên vợ thành chồng, bởi vậy lễ hội Xen Pang Ả còn có ý nghĩa trong việc tái tạo cộng đồng dân tộc.
Hay lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần. Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn…Lễ hội Mương A Ma được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì bao gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự lễ hội với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình. Lễ hội Mương A Ma là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu.
Có thể nói, lễ hội dân gian truyền thống chính là tiếng nói thể hiện ước muốn vươn tới những điều tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Sơn La, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Văn hoá ẩm thực
Ở Sơn La, những món ăn đặc sản từ cây rừng, từ ao vườn, ruộng đồng, được chế biến bởi những bàn tay khéo léo của người con gái bản đảm đang thành những món ăn ngon khó quên.

Cơm lam

Cơm lam vẫn thấy trong các tiệc tùng lễ hội của nhiều dân tộc trên núi rừng Sơn La. Nhưng với người Thái, nó còn có trong từng bữa ăn thường ngày. Cũng là từ hạt nếp nương, nhưng cơm lam là loại cơm đặc biệt ngon vì nó không được nấu theo cách thức thông thường mà được nướng trên rừng rực than củi trong những ống nứa. Gạo nếp ngâm ủ qua đêm được cho vào từng ống nứa non, một loại tre rừng đặc biệt có lớp vỏ lụa mỏng bên trong lòng đốt, thêm nước vừa đủ và nút lại bằng lá chuối khô rồi đưa lên bếp đốt cho đến khi vỏ ống tre cháy sém. Sau đó chẻ tách phần cật nứa chỉ còn lại lớp lụa mỏng bó chặt từng cây cơm trắng nõn nà. Trên lớp vỏ lụa trắng mỏng ấy có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của khói làm cho miếng cơm dẻo thật sự thăng hoa. Ăn cơm lam, ngoài muối vừng, không thể thiếu một loại thức chấm có tên là chẩm chéo. Chẩm Chéo được chế biến từ muối, ớt tươi nướng, hành, rau mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có tên là mắc khén, tất cả được đâm nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm chéo, không có chẩm chéo không thành bữa cơm lam. Cơm lam Sơn La thường được bán vào mùa đông. Vì loại ống nứa để nướng cơm lam mùa này mới có. Để thưởng thức được một ống cơm lam.
Hay như món cháo “Mắc nhung” mang hương vị đặc trưng của núi rừng. Sau mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt đầu chín mọng, bà con hái đem về rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới ít nước đủ chín, túm vào lá chuối buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi như món “Mọ gà” của đồng bào dân tộc Thái, chỉ 30 phút sau sẽ có ngay một món ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay là lạ đầy hấp dẫn và chấm với xôi rất hợp khẩu vị, Ngày nay, cháo “Mắc nhung” đã trở thành món ăn đặc sản được mọi người ưa chuộng. Để có món cháo Mắc nhung (tiếng Mường gọi là quả ngố), người chế biến phải biết chọn loại tẻ thơm, nếu được tấm đầu vụ gặt non (như cốm) thì càng tốt. Dùng thịt sương sườn lợn nướng khô hay hun khói, băm nhỏ nấu nhuyễn với cháo tấm. Khi cháo chín tới cho quả Mắc nhung vào, đập thâm củ gừng, ở nướng và xả cả củ bỏ vào đáy nồi cháo, khuấy đều. Vài phút sau, đã có ngay món cháo "Mắc nhung" đặc sản thơm nồng, đặc sánh.
Các món ăn ngày tết của các dân tộc ở Sơn La cũng là một nét văn hoá ẩm thực gây ấn tượng sâu sắc đối với những ai đã từng đặt chân đến đây. Một số dân tộc ở Sơn La từ xưa đã có lệ vào mùa măng (nhất là măng tre, vầu, bương. lay) là làm các loại măng giành cho tết.. Măng chua: Chủ yếu dùng măng vầu, bương thái nhỏ hoặc giã cho vào hũ ủ lên men, càng để lâu càng chua. Măng chua chủ yếu để xào với các loại lòng lợn, gà và xào với thịt mỡ ăn đỡ ngấy. Măng héo: (Nó héo): Bà con Thái Trắng, đồng bào Mông ở Mộc Châu, Bắc Yên thường hay làm loại măng này. Măng héo làm từ măng chua. Măng chua vắt kiệt nước phơi nhiều ngày cho khô quắt lại, đem đồ xôi, rồi lại phơi thật khô, sau đó cho vào ống hay gói lá khô để dùng dần.
  

Nó héo là một đặc sản. Một cân Nó héo tốn hàng hũ măng chua và dùng được nhiều lần. Món lòng xào chỉ cần cho một nắm "Nó héo", sẽ có vị chua ngon và rất thơm. Món canh ULR (còn gọi là lom nhọk): Ngày lễ – tết của người Khơ Mú không thể thiếu được món canh ULR , ULR được chế biến từ các loại thịt chuột, chim, sóc sấy khô băm nhỏ trộn với hoa chuối, các loại rau thơm, ớt chỉ thiên (cá quả), mắc khén, bột gạo nếp cho vào ống tre, bương bánh tẻ, đổ nước vào đem đốt (như đốt cơm lam). Khi sôi lấy que tre vót nhọn sọc liên tục đến lúc nào nhuyễn thì thôi. Khi đổ ra bát nó sền sệt, sánh dùng xôi nếp nắm chấm quệt ăn rất thơm và ngon.
Món mọk: Món mọk này người Thái, Mường, Khơ Mú…đều hay làm nhưng mỗi dân tộc làm một kiểu khác nhau, ngon nhất vẫn là mọk của người Khơ Mú. Mọk được chế biến từ thịt gà (nếu gà to chỉ lấy cổ, cánh, bộ lòng mề là đủ) băm nhỏ, ớt khô, mắc khén giã nhỏ, củ sả thái nhỏ, bột gạo nếp trộn với nhau cho vào lá chuối túm lại bỏ vào chõ xôi sôi lên. Khi chín cũng nhuyễn, sánh sền sệt như món canh ULR.
Bạn hãy thử  một lần lên Tây Bắc, đến với Sơn La, vào một đêm  lạnh dịu ngồi quanh bếp lửa, nhâm nhi rượu cần nồng nàn, ăn một miếng cơm lam, hay một bát cháo Mắc nhung ngọt ngào... thì mới cảm nhận hết được hương vị núi rừng của nền văn hoá ẩm thực nơi đây.
Nét đặc sắc của những làn điệu dân ca và những điệu múa say đắm lòng người 
Nếu như hoa ban - hoa đào - hoa ''bó mạ''... là biểu tượng của các dân tộc ở Sơn La, thì những điệu múa của họ cũng làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương, mang bản sắc văn hoá độc đáo, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Sơn La - thủ phủ trước đây của Khu tự trị Tây Bắc - một miền quê được mệnh danh là xứ sở Hoa Ban nổi tiếng với những làn điệu dân ca say đắm lòng người, và đặc biệt là những điệu múa vừa dịu dàng tha thiết, vừa rộn ràng, sôi nổi…
Điệu múa “nhảy khèn” của các chàng trai H’Mông thật độc đáo và hấp dẫn. Trong tiếng khèn lá dập dìu của các cô gái, các chàng trai cất lên tiếng khèn dập dìu, dồn dập… kèm theo những động tác múa thể hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức dẻo dai: vừa thổi khèn liên tục, vừa quay tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những động tác chân phức tạp, có lúc lại lăn tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt tiếng… Các nghệ nhân kể rằng: trước đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá chuối mà lá chuối không rách, quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã, thậm chí còn ly kỳ hơn: quay trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc đáo có một không hai của “nhảy khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu hứng rất cao với sự sáng tạo phong phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông không có múa, nhưng ngày nay, từ giao thoa văn hoá và sức cuốn của phong trào các cô gái cũng múa chẳng kém con trai; phổ biến nhất là điệu múa ô nổi tiếng: những chiếc ô màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao, xuống thấp, quấn quýt ôm lấy thân hình con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh động.


Đến với đồng bào Dao để  thưởng thức điệu múa Chuông. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi tua mầu được tung lên, hạ xuống, lượn tròn thật nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt. Xem múa Chuông, ta có cảm giác như những chùm tua mầu tung tăng, nhảy nhót giữa không gian cùng tiếng chuông thôi thúc... như lòng người háo hức, hân hoan. Xem múa Chuông, người am hiểu nghệ thuật cũng phải thán phục vì người Dao Tiền đã tạo nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4 và nhịp 7/4 - đó là loại nhịp ''phức'' của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại nhịp (5/4 hoặc 7/4) lại không kéo dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm: cứ hai nhịp 5/4 lại đến một nhịp 7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở đầu cho các đoạn múa lớn.
Xoè vòng là hình thức múa cộng đồng của dân tộc Thái. Từ xưa đến nay, xòe vòng của dân tộc Thái luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Mỗi khi âm thanh trầm bổng, nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại thôi thúc mọi người đến với vòng xòe. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, mọi người xích lại gần nhau, quây quần bên nhau, vui tươi, đầm ấm.  Một vài chục người thì làm một vòng xòe, dăm bảy trăm người trở lên có thể chia ra nhiều vòng hay xếp vòng trong, vòng ngoài, nhiều nơi còn chia vòng theo lứa tuổi. Tay trong tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia trong không khí, tình cảm say sưa, đầm ấm của vòng xòe, đêm xòe. Động tác, đội hình xòe đều rất giản dị, các tạo hình và động tác, tính chất nhịp nhàng của độ nhún, bước đi của vòng xoè rất gần gũi với nhiều động tác hoạt động của con người trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Nhịp xòe nhẹ nhàng uyển chuyển, nhưng đôi khi do không khí cuộc vui thôi thúc, mọi người vỗ tay, nhảy lên, hú lên rất náo nhiệt. Cũng có những động tác như người trực tiếp xòe, người đánh trống, đánh chiêng rất uyển chuyển, lúc mạnh, lúc nhẹ và có sức lôi cuốn mạnh mẽ. 
Mang trong lòng ấn tượng về vòng Xoè và âm thanh của trống cồng...  chúng ta lại  đến với tiếng ''Cống tốp'' - một loại trống độc đáo của đồng bào Kh'Mú.
Khác với chiếc trống lớn được đánh bằng dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ''cống tốp''- (một loại trống nhỡ, vỗ bằng tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của trai gái tộc người Kh' Mú. Bất cứ ở đâu, dù trong đêm trăng sáng hay bên ánh lửa hồng, tiếng trống cứ vang lên là con trai, con gái cùng háo hức bước chân, rạo rực nỗi lòng. Bởi trong tiếng trống đặc biệt ấy, họ tìm được bạn tình qua vũ điệu ''nộc Dung'' (chim Công); Một vũ điệu được cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh' Mú từ ngàn xưa truyền tại: Trong vũ điệu, người Kh' Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy bên ngoài của chim Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động tác múa sôi nổi, quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm... Để vũ điệu trở thành mê say trong sự giao duyên đầy ý nhị của đầu, của vai, của mông, trong những bước chân nhịp nhàng, lẫn và ánh trăng, hoà vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
Sơn La - phố núi thật giàu bản sắc. Mới chỉ vài nét văn hoá giản đơn trong ăn mặc, ẩm thực, sinh hoạt tinh thần mà đã ấn tượng biết bao,  đã tạo thành thế mạnh vật thể và phi vật thể của vùng sơn cước; thành lời mời gọi, thành cớ giữ chân, thành lời nhắn nhủ, ước hẹn gặp lại với những người đã đến và cả những người chưa đến Sơn La.

Vùng văn hóa dân tộc Tây Bắc (Văn Hóa Tây Bắc)

Li m đu
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành và không ngừng phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng nó ấy vẫn luôn được giữ vững và trau dồi bởi năm mươi tư dân tộc anh em với lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết nhất trí.
Nếu như sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa Việt Nam thì tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa. Và trong bài tiểu luận này, nhóm 1 xin được trình bày về một vùng văn hóa có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo: Vùng văn hóa Tây Bắc.

Khái quát chung:
Vùng văn hóa Tây Bc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn song Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Ở đây có trên 20 tộc người cư trú, văn hóa Tây Bắc đa dạng và độc đáo chính là sản phẩm của sự kết hợp và đan xen các bản sắc riêng của hơn hai mươi dân tộc ấy, trong đó các dân tộc Thái, H’mông, Dao có thể xem là những đại diện tiêu biểu, góp phần quan trọng hơn cả trong việc hình thành văn hóa của khu vực. Biểu tượng cho vùng văn hóa này là hệ thống mương phai dẫn nước vào đồng; là nghệ thuật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’Mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ bộ hơi (khèn, sáo…) và những điệu múa xòe
Và bây giờ, chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu chi tiết về vùng văn hóa này từ những khía cạnh cơ bản nhất.

Tổng quan về Tây Bắc:
Vị trí địa lí – Điều kiện tự nhiên:




Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Báí
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m, Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m. Dãy Hoàng Liên Sơn, được người Thái gọi là "sừng trời" (Khau phạ), chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc.


Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà (tên Thái là Nặm Tè) và sông Thao (tức sông Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Các con sông này không chỉ là cơ sở cho sự định cư của của các dân tộc nơi đây cũng như nền nông nghiệp trong vùng mà còn là nguồn cảm hứng cho những câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái, Mường...

Sông Đà

Sông Mã




Tuy cùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông dày mà không khỏi rét. Nhưng chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Chính điều này cũng góp phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc.

  
Đc đim kinh tế - xã hi và dân cư:
Hoạt động kinh tế của Tây Bắc chủ yếu là nông nghiệp mà cụ thể là trồng lúa nước ở vùng thung lũng, ruộng bậc thang ven sườn núi, các loại cây như ngô, sắn, đậu tương ở nương, rẫy,…
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Đặc điểm cư trú nổi bật của đồng bào Thái là dọc các thung lũng vùng thấp, nơi có nhiều sông suối ao hồ, chính vì thế mà các nhà dân tộc học xếp dân tộc Thái là những cư dân đại diện cho nền văn minh thung lũng (Valley culture). Trên thực tế, đồng bào Thái ở vùng nào cũng tỏ ra vừa giỏi chài lưới ngoài sông ngoài suối, lại rất thạo việc đánh bắt trong ruộng trong đồng. Nhờ vậy, bữa ăn hàng ngày của bà con được tăng cường nguồn dinh dưỡng một cách đáng kể, do chính các hoạt động sông nước đem lại.
Nguồn sống chính của đồng bào H’Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.

Lịch sử và Dân cư:
Tây Bắc  là nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của cư dân văn minh đồng thau với hơn 20 tộc người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc: Thái, Dao, H’Mông, Bố Y, Giáy, Há Nhì, Kháng, Máng, Khơ-mu, Sila, Tày,  Xinh-mun, La-ha… với một lịch sử phát triển khá lâu đời.Mật độ dân ở đây khá số thấp, năm 1978 mới có 59ng/km2. Với tỉ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, đến năm 1990 cũng chỉ có 120 người/km2. Các dân tộc tiêu biểu của vùng như: Thái, H’Mông, Dao.
Dân tộc Thái:
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là 1.328.725 người, chiếm 1,74 % dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong đó, tại Tây Bắc số dân cụ thể là: Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa(tân thanh-thường xuân-thanh hóa), Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình)
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh).
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận ; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên. Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975.
Cũng như hầu hết các dân tộc trong vùng, người Thái sống chân thật, giản dị và rất hòa thuận. Trong gia đình, trong bản không bao giờ thấy người ta to tiếng với nhau. Đặc biệt không bao giờ trẻ con bị mắng mỏ nặng lời, chứ không nói đến việc bị đánh đòn. Trẻ con hiểu nhiệm vụ của chúng và rất tự giác thực hiện. Chúng có sai sót gì, người lớn chỉ nhắc nhẹ. Trẻ em rất ngoan, chúng chơi đùa với nhau rất thân ái. Gặp lúc khó khăn, đói kém người ta đến họ hàng xin lương thực. Người được hỏi xin sẵn sàng chia sẻ số lương thực còn lại, dù biết rằng sau đó chính họ cũng sẽ lâm vào cảnh thiếu đói và cũng phải lên rừng đào củ mài, củ bới thay cơm. Ngay bây giờ, khi nền kinh tế thị trường đã có tác động vào đời sống cư dân Tây Bắc, thì phong tục này vẫn được thực hiện với tấm lòng vị tha và tình nghĩa sâu đậm.

Dân tc H’Mông:
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân 1.068.169 người (ngày 1/4/2009), dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
Các tài liệu khoa học cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước).
Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Dân tộc Dao:
Tại Việt Nam, dân số người Dao theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người. Người Dao còn có các tên gọi khác là: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v). Địa bàn cư trú chủ yếu của người Dao là biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,vv…
Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao" do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tại thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) gồm 7 nhóm. Người Dao ở Việt Nam và ở Lào Cai có 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi như ngày nay, người Dao đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ vượt biển, vượt núi, vượt sông. Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục, nghi lễ của người Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di cư sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang. Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
Theo sông Lô tới Hà Giang hình thành nên người Dao áo dài.
Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển.
Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tổ tiên người Dao quần chẹt ngày nay.

Văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc:
Văn hóa nông nghip:
Tuy nông nghiệp không phải là một khía cạnh văn hóa phổ biến trong mỗi tiểu vùng nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc, đây có thể coi là một yếu tố làm nên nét văn hóa độc đáo của vùng.
 Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong 4 từ văn vần: " Mường - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy dốc của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên "phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương" Từ "mương" xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số. Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách làm này và gọi chệch đi là "lần nước". Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. Và món cá là biểu hiện lòng hiếu khách :
“Đi ăn cá, về nhà uống rượu
ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm”
Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu với nơng, đồng bào có lúa, rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt,.v..v... Bông và chàm cũng trồng trên nương. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.


Ruộng bậc thang cũng là một yếu tố làm nên vẻ đẹp của vùng Tây Bắc. Điều này đã được hàng triệu lượt du khách tới thăm Tây Bắc những năm qua công nhận và đã được giới thiệu, quảng bá khá đậm nét trên hệ thống Internet và báo chí toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel & Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa như là “Những bậc thang dẫn lên trời” ( Ladder to the sky).


m thc:
Tây Bắc là cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô Lô, Hà Nhì... Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ là những món ăn truyền thống nổi tiếng chỉ có ở vùng này. Người dân Tây Bắc thường thưởng thức những món ăn truyền thống của mình trong không gian và không khí cộng đồng như tại các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dịp năm mới xuân về. 
Phần lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vậy phần lớn các món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức những ấn tượng rất khó quên.
Món ăn đầu tiên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là món canh da trâu:
 Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên gác bếp cho khô. Để chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau khi nướng giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon đun nhỏ lửa cho đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh bon này. Nồi canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng, hạt tiêu, mắc khèn. Món ăn bổ dưỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng này để lại cảm giác khó quên cho nhiều thực khách.

       Những tấm da trâu- phần không thể thiếu trong việc chế biến món canh da trâu.

RƯỢU SÂU CHÍT.
Đến với Tây Bắc sẽ là thiếu xót nếu như không thưởng thức một loại rượu ngon nổi tiếng mà người dân địa phương gọi nôm na là rượu sâu chít.
           
Đây là loại rượu phổ biến nhất ở vùng phía tây bắc tổ quốc...các dân tộc như Dao, Nùng, Tày, Thái, Giáy…đều sử dụng nó....

Về tên gọi theo như người dân địa phương thì Thức uống này còn có tên gọi khác là Bạch trùng thảo, Đông trùng hạ thảo. Xuất xứ của hai cái tên chữ cũng như tên gọi nôm na đều xuất phát từ một loại sâu ngâm rượu. Chít là tên một loại sâu sống trong thân cây chít- cây bông đót, mọc hoang ở các triền núi đá vôi nối tiếp nhau trải dài bất tận ở miền Tây Bắc. Bạch trùng thảo là loại sâu trắng ký sinh trong loài cỏ lau. Đông trùng hạ thảo là loại sâu mùa đông chỉ là ấu trùng ở nụ mầm cây chít, nhưng sang mùa hạ phát triển thành sâu, chờ đợi đến ngày chui ra khỏi thân cây chít để hóa thành bướm, mở đầu cho một vòng đời mới…
Hương vị của rượu sâu chít không có vị tanh và cực kì đậm đà. Điểm đặc biệt của rượu sâu chít là ngâm với rượu San Lùng, hay các loại rượu khác như Mường Khương, Bắc Hà, Mai Hạ… uống nhiều hay ít đều không nhức đầu. Hơn thế nữa, nếu lỡ uống say, khi tỉnh dậy vẫn thấy tinh thần sảng khoái, người khỏe ra sau một giấc ngủ dài.đó là điểm thu hút bất kì vị khách nào khi thưởng thức nó.

CƠM LAM

Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát tinh tế khác hẳn cơm lam ở hà nội hay đâu đó. Nguời dân tộc phía bắc từ Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái đều làm cơm lam. Ngoài cơm lam, họ còn có cả cá lam, chim lam, rau quả lam... Phải thừa nhận làm đồ ăn lam là một nghệ thuật tinh tế đặc biệt.

CHÉO – MÓN ĂN ĐẬM ĐÀ HƯƠNG VỊ TÂY BẮC:


Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được Chéo, giống như một dạng muối vừng với người Kinh.,1 loại gia vị hấp dẫn Quả Mắc Khén sau khi thu về, bắc chảo rang nóng. Tiếp đó, đưa vào giã thành bột mịn. Tuy nhiên để chế ra được hương vị thơm phức, chuyên dùng ăn với xôi nếp nương, còn phải qua nhiều công đoạn khác. Đó là dùng ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang, rau mùi tầu xắt nhỏ rang khô, tất cả đều giã thành bột mịn. Sau khi trộn đều hỗ hợp trên thì tạo thành Chéo, một thứ bột mùi thơm hăng hắc nhưng lại dịu như vị ô mai và phảng phất chất núi rừng, thơm cay nồng nàn như hương hồi, quế.
 Và còn rất nhiều món thú vị khác như:
Món cá nướng: Người ta dùng các loại cá bản to như chép, mè, trôi, trắm..., loại to khoảng 1 đến 1.5kg mổ đằng lưng, bỏ ruột, để ráo nước, sau đó xoa một lượt muối rang nổ vào bên trong cá: Mắc khén, ớt tươi nướng, nghiền nát, hành tỏi, rau thơm rau mùi thái nhỏ, tất cả trộn đều nhồi vào bụng cá, để một lúc cho ngấm gia vị, cá cứng; cặp dọc cá, nướng trên than hồng. Cá chín dậy mùi thơm rất riêng, rất độc đáo.
Tục ngữ người Thái có câu: “Pay kin pa, má kin lẩu” (đi ăn cá, về uống rượu); hàm ý bữa cơm tiễn người đi (chia tay) thì cần phải có cá, bữa cơm đón người về (sum họp) thì cần phải có rượu. Xem thế đủ biết những món ăn chế biến từ cá nói chung, món lạp cá nói riêng, có vai trò nhất định trong đời sống giao tiếp của xã hội Thái. Nó mặc nhiên đi vào vốn văn hoá dân gian, cả trong văn hoá ngôn ngữ lẫn văn hoá ẩm thực...
Món gà luộc chấm chéo tắp: (gan gà luộc chín trộn với gia vị, tiêu gừng, muối rang nghiền nát) và bát cáy mọ. Cáy mọ là món thịt gà tra đủ các thứ gia vị, gói lá nướng vùi tro, miếng ăn thơm mềm, béo ngậy mà không ngấy.
Trong văn hóa ẩm thực, người Tây bắc  giản dị, không mâm cao, cỗ đầy, không nem công, chả phượng. Người ta chú ý đến hương vị, cái chất của món ăn mà ít chú ý đến mỹ thuật bày biện, màu sắc của món ăn. Họ xem ăn uống là dịp để thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng, không lấy ăn uống làm chính mà lấy sự vui làm trọng. Thông qua việc ăn uống, người Tây Bắc thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng. Ăn uống là một cách bày tỏ tình cảm, lấy làm nguồn vui trong cuộc sống.
Trang phc:
Dân tc Thái:
Để tạo ra một bộ y phục Thái, không chỉ là công sức trồng bông, chăn tằm, dệt vải, nhuộm màu, cắt may, thêu, người Thái còn phải giỏi nghề kim hoàn tạo ra các đồ trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, xà tích, cúc bạc...

Khuyên tai ca dân tc Thái đen

Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái thể hiện rõ nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Một bộ trang phục nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích..
 Xửa cỏm (áo ngắn bó sát người có hàng cúc bướm) có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm thành chiếc áo đặc trưng của bộ nữ phục Thái. Theo quan niệm dân gian Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm là tượng trưng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo nên sự trường tồn của nòi giống.
Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp cưới xin, hội hè. Xửa luổng là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một dành biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải.    




Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy ; chưa chồng không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và mô-típ hơn Thái Trắng.


Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn piêu. Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo léo của mỗi cô gái. Piêu tết 3 sừng là piêu thường dùng, piêu tết 5 hay 7 sừng là piêu sang, dùng làm quà biếu, đội lúc bản mường có hội hè, cưới xin.  Khăn Piêu là đặc trưng của người dân tộc Thái với đường nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ, nó thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính thật quyến rũ.


chiếc khăn piêu ca người thái

So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn.
Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo...


Trang phục Thái phản ánh rõ nét đặc điểm của cư dân nông nghiệp trồng trọt, sự chinh phục, tìm tòi các nguyên liệu trong thiên nhiên để tạo ra trang phục đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Trang phục vượt qua cả giá trị vật chất thuần túy của nó thể hiện lối sống, quan niệm thẩm mỹ, đạo đức, tư tưởng xã hội, tín ngưỡng... Trang phục là sự phát triển rất cao của trình độ thẩm mỹ dân gian, các hoa văn được tạo hình độc đáo, xử lý màu sắc tinh tế, hài hòa mang đặc trưng tộc người khiến trang phục người Thái ở bất cứ nơi đâu cũng có vẻ đẹp riêng. Nó phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, đồng bào Thái nơi đây đã đưa vào trang phục của mình những hoa văn là cả một thế giới động, thực vật phong phú. Do xen kẽ của các nhóm Thái khác nhau mà trang phục của họ phần nào cũng thể hiện ảnh hưởng của nhau. Nhưng tất cả họ đều rất tự hào về bản sắc riêng của mình và không ngừng bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tộc người. Góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Dân tc Dao:
So với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ...
Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Duy nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của người Dao Tiền phía bắc dài hơn váy của người Dao Tiền phía nam). Áo của người Dao Tiền gồm hai thân trước, nẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết hình gấu, chó. Đây cũng là ý niệm xa xưa gián tiếp nhớ về thủy tổ của dân tộc Dao. Ở đó có hình Bàn Vương, con chó ngũ sắc - đã có công giết giặc được vua gả công chúa cho sinh con đẻ cái, trở thành dân tộc Dao ngày nay, áo thường có bộ khuy quý bằng bạc hình tròn chạm khắc tinh vi. Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí bằng núm bông hoa đỏ như nắm tay nổi bật trên nền áo chàm xanh đằm thắm.


Yếm của người Dao khá đơn giản, chỉ là một vuông lụa trắng đính một miếng vải hình tam giác làm cổ yếm. Xà cạp có hình hoa văn móc câu hay răng cưa hình chim. Để bộ trang phục thêm hoàn mỹ, họ thường dùng nhiều loại khăn vấn đầu (có 3 loại khăn: khăn vuông, khăn chữ nhật và khăn dài). Trong đám hát ví, họ thường dùng khăn thêu trắng dài chừng 1,2m, rộng 30-40cm, hai đầu gồm hai mảng hoa văn hình vuông tạo thành cảm giác mềm mại. Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: Vòng cổ, nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán cầu, hình sao 8 cánh. Có những cô gái Dao đeo 10 chiếc vòng cổ, 12 chiếc nhẫn, cùng những chiếc khuy bạc đường kính 6-7cm, nổi bật trên màu áo chàm.


Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng là một bí quyết giúp mái tóc của những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong con mắt mọi người. Trong không khí tưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta dùng điệu hát lời ca làm cuộc sống thêm thăng hoa. Đáng chú ý là bộ trang phục của cô dâu, phải mất 3 năm cô gái Dao mới hoàn thành bộ trang phục cho mình. Trang phục chú rể kín đáo, ít phô bày, thường được may bằng các loại vải màu sậm phần nào thể hiện nam tính. Riêng trang phục của ông thầy cúng có khác đôi chút, mũ được làm bằng bìa cứng, gồm nhiều bức tranh ghép lại cắt dán theo hình quả núi dài khoảng 25cm. Áo màu đen được thêu hoa văn màu đỏ.

Dân tc H’Mông:
Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.    

Trang phục nam:   

Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí loại năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.

Trang phục nữ:
Người H’Mông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ôống tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Phụ nữ Hmông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Hmông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Hmông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Hmông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục của người H’Mông chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Kiến trúc:
Nhà sàn Thái:

Mô hình nhà người Thái Trắng (Lai Châu, Việt Nam) - Phòng trưng bày Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Nhà sàn của người Thái - “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách quan được cách điệu hóa đạt tới trình độ  thẩm mỹ cao.
Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa “Pua tấu” dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình rùa đứng.
Người Thái có câu: “Khửn song phái/ cái song đay” - tức là mở hai cửa/ đi hai đường. Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: “Tang chan” và “Tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. “Chan” là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa... cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ, thường là 9 bậc, ứng với 9 vía.
Cầu thang dành riêng cho nam giới - “tang quản” ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.
Nhà sàn của người Thái cổ có hai bếp lửa - “Chík pháy”. Bếp lửa phía “tang quản” dành cho người già, bếp chính ở phía “tang chang” dành cho nữ giới. Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa hồng trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần cho mỗi con người.
Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thanh dành cho nam giới gọi là “quản”. Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - “hỏng hóng” và cột thiêng - “sau hẹ”. Trên cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - “sam huống khẩu” và ba nhánh rau thì là - “sam hóm chík”... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng của tô tem giáo thì còn mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân.
Ngôi nhà sàn của người Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: “Hướn đi tẳng cang tèn/ Hướn én tẳng cang vên/ Lốm luông pặt bấu chại/ Lốm hại pặt bấu pay” - Nghĩa là: Nhà tốt dựng nơi cao ráo/ Nhà đẹp dựng giữa mường/ Gió to thổi không xiêu/ Bão lớn không lay động.
Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm ván hình răng cưa làm chấn song cửa sổ, trên “khau cút” của nhà người Thái đen. “Khau cút” vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén bằng dui - “khau cút tẻm lai bua/ sinh dua tẻm lai én/ nhả ca bén tin con”, đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của ngôi nhà sàn người Thái đen Tây Bắc.
“Khau cút” là hai tấm ván đóng chéo nhau hình chữ X trên đòn nóc - “Tiêu bôn”, trước hết để chắn gió - “pảy lốm” cho mái tranh hai đầu hồi nhà. Những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm bông sen cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và tám hình trăng khuyết hướng vào nhau so le trên “khau cút”. Giải thích về biểu tượng “khau cút” có nhiều ý kiến khác nhau như: Đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng của một nền văn minh lúa nước, hoặc đó là những búp cây guột - “cút lo ngong” có nhiều ở Tây Bắc, hay gắn với cuộc thiên di tìm miền đất hứa của người Thái, anh em luôn nhớ về nhau... Dù có cách giải thích thế nào, thì khi bắt gặp hình “khau cút” trên nóc nhà sàn, là mỗi người Thái đen Tây Bắc lại thêm ấm lòng, nhớ về anh em, bản mường yêu dấu.
Trên bậu cửa sổ thường chạm hình đôi thuồng luồng - “tô ngựa”, linh vật làm chủ sông, suối, biểu tượng của sức mạnh và gia đình hạnh phúc. Trên các chấn song cửa sổ chạm các hoa văn, họa tiết mô phỏng thiên nhiên theo hình đối xứng hoặc lặp lại. Đó là những hình thoi như quả trám, hoa ban - “bók ban”, búp cây guột - “cút lo ngong”... Nhà sàn người Thái trắng - “Táy khao” thường có lan can xung quanh hoặc trước nhà rất đẹp. Thiên nhiên được phản ánh một cách sống động, thể hiện tinh tế quan điểm về vũ trụ, âm dương ngũ hành và ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Chẳng những mang sắc thái dân tộc đậm nét nhà sàn của người Thái Tây Bắc còn là nơi hội tụ những giá trị vật chất và tinh thần.
Đây là nơi chứng kiến buồn vui của bao thế hệ để rồi mỗi người hiểu thêm về quá khứ, hiện tại và  tương lai, trân trọng nâng niu những tài sản vô giá cả về vật chất và tinh thần đã trở thành truyền thống tốt đẹp và phấn đấu vì một ngày mai tươi sáng hơn.
Quanh bếp lửa hồng, đã bao lần gia đình họ tộc quây quần nghe người già hát, ngâm, kể - “khắp” những điều răn dạy về đạo lý làm người - “Quámk son cốn”, chuyện bản Mường - “Quámk tố mướng”, bước đường chinh chiến của cha ông - “Táy púk sấc”, Tiễn dặn người yêu - “sống chụ xon xao”... cùng nồng say trong các điệu “xòe” ngày mừng cơm mới, lên nhà mới, hội cưới, ngày xuân...
Nhà sàn còn là nơi con trai đan lát, thổi khèn, pí... con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa... đã được khái quát trong câu thơ: Trai biết đan chài/ gái biết dệt vải - “nhinh hụ tháp phải/ trái hụ san he”.
Các bản Thái thường quần tụ ven suối chân đồi. Những ngôi nhà sàn bình dị ấm cúng, khói lam thơm thoảng gió đồng, lách cách tiếng thoi đưa, đâu đây da diết một điệu khèn câu khắp, lốc cốc tiếng mõ trâu đàn về bản... tất cả làm nên một vẻ đẹp trong sáng đậm tình như một bức tranh sơn thủy, dân dã nguyên sơ của một nền văn hóa.

Nhà sàn Dao:
Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao

Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.
Về cấu trúc, nhà của người Dao được làm bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản nhưng được kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng như các dân tộc khác.

Nhà sàn H’ Mông:
Người H'Mông chỉ ở nhà trệt, làm bằng gỗ pơ mu, thường có ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới.. Công việc làm nhà là của đàn ông. Dân bản thường gíup nhau dựng nhà. Họ chỉ dùng búa và dao. Hầu hết các bộ phận được liên kết với nhau bằng dây buộc
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà. Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyền của người Mèo. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được đặt trước mặt nhà.lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà còn có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.


Ngh thut thanh sc và hình khi:
Như chúng ta đều biết Nghệ thuật thanh sắc bao gồm các loại hình: ca múa, nhạc kịch....vs đặc điểm chung coi trọng thanh và sắc.Nghệ thuật hình khối bao gồm hội hạo và điêu khắc....
Ta sẽ phân tích nghệ thuật thanh sắc và hình khối ở bốn phương diện:
+Tính biểu trưng
+Tính biểu cảm.
+Tính tổng hợp.
+Tính linh hoạt.
Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc và hình khối:
 Cũng dựa trên những đặc điểm về nghê thuật thanh sắc và hình khối của Việt Nam nói chung, Tây bắc cũng có những đặc điểm khá thú vị và đáng để lưu tâm. Mục đích của chúng là thông qua những biểu tượng ước lệ đó để diễn đạt,làm bật nội dung có khi là cảnh sinh hoạt một lễ hội, một cảnh đi làm đồng ...,chứ không phải hình thức, là cái cốt lõi chứ không phải cái phụ trợ....
Giống như trong ngôn từ, tính biểu trưng trong nghệ thuật tranh sắc của vùng Tây Bắc trước hết biểu hiện ởnguyên lí đối xứng,hài hòa…....(điểu này cũng nằm trong tính biểu trưng trong nghệ thuật thanh sắc việt nam)...
Một vài ví dụ điển hình.như ở dân tộc Thái:
Đồng bào thái đặc biệt thích ca hát .mà nổi bật trên đó 1 biểu tượng nổi bật một loại hình sân khấu đặc trưng đó là khắp .
Khắp là một thể loại hát dân gian nên các điệu khắp, lời khắp cũng từ xưa truyền lại, sau này thế hệ con cháu phát triển thêm nhiều bài thơ, bài khắp mới làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của dân tộc mình và cũng để biểu lộ nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lứa tuổi khác nhau. Đó là 1 ví dụ điển hình để thấy được tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc và hình khối.
Khắp còn là hình thức đối đáp giữa nam và nữ rất phổ biến, điều này đã thể hiện được nguyên lí đối xứng hài hòa, một nam rồi lại một nữ,... Và ngay cả trên lời hát khắp cũng thể hiện rõ điều đó. Lời hát khắp là những bài thơ, câu nọ vần với câu kia hoặc thể loại văn vần,từng câu thơ( câu nhạc ) cũng thể hiện sự hài hòa trong đó. Câu chẵn nổi bật là 6-8.
Một điều nổi bật đó là khi hát khắp thì có thể kết hợp với những điệu múa như như múa xoè, múa sạp, múa quạt độc đáo với các nguyên lí chính như:
+Thượng tả tương phù :động tác phải có trên có dưới gốc ngon đầu đuôi tiến lùi phù hợp vs nhau để tạo nên một chỉnh thể .
+Tả hữu tương ứng.:động tác phải có phải trái trước ssau ứng vs nhau để tạo nên 1 sự hài hòa.
+Phi sấu tương chế:sự hài hòa còn được tạo nên bởi sự tương phản giữa động tác rộng và hẹp dày và mỏng
+ Nội ngoại tương quan:phải có sự tương quan giữa nội tâm và ngoại hình nhân vật giữa ngoại hình vs thiên nhiên xung quanh
.Và một nguyên lí thiết yếu và làm nên cái đặc sắc của hát khắp đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguyên lí trên với nhạc cụ đệm cho lời khắp gồm khèn bè, các loại pí: pí ló, pí pặp, pí thiu, mắc hính, tính tẩu....hay các dụng cụ hỗ trợ như sạp quạt...
Và cái nội dung chính mà người dân tây bắc nói chung và người dân tộc Thái nói riêng muốn thể hiện qua hình thức hát khắp chính là để ca ngợi những nét đẹp của quê hương, đất nước, những công việc lao động thường ngày, thăm hỏi, chúc tụng và đặc biệt là hát giao duyên.
 Nói đến dân tộc Thái ta còn không thể không kể đến múa xòe…cụ thể hơn là múa xòe nón. Các cô gái Thái trong điệu xoè nón với chiếc nón trong tay lúc chạm vào lúc mở ra từ từ từng cánh như bông hoa trắng muốt. Có lúc nón lao nhanh trên đầu, lúc lại nhẹ nhàng quay trên vai, nghiêng nghiêng bên má, khi e thẹn xoay tròn trước ngực rồi lại dập dờn như cánh bướm mùa xuân.một hình tượng đập chất nghệ thuật để biểu thị nội dung ở đây là cảnh đón xuân.
  Trong nghệ thuật hình khối tính biểu trưng được thể hiện rất đắc lực để nhấn mạnh nội dụng,đề tài nhắm đến với đầy đủ sự trọn vẹn. Điều này được thể hiện rõ qua những họa tiết đặc sắc và điêu khắc của người dân vùng tây bắc như Thái, Dao, H’mông,…
Ví dụ diển hình là  chiếc khăn Piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ….biểu trưng cho sự vui vẻ phấn khởi ,có nhiều loại khăn piêu được dùng trong những dịp khác nhau như dịp đón xuân, thu hoạch mùa màng hay cả ngay trong đời sống mỗi loại khăn piêu với nhưng họa tiết, hình khối khác nhau…
Hay như dân tộc Dao, trang phục của họ đậm chất biểu trưng về truyền thống. Ví dụ như Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần áo ngắn hoặc dài màu chàm và  đầu đội khăn…,rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây..
  Trong cấu trúc và hình dáng nhà ở cũng thể hiện tính biểu trưng về mặt hình khối Ví dụ như với dân tộc Thái. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày - Nùng. Còn nhà Thái Đen lại gần với nhà của các cư dân Môn - Khơ me. Tuy vậy, nhà Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn - Khơ me. Nhà Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau. Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và Khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày - Nùng. 

Tính biểu cảm của nghệ thuật thanh sắc và hình khối.
Bên cạnh tính biểu trưng nói trên, nghệ thuật thanh sắc vùng Tây Bắc vẫn thể hiện sự mạnh mẽ dứt khoát,tiết tấu nhanh trọng vui…..lại vừa thể hiện cả yếu tố trữ tình  với tốc độ chậm cũng rất chú trọng đến luyến láy ,gợi tình cảm.vì vậy nó mang cả 2 yếu tố trọng âm và trọng dương.
Với người Thái điều này được thể hiện rõ hơn cả. Các điệu hát của dân ca Thái thường dùng tiếng đệm: lả ơi là ha ơi, ây dơ ây dơ, ia oi I dơ… Giai điệu trong hệ thống thang 3, 4, 5 âm (Do-Fa-Sol, Do-Re-Fa-Sol, Do-Re-Fa-Sol-La) gần với âm nhạc Miến Điện, Lào. Và thêm vào đó cái dàn nhạc không đồ sộ như 1 buổi trình diễn của Bettoven, chỉ đơn giản là những dụng cụ như kèn môi, các loại pí,… Một số điệu múa hát dân tộc Thái được phổ biến rộng rãi như: Xoè Thái, Ngày Mùa, Múa Sạp… tính chất âm nhạc nhìn chung trong sáng, vui tươi, trữ tình, tiết điệu rõ ràng, nhịp độ từ vừa phải đến nhanh,thể hiện trong đó là sự kín đáo của người phụ nữ.(vì mặc đồ truyền thống khi biểu diễn).
 Trong nghệ thuật hình khối, tính biểu cảm cũng thể hiện khá đậm nét.
Như đã nói ở trên, với dân tộc Dao, dân tộc Thái hay H’Mông.. họa tiết trên trang phục của họ rất gần với thiên nhiên, cảnh vật, luôn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu nam nữ, ngợi ca cuộc sống,… Vì vậy những sản phảm của họ luôn để lại ấn tượng trong lòng du khách, và có thể còn có giá trị về mặt kinh tế.

Tính tổng hợp của nghệ thuật thanh sắc và hình khối.
Khác với phương Tây, trong các loại hình giải trí không có sự phân biệt các loại hình ca múa nhạc tất cả đều có mặt trong 1 vở diễn, sân khấu Tây Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung là sự tổng hợp của mọi thể thơ, mọi loại văn, mọi điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ,…mọi thứ đan xen với nhau như thực tế ngoài đời…
Một loại hình nghệ thuật là hát then thể hiện rất rõ đặc trưng này .
Hát then là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp có từ lâu đời và đặc biệt phổ biến ở vùng dân tộc Tày- Nùng. Đây là loại dân ca gắn với nghi lễ cúng tế, đậm nét màu sắc tín ngưỡng. Then là tổng hoà các loại hình nghệ thuật nhạc- hát- múa- mỹ thuật và trò diễn, chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình dân ca khác như: mo, sli, lượn, phong slư, tào… Nó thể hiện một sự tổng hợp rất rõ ràng.
Then là thiên (trời), là tiên (bụt) tức là của nhà trời. Ngày xưa hát then được các bà then, ông then diễn xướng trong lễ cầu an, sinh nhật, giải hạn, bói toán, cầu mùa, tống tiễn, gọi hồn gọi vía, mãn tang, thậm chí cả chữa bệnh. Đối với những dịp trọng đại như cấp sắc cho người làm then hay hội then thì có khi phải kéo dài đến 3 ngày 3 đêm mới xong, gọi là lẩu then. Làn điệu then không nhiều nhưng lời bài then rất phong phú như then hát khoăn (vừa hát ngâm nga, vừa đánh đàn tính và xóc nhạc). Có thể xem hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ. Điều này cũng thể hiện rất rõ tính biểu trưng ,biểu cảm.
Ở nghệ thuật hình khối, ta có sự tổng hợp của cả biểu trưng và biểu cảm ….như việc sử dụng trống đồng trong việc ma chay, lễ “sống chết”,… Người dân Tây Bắc quan niệm rằng khi chết thì người đó sẽ về với mường trời, vì vậy nó là sự tổng hợp của cả biểu trưng và tả thực…người chết cũng có nhà mồ giống như 1 ngôi nhà thật cùng với nhiều biểu tượng khác,…

Tính linh hoạt ở nghệ thuật thanh sắc và hình khối.
Nghệ thuật thanh sắc của vùng Tây bắc còn cho thấy rõ tính linh hoạt của nó. Điều này được thể hiện ở một số đặc điểm: Âm nhạc không đòi hỏi mọi nhạc công phải chơi giống hệt nhau….tất cả chỉ cần theo một quy định nhất định; Chỉ với một loại hình sân khấu là hát khắp (dân tộc Thái) mà linh hoạt biến hóa trong bất kì trường hợp nào.
Ví dụ như:
Khắp Ỉn Sao: Lối hát đối đáp của thanh niên nam – nữ Thái trong những đêm trăng sáng, nhàn rỗi để tìm hiểu, tâm sự. Trong khi hát, nam dùng Pí Pạp (một loại sáo), nữ dùng Hừn Toong (một loại đàn môi) để đệm theo.
Khắp Kin Lẩu, Kin Khẩu: là lối hát vui trong các buổi tiệc rượu, cưới hỏi… Có nhiều điệu khác nhau như hát Mời Rượu, hát Chúc rượu, hát Mời lẩu, hát Sao Sên… tùy theo địa phương. Nội dung trữ tình, nét nhạc duyên dáng, lối ca dí dỏm, tinh tế.
Khắp Hạn Khuống: là loại dân ca phong tục, hát trên sàn cao (gần như một loại sân khấu lộ thiên) của thanh niên nam – nữ. Đây là lối hát đối đáp giữa những cô gái ngồi kéo sợi trên sàn vào các buổi tối, thanh niên trong bản đem khèn, tính tẩu, pí pặp đến hoà ca và tỏ tình.
Lối hát này có tổ chức gần như hát Quan Họ của người Kinh, là hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân gian do phụ nữ đứng ra tổ chức. Mỗi hạn khuống có từ 5 đến 10 người, coi như những hội viên chính thức, gọi là “sao lắc sây”. Hạn khuống do một người phụ nữ giỏi hát, có tài ứng đối và là người tổ chức của hạn khuống đứng đầu gọi là “Me tổn” hoặc “tổn khuống”. Khi hạn khuống dựng xong, Me tổn mời dân bản ăn mừng và mời thanh niên nào hát hay, ứng đối giỏi nhất bản lên hạn khuống hát khai mạc, mở đầu các buổi tối sinh hoạt ca hát Khắp Hạn Khuống. Mỗi bản có thể có nhiều hạn khuống. Qua sinh hoạt Hạn khuống, biết được bản to hay nhỏ, giàu hay nghèo, phong trào ca hát mạnh hay yếu…
Nội dung của Khắp Hạn Khuống là ca ngợi thiên nhiên, cổ vũ tinh thần yêu lao động, đề cao tính trung thực, khuyên làm điều lành, tránh cái ác, nói về tình yêu nam nữ… Tính chất âm nhạc trữ tình, trong sáng.
Khắp Long Tong: là điệu hát khi lao động, trên ruộng nương, thanh niên nam nữ vừa hát đối đáp vừa làm nương. Tính chất âm nhạc trữ tình, trong sáng và có ảnh hưởng đến loại hát nghi lễ.
Khắp Xe (hình thức hát Múa): Khắp xe là loại tình ca, có nhiều điệu khác nhau, khi hát có múa. Nhiều bài ở loại này được phổ biến rộng rãi như: Tăng Xạ, Inh Lã Ơi, …
Khắp Sên: Khắp Sên là loại hát có tính chất thờ cúng tôn giáo do các thầy mo, thầy Then chuyên hát mỗi khi có người mời đến nhà để cúng then. Khi hát thường có Pí mo (hoặc Pí Một Lao – một loại sáo) đệm theo. Có 4 thứ khắp Sên, mỗi thứ gồm nhiều điệu hát khác nhau:
Khắp Sên Hươu: hát mừng nhà mới.
Khắp Sên Bản hoặc Sên Mường: cầu phúc cho dân bản thịnh vượng.
Khắp Một Lao: cầu cho người ốm chóng khỏi, người chết được lên thiên đàng.
Khắp Một Nhinh hoặc Khắp A ni: cầu cho trẻ nhỏ ốm chóng khỏi, bị chết được lên cõi trên.
 Và ngay trong khi hát…vì chủ yếu là lối hát dao duyên đối đáp vì vậy các nghệ nhân linh hoạt trong việc cho thêm câu hát hay làn điệu nào đó thể hiện sự ứng phó linh hoạt, vì vậy các loại hình giống như thế này có rất nhiều các dị bản khác nhau.
Tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ sân khấu biểu diễn không cầu kì không hoa lệ như phương Tây, sàn diễn của dân tộc Tây Bắc là bất kì chỗ nào rộng rãi hợp lý với người dân.
Trên đây là tất cả những điểm đáng chú ý trong nghệ thuật thanh sắc và hình khốí của Tây Bắc. Tuy nằm trong tổng thể nghệ thuật thanh sắc và hình khối của Việt Nam nhưng có những đặc điểm rất riêng, làm nên sự đa dạng cho văn hóa dân tộc.

Văn hóa ngh thut:
Lĩnh vực văn hóa thể hiện cái nhìn thẩm mỹ của nhân dân Tây Bắc có nhiều nét độc đáo và trở thành một trong những dấu hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng. Riêng về lĩnh vực này đã phải cần đến một công trình lớn mới có thể trình bày cho cặn kẽ được. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp, bác học chưa xuất hiện. Ở người Thái tuy đã có một vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ ca nổi tiếng và mặc dầu dân tộc này có chữ viết cổ, nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Mỗi dân tộc trong vùng đều có một kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có và đủ thể loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các áng văn trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể trong đám cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười v.v... ở một số dân tộc có cả truyện thơ dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (H'mông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v... Người Thái còn có cả truyện thơ lịch sử, kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc như bản sử ca Dõi theo bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc) hay Lịch sử bản mường (Quán tố mướng) ngay đến lời hát của các Mo-then trong lễ cúng người ốm cũng là một áng du kí ca đầy hình tượng đẹp được diễn tả bằng văn phong trau chuốt. Bộ phận người Mường Tây Bắc cũng có những thiên sử thi như ở Hòa Bình, Thanh Hóa. Ngoài ra, do đã tách ra từ mấy thế kỉ và sống giữa những cộng đồng tộc người khác, nên người Mường Tây Bắc còn có những áng văn hiếm thấy ở các vùng Mường như "vườn hoa - Núi cối" chẳng hạn. Các truyền thuyết của từng dân tộc, một mặt khẳng định nguồn gốc của họ với những nhóm đồng tộc cư trú ở các vùng văn hóa khác ; mặt khác lại gắn bó với vùng đất và trình diễn lịch sử của họ trên mỗi đất miền này, và góp phần làm nên dấu hiệu đặc trưng của vùng văn hóa Tây Bắc. Có thể gặp những truyền thuyết như thế trên từng bước chân. Đây là nơi chúa Thái và chúa Xá thì bắn xem tên ai xuyên vào đá, kia là nơi Nàng Han (một Gianđa Thái) tắm (Suối Nàng Han). Dãy núi ba chỏm kia là thi hài hóa đá của ba dũng tướng quên mình bảo vệ quê hương v.v.. .. Và đặc biệt là những truyền thuyết về hoa ban, dân tộc nào cũng có và cũng thắm đượm tình người. "Xòe" là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc. Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của già trẻ, gái trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Nhưng cũng có Xòe điệu của người Thái trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu, Phong Thổ. Tương truyền có đến 32 điệu xòe do các cô thanh nữ múa trong tiếng tính tang dịu dàng của hai chàng trai. Xoè vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu nhẹ nhàng, tinh tế bấy nhiêu. Người H'mông nổi tiếng về các điệu múa khèn, đá châm hùng dũng của nam giới. Người Khơmú và Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc mông, lượn eo. Còn điệu Tăng bu (dỗ ống) là sở hữu của người Laha. Và đến với người Mường thì phải được xem múa bông. Riêng điệu múa Xạp, trừ người H'mông còn dân tộc nào trong vùng cũng có, mỗi nơi một vẻ riêng. Có thể xem nghệ thuật múa dân tộc là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Dường như có một sở thích âm nhạc chung cho hầu hết các dân tộc Tây Bắc, một sở thích không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc. Nếu sưu tầm và gộp chung lại thì có đến vài chục loai hình thuộc hệ nhạc cụ này. Nhiều loại đã được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn H'mông. Ngoài ra, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng như cây Tính Tảu Thái, đống ôi Mường, chưn may Khơmú, đàn tròn và đàn ba dây Hà nhì v.v . . . ở nhiều dân tộc khác, thơ ca Tây Bắc được sáng tác để hát, chứ không phải để đọc. Những truyện thơ, những áng sử thi được trình diễn bằng cả những liên khúc âm nhạc mà nhiều bài trích ra từ đó đã được cả nước biết đến (inh lả ơi).
Người Tây Bắc có sở thích trang trí trang phục, chăn màn, đồ dùng với các sắc độ của gam màu nóng ; rất nhiều màu đỏ, xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, rồi da cam, tím và nếu có xanh thì phải là xanh da trời tươi. Phải chăng giữa mênh mông xanh lá cây, những màu ánh lên như những điểm sáng, khẳng định sự có mặt của con người? Còn họa tiết, bố cục, phối màu của trang trí thì rất nhiều và phong phú, đến nỗi chỉ một chiếc khăn piêu Thái, một bộ nữ phục H'mông, Lô Lô, Dao đỏ, một mặt chăn Mường, một điểm màn Kháng cũng đủ tầm cỡ để phải làm riêng một chuyên khảo. Những nét chung của cả vùng vẫn không hề làm mất đi tính riêng của văn hóa dân tộc.

Tôn giáo và tín ngưỡng:
Các dân tộc trong vùng Tây Bắc đều có tín ngưỡng "mọi vật có linh hồn" (animisme), một loại tín ngưỡng mà mọi dân tộc. trên hành tinh đều trải qua. Có đủ loại "hồn" và các loại thần sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió. Các bộ phận trên thân thể con người cũng có hồn. Người Kinh cho rằng có ba hồn bảy vía (nam) và ba hồn chín vía (nữ). Người Thái có đến 80 hồn (Xam xếp khoăn mang nả. Hả xếp khoăn mang lăng), như hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán v.v... Người chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên. Do chỗ mọi vật đều có hồn, nên cần phải cư xử với chúng như trong quan hệ với người. Vậy có hồn tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử của người với chúng. Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền thì đây là cách chiếm lĩnh thiên nhiên và thực tại của đồng bào, với hi vọng có thể nói chuyện", có thể "thương lượng thậm chí khi cần thì cầu xin chúng. Bằng cách đó, đồng bào thiết lập được mối quan hệ với mọi vật và với tổ tiên, đặt con người vào tống thể môi trường không gian và thời gian, tạo nên một cân bằng trong tâm thức. Con người hội tụ vào cuộc sống hiện hữu của mình các miền thời gian : quá khứ, hiện tại, tương lai; và các chiều không gian, thiên nhiên, môi trường, con người, xã hội. Đó chính là mối quan hệ đa diện, đa phương đảm bảo cho tính hợp lí và sự ổn định tất yếu của cuộc sống con người.
Những dòng suối cũng đóng vai trò quan trọng trong tâm linh của các dân tộc vùng Tây Bắc. Suối được coi là vật nữ tính : "con suối" (Me nặm). Suối lại là nơi trú ngụ của thần nước, thường ở những đoạn nước cuốn thành vực (Vắng năm). Hàng năm, khi làm lễ cúng bản (Xên bản) vào mùa xuân, người ta tổ chức ngay trên bờ vực nước đó. Có một tâm thức tín ngưỡng với nước là đặc điểm chung của các tộc người làm nông nghiệp. ở người Thái, tâm thức đó được thể chế hóa bằng hình tượng thần nước dưới dạng thuồng luồng và bằng các lễ cụ thể. Con suối và cánh đồng, những sản phẩm sáng tạo và chiếm lĩnh của con người cũng đã đi vào thơ ca, âm nhạc như những hình tượng đẹp của cảm xúc thẩm mĩ như lời bài dân ca sau :
Đêm trăng sáng
Tâm hồn em như muốn phiêu diêu
Chơi tha thẩn bên bờ cát trắng
Bờ cát trắng lấp lánh ánh trăng
Chờ tiếng sáo anh
Luồn qua sương, luồn qua chân núi
Đến với em trong ánh trăng ngời ngài.

Dân tc Thái:
Người Thái cho rằng sự sống của con người là do hồn và xác kết hợp với nhau hài hòa, cùng tồn tại. Nếu một trong hai yếu tố đó mất đi thì không có sự sống. Hồn thì do bà mụ (me bảu) nặn rồi cho vào khuôn đúc bởi năm chất là: kẻo, kók,sanh, minh, nén nghĩa là cốt, cách, thế, hồn, mệnh. Còn xác con người được cấu tạo bởi năm chất: nặm, pháy, đin, cắm, mạy nghĩa là đất, nước, lửa, vàng, cậy. Khi đúc xong. Khuôn hồn của mỗi người được gọi là thuổi bảu (bát bảu) được lưu giữ tại nhà kho của bà mụ nường trời (mướng then). Bà mụ cho hồn xuống trần gian tìm nhập vào xác dưới hạ giới để thành người với thời hạn là một trăm năm. Và khi bà mụ thả hồn xuống thì có hồn đi đủng đỉnh, nghỉ ngơi giữa đường, tạt vào quán xá… khi đến trần gian lại ngao du đó đây chán chê mê mải rồi mới nhập vào xác, vid thế mà chết yểu, chết non vì đã hết hạn làm người. Có hồn đi thẳng một mạch xuống trần gian nhập xác đầu thai ngay nên sống một trăm tuổi.
Còn việc sinh ra giới tính, tính tình, hình thể, tốt xấu thì họ quan niệm: bà mụ lấy năm chất: cốt, cách, thể, hồn, mệnh để đúc ra hồn của từng người nhưng lại không cân đong, đo đếm cụ thể về tỉ lệ giữa các chất mà tự làm theo ý thích của mình nên từ đó con người sinh ra có giới tính (nam, nữ, ái nam, ái nữ), và tâm lí, tính tình, ước vọng,… của mỗi người khác nhau. Con người không ai giống nhau, dù một cha một mẹ cũng vậy.
Con người có 80 hồn (pét síp khuân): 30 hồn phía trước, 50 hồn phía sau. Nếu hồn ở vị trí nào trên cơ thể xích mích, tự ái thì con người sinh ra mệt mỏi, buồn phiền. Nếu hồn rời ra khỏi vị trí của nó thì sinh ra ốm đau. Hồn mà rời hết khỏi xác thì người chết. Hồn người chết gọi là ma chết (phi tai), hồn rời khỏi xác gọi là ma hồn(phi khuân).
Hồn người chết chia làm 3 loại:
Loại tốt nhất trở thành đẳmtổ tiên, có nhiệm vụ trông coi, phù hộ, độ trì cho con cháu, được ăn giỗ, ăn tết hàng năm.
Loại hồn tốt thứ hai được lên niết bàn ở mường trời.
Loại hồn xấu thì được dải từ rừng ma tới dưới niết bàn trở thành ma lang thang (phi ha phi háo)
Cũng chính vì quan niệm ấy mà người Thái thờ rất nhiều loại ma, các loại ma ấy, theo nghiên cứu của ông Hoàng Trần Nghich – nhà Thái học, còn lưu lại trong sổ sách là 123 loại ma.
Những tục thờ cúng:
Xưa kia người Thái không ăn tết, không có chùa chiền, đình thờ, miếu mạo và cũng không quan tâm đến mồ mả.Người chết chôn xong được 3 hay trên ba ngày, khi đã gọi hồn về đẳm tổ tiên thì thôi không dòm ngó, quan tâm đến mồ mả nữa.
Hàng năm, người Thái có 4 ngày cúng, giỗ lớn là:
Sên huớn: cúng ma nhà, giỗ tổ tiên.
Pạt tống khảu mấu: giỗ cơm mới.
Hổm sánh: chuẩn bị cho tổ tiên chầu giời.
Sên kẻ: cúng giải tội, giải hạn.
Trong đời sống hàng ngày, người Thái rất quan trọng ma nhà, ma tổ tiên và linh hồn (phi hướn kắp phi luân). Vì vậy, cứ 10 ngày cúng tổ tiên một lần, người Thái gọi là Pát tống; chủ nhà tuy không ốm đau nhưng một năm cũng cúng vía một, hai lần; mỗi khi con người sầu muộn, mệt mỏi, ốm đau, người ta lại đi xem bói: hồn ra sao? Ma nào đến đòi ăn? để có hình thức cúng cho phù hợp.
Tóm lại qua số lượng các loại ma (phi), hồn (khoăn) và các loại cúng giỗ lớn của người Thái, ta có thể thấy hệ thống tín ngưỡng của dân tộc này vô cùng đa dạng và phức tạp. Bên cạnh những nét đẹp thể hiện bản sắc riêng của dân tộc Thái, các tín ngưỡng ấy còn có mặt trái với các hủ tục mê tín ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như mặt tổ chức xã hội của cộng đồng.
Dân tc Dao:
Tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu ấn của Nho giáo và Đạo giáo chính thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ trong cách phân định tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Đồng thời, Đạo giáo ảnh hưởng bao trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên (Bàn Hồ – Bàn Vương), được thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp sắc cho người làm thầy cúng... Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể xác, còn linh hồn mãi mãi bất diệt “quay về với tiên tổ”.
Đồng bào Dao có nhiều phong tục kỳ lạ như trong hôn nhân, Nam giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở luôn nhà vợ (nếu ở luôn nhà vợ thì phải đổi họ bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng để định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn; cổ và tay đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu, có cả thầy cúng, và thổi kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải qua nhà tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu phải “rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự chứng kiến của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay đoạn tuyệt với con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”. Sau khi vợ chồng lấy nhau, khi sinh con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa ra vào đều phải cắm lá kiêng không cho người lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người con gái không có tên trong chúc thư, không được thừa kế tài sản của gia đình.

Dân tc H’Mông:
Người H’Mông cũng có phong tục thờ cúng tổ tiên, đó là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã chết. Người ta tin rằng tổ tiên đã chết, che chở cho con cháu đang sống làm những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình và tiến hành những nghi thức nhằm thờ phụng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị trí gian giữa, nhiều dòng họ H’Mmông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20- 30cm. Nơi đặt bàn thờ là linh thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người Hmông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh… đối với hồn cụ, ông, cha ở thế giới bên kia.
Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người H’Mmông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt: "Xử Cả" là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người Hmông, gắn liền với sự giàu có, nhất là tiền bạc. Nơi thờ "Xử Cả" ở tấm ván hậu gian giữa nhà. Chỗ thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm 3 hoặc 9 lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng xử cả một lần vào đêm 30 tết, đồ cúng là một con gà trống màu đỏ.
"Bùa Đáng" (ma lợn) được thờ ở cột chính trong nhà, cột tượng trưng cho sự hưng thịnh và vận mệnh của gia đình. Ma lợn chỉ có chủ gia đình mới được cúng, vật cúng là lợn nái đã đẻ một lứa. Trong đời một người con trai phải làm lễ cúng cột chính 1 hoặc 2 lần, nhằm tưởng nhớ và làm tròn đạo hiếu giữa người còn sống đối với người đã chết. Cúng ma cột chính, theo quan niệm của người Hmông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Hmông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất.
"Xìa Mình"(ma cửa), có nhiệm vụ ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn các thành viên gia đình bỏ đi. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng vải đỏ dán trước cửa chính. Ma cửa thường được cúng vào dịp tết, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Lễ vật cúng là con gà trống, khi có điềm xấu chủ nhà phải cúng ma cửa bằng lợn- gọi là lễ cúng lớn.
"Hú Sinh" (ma bếp) có liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Do đó kiêng giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại lòng lò bằng đất, không được gõ và đánh vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không lấy tro trong bếp lò. Muốn nhấc chảo cám ra phải để một hòn đá vào giữa bếp, nếu không làm như vậy, gia súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị hình.
"Nhìu Đáng" (ma trâu), trong đời người con trai phải cúng báo hiếu bố mẹ, một lần. Vật cúng là trâu to, lớn, khoẻ mạnh. Lễ cúng tuỳ từng gia đình, dòng họ qui định, cúng ở trong nhà hay ở vị trí nào đó ngoài trời. Người cúng phải hiểu lai lịch dòng họ.
Như vậy, thờ cúng tổ tiên ở người Hmông đã được hình thành, quan niệm tổ tiên đã mở rộng đến ba đời- quan niệm này gần gũi với tâm thức thờ cúng tổ tiên của người Tày, người Dao, người Kinh.
Người Hmông thờ cúng thần cộng đồng "Giao" (thần thổ địa). Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to, hoặc hòn đá lớn trong một khu rừng cấm. Đồng bào quan niệm  thần của "Giao" chi phối cuộc sống của cộng đồng "Giao". Người dân trong "Giao" khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc nhiều, dân số tăng là nhờ thần phù hộ. Hàng năm vào ngày Thìn của tháng hai (hoặc ngày mồng 2 tháng 2) đại diện các gia đình các gia đình trong "Giao" đến  khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là gà,  hoặc lợn và rượu. Người đứng đầu "Giao" trịnh trọng cầu khấn thần linh phù hộ. Nội dung bài cúng thần tỏ rõ lòng tôn kính nhưng vẫn thân mật và bình đẳng với thần. Quan hệ người dân với thần như trong cộng đồng "Giao" bình đẳng, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây thần cũng bình đẳng như một thành viên của cộng đồng. Thần chưa có sức mạnh siêu phàm tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng. Do đó, cộng đồng dâng lễ vật cho thần thì thần phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo vệ cộng đồng "Giao".
Tục ma chay: Trước kia, ma chay của người Hmông thường được tổ chức kéo dài từ 5 đến 7 ngày, ngày nay giảm xuống còn từ 2 đến 3 ngày. Khi gia đình có người chết, họ đi mời người (thầy mo) đến làm thủ tục cúng hát mở đường, sau đó mới tiến hành khâm liệm (áo ngoài bằng lanh thì mới được đoàn tụ với tổ tiên). Cách hành xử mỗi nơi mỗi khác: có nơi để người chết trên "cáng" treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra vào. Có nơi người chết được đặt vào quan tài nhưng không đậy nắp để dễ dàng xem mặt người chết. Trong lúc hát mở đường đến đoạn sự tích gà dẫn đường cho người chết về với tổ tiên, người ta mang một con gà đã chết để nguyên lông đặt trong âu bột ngô để phía dưới người chết. Trong đám ma người Hmông dùng khèn và trống để thực hiện nghi lễ tiễn đưa người chết về với tổ tiên được êm đẹp. Sau khi chôn cất xong, nếu là nam giới, người ta cắm 9 cành lá, nữ giới cắm 7 cành để đánh lạc hồn người chết không quay về làm hại những người thân trong gia đình. Lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau khi chôn cất hoặc kéo dài một hay vài năm.
Tục cưới xin: Hôn nhân của người Hmông thông qua mua bán và có phần tin vào tín ngưỡng. Trong lễ ăn hỏi, người Hmông tin rằng đôi trai gái có hợp nhau hay không là do lễ cúng "xem chân gà". Người con gái được định giá thông qua giá trị vật chất thịt, rượu, bạc trắng, thuốc phiện. Mỗi đám cưới thường nhà gái yêu cầu từ 60 đến 120 đồng bạc trắng, từ 60kg đến 120kg thịt lợn, từ 60kg đến 120kg rượu và một số thuốc phiện. Giá trị vật chất nhà gái yêu cầu càng nhiều đối với nhà trai thì người con gái đó càng hoàn hảo về tài sắc. Trong quan hệ hôn nhân con dì, con già, con cô, con cậu được phép lấy nhau. Điều đặc biệt là con trai cậu được phép lấy con gái cô, đó là một điều tốt đẹp trong gia đình (nước tốt không để chảy vào ruộng người) và (vì tôi đã để vật quí ở đây thì phải lấy lại nó). Người Hmông có phong tục em chồng được phép lấy chị dâu (nếu anh trai bị chết), ngược lại chị dâu có quyền lấy em chồng là để giữ gìn tài sản và có trách nhiệm nuôi dưỡng các cháu của anh trai. Nếu em chồng đã có vợ thì chị dâu chỉ được làm vợ lẽ. Trong trường hợp gia đình không có em chồng thì chị dâu được phép lấy em họ. Tục cướp vợ rất phổ biến: một nhóm thanh niên từ 3 đến 5 người, tổ chức họp nhau đón đường bắt cóc người con gái mang về nhà mình (dù người con gái đó có bằng lòng hay không bằng lòng). Trong thời điểm người con gái bị cướp mọi người trong họ hàng, gia đình, anh em không được phép tham gia giải cứu. Sau hai hôm cướp vợ, nhà trai cử người sang nộp phạt tiền danh dự cướp vợ và báo cho gia đình nhà gái biết sự việc. Sau đó, hai bên gia đình bàn bạc, ấn định ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ thành hôn cho đôi trai gái. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người trong cùng một dòng họ bị cấm triệt để, không được phép lấy nhau. Những người không phải là anh em nhưng cùng mang tên dòng họ, hôn nhân diễn ra cũng rất dè dặt. Người H’Mmông tin rằng quan hệ hôn nhân với dòng họ khác thì làm ăn mới phát đạt, nòi giống mới phát triển tốt.

Lễ Tết và lễ hội:
Người Thái:
Là một dân tộc đông dân hơn cả của vùng Tây Bắc, người Thái cũng có rất nhiều lễ hội và lễ Tết mang đặc trưng văn hóa của dân tộc mình.
Lễ hội "Kin Pang Then":
Lễ hội “Kin Pang Then” là lễ hội tiêu biểu của dân tộc Thái trắng ở Quỳnh Nhai. “Then” ở đây là thầy mo được quan niệm là cao tay hơn cả; thầy mo được coi như người của trời được cử xuống trần gian để cứu giúp người khỏi bị ốm đau, bệnh tật và có khả năng giao tiếp với thần linh. Hàng năm, cứ vào dịp đầu năm, thầy mo tổ chức lễ cúng và gặp mặt các con nuôi (đó là những người đã được thầy mo chữa cho khỏi bệnh).
Lễ hội “Kin Pang Then” được tổ chức với quy mô lớn, không những các con nuôi và người trong bản tham gia, mà còn nhiều dân làng ở bản khác cũng đến tham dự. Thời gian cúng có thể kéo dài từ 3 đến 4 ngày, tuỳ thuộc và số lượng con nuôi đến với “Then” nhiều hay ít. Trong những ngày diễn ra lễ hội, mọi người trong làng bản cùng dâng lễ cảm tạ đất trời và cầu xin sang một năm mới mọi điều may mắn và tốt lành đến với bản làng.
Cũng như nhiều lễ hội khác, lễ hội “Kin Pang Then” gồm có hai phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ với lối hát Then truyền thống. Qua lời hát, ông Then cầu cúng cho dân làng trong bản, trong mường sang một năm mới có nhiều điều tốt đẹp, cho con người luôn khoẻ mạnh, no ấm, cầu cho mưa thuận gió hoà, cho mùa màng tươi tốt và cùng với đó là lễ tạ ơn của con cái đối với cha mẹ. Ngoài ra, “Kin Pang Then” cũng là lễ hội cầu phúc lộc cho gia đình và con cháu, là dịp để con cháu tạ ơn thầy trong dịp đầu năm mới. Phần lễ đơn giản nhưng mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, không có yếu tố mê tín dị đoan, mang tính cộng đồng cao, vun đắp tình đoàn kết trong bản, trong mường.
Phần hội với những lời hát Then, điệu múa, trò chơi dân gian lành mạnh như Trò mưa đá (là trò chơi ông Then xin trời cho mưa xuống để cho mùa màng tươi tốt), trò cày bừa, hái nấm, múa khăn, múa tăng bu tăng bẳng, múa vòng xoè… đã tạo ra không khí vui tươi phấn khởi, cuốn hút dân làng đến tham gia. Bên cạnh đó, lễ hội còn là dịp để trai gái trong bản, trong mường gặp gỡ và thể hiện mình qua những câu hát, điệu múa. Và sau lễ hội, nhiều đôi đã nên vợ, nên chồng.
Bên cạnh ý nghĩa tâm linh sâu sắc, lễ hội Kin Pang Then còn nhắc nhở con người phải biết sống đúng đạo lý, gắn bó với tình làng, nghĩa bản. Trong bài cúng của ông Then có đoạn nhắc nhở và khuyên nhủ các con cháu rằng:
“…Được ăn ngon đừng quên mình
Được đi ngựa đừng quên thời đi bộ…”
Lễ hội “Kin Pang Then” là lễ hội mang tính cộng đồng cao, góp phần tích cực vào việc vun đắp khối đoàn kết dân tộc, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo bầu không khí vui tươi, lành mạnh. Lễ hội là nét văn hóa đặc sắc, là hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Lễ hội "Xên Mường":


Lễ hội “Xên Mường”, còn gọi là lễ hội cúng mường, được phục dựng nhằm sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn, giới thiệu lễ hội truyền thống của dân tộc Thái Đen vùng Mường La đã gần 80 năm nay bị lãng quên.
Lễ hội Xên Mường trước đây cứ 2 năm tổ chức 1 lần vào dịp năm hết, Tết đến, thu hoạch xong mùa màng, với quan niệm của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc là cầu cho vạn vật bảo vệ con người, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản mường đoàn kết vượt khó khăn, giúp nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Địa điểm chọn lễ cúng mường thường là tại một cánh rừng già được gọi là “Đông Xên”. Lễ vật gồm mổ trâu, lợn, gà, sản vật, thóc gạo, hoa quả...
Phần lễ trong Xên Mường (cúng bản mường) gồm ông mo, bà “một” (người khấn vái chính) gọi “mời” các vị thần linh như thần sông, thần núi, thần thổ địa, thần cai quản ruộng nương, vùng miền, các linh hồn người có công dựng bản mường, đất nước và những linh hồn của những người trong bản mường đã mất về dự, “ăn”, nhận các lễ vật do bản mường, con cháu dâng lễ.
Phần hội được diễn ra ngay sau phần cúng lễ kết thúc, gồm các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, bắn nỏ, tó má lẹ (một trò chơi dân gian), trò chơi đánh chân đánh đầu, múa xoè bên đống lửa, tổ chức dân ca dân vũ, thăm hỏi, chúc tụng nhau (trước đây lễ hội Xên Mường diễn ra trong 3 ngày).
Lễ hội Xên Mường của người Thái Tây Bắc được phục dựng lần này nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần của nhân dân. Đây còn là kết quả sưu tầm của các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu dân tộc học và sự đóng góp của nhân dân nhằm bổ sung vào kho tàng di sản văn hoá các dân tộc Tây Bắc, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Lễ hội Hoa Ban:
Về loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, truyền thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng.
Mặc cho cô gái hết lời van xin, người cha vẫn không từ bỏ ý định, và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường sửa soạn làm lễ cưới cho hai người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum gặp chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.
Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng người yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hoá thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết từ năm nào.
 Lễ hội Hoa Ban (hay còn gọi là lễ hội Sên bản, Sên mường) là lễ hội cầu mưa, cầu phúc cho bản, mường của đồng bào dân tộc Thái. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng 2 âm lịch, khi hoa ban bắt đầu nở trắng núi rừng Tây Bắc. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu, mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết ơn.


Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà, thái măng; có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, vò nhỏ được bê ra chuẩn bị đãi khách. Những chàng trai, cô gái áo quần, khăn váy chỉnh tề, rủ nhau đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất để tặng người yêu và biếu bố mẹ.
Nếu như lễ hội Sên bản (2 năm/ lần) chỉ diễn ra trong phạm vi của bản, mục đích là “cầu thần phù hộ” và cúng “rửa lá, xua đuổi thần trùng”, ít tổ chức các trò vui, thì lễ hội Sên mường (3 năm/ lần) lại được tổ chức rất to, thu hút nhiều người tài giỏi của toàn mường tham gia. Lễ hội Sên mường diễn ra trong ba ngày. Phần lễ tưng bừng, trang nghiêm, thành kính với đám rước và lễ cúng tế trời đất, các thế lực siêu nhiên. Phần hội chiếm phần lớn thời gian với các cuộc thi bắn súng hoả mai, cung nỏ, ném còn, chọi gà,… Đặc biệt, trong tiếng trống tiếng chiêng tưng bừng của ngày hội, vòng người múa xoè hầu như diễn ra liên tục, tưởng như không ngừng nghỉ. Đối với nam, nữ thanh niên trong mường, đêm cuối hội là đêm vui nhất. Giữa khung cảnh thơ mộng của núi rừng, các cuộc thi hát giao duyên hoà cùng tiếng khèn, tiếng sáo kéo dài cho đến tận khuya. Từ cuộc vui này, nhiều mối tình chớm nở và biết bao đôi trai gái nên vợ - chồng. Vì thế, đêm cuối cũng là đêm để lại nhiều kỷ niệm nhất
Ngoài hội lễ hoa Ban, người Thái còn múa xoè. Quan trọng nhất là điệu "xoè vòng", điệu hát cổ truyền của người Thái. Khi múa xoè những đôi trai gái nắm tay nhau, đi theo vòng tròn, động tác đơn giản, thân hình nghiêng ngả tự nhiên. Ban đầu còn giữ bình thản, đến khi rượu đã say, nhập cuộc, trống chiêng thúc giục, không ai còn giữ được ý tứ nữa, múa xoè khi đó là múa trong tình yêu. Múa xoè kéo dài hết đêm, đến khi mặt trời mọc mới thôi. Múa xoè có nhiều điệu: múa hái rau, múa mò ốc, múa xúc tép, múa chọc lỗ tra hạt, múa đập lúa, múa đưa thoi, múa kéo sợi, múa tắm mát trên ngọn sông Tè. Hết múa xoè đơn đến múa xoè quạt, để diễn tả hết cảnh Xuân  hoa bướm tung tăng. Sau hết là xoè nón, với những động tác cân đối nhịp nhàng, thân hình uyển chuyển. Xoè được cải biến từng vùng: xoè khăn, xoè quạt, xoè nhạc, xoè bướm, xoè lòng, xoè đèn, có đến hàng trăm thể điệu, tạo cho hội Hoa Ban trở thành ngày hội của múa hát mùa Xuân.

L hi Xang Khan:
Lễ hội Xang Khan là lễ hội của người đồng bào dân tộc Thái. Một số nơi khác gọi là Kin chiêng boóc mạy, Hội Chá Chiêng... Mục đích và ý nghĩa của nó vẫn là ngày tạ ơn các ông mo đối với tổ tiên và những người thầy đã dạy cách bốc thuốc chữa bệnh cứu vớt chúng sinh. Là một lễ hội tín ngưỡng dân gian độc đáo của người Thái, góp phần thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và người Thái nói riêng.
Cứ 3 hoặc 5 năm một lần vào khoảng tháng 11 Âm lịch, khi xong mùa vụ trên nương sản phẩm đã thu về nhà. Hoặc tháng 2, tháng 3 Âm lịch của năm sau là tháng tốt, tháng lành. Thời gian mở hội từ 2 đến 3 ngày.

Chuẩn bị: Những ông mo đã thành tài có uy tín cứu sống nhiều người qua cơn bệnh hiểm nguy, làm được nhiều việc tốt cho bản giúp được nhiều việc hay cho mường mới được tổ chức lễ hội. Ba ngày trước ngày lễ hội, tại nhà ông mo chủ, gái trai tấp nập, tiếng giã gạo tiếng khua luống ngân vang báo hiệu cho thần rừng, thần núi, thần sông, thần suối biết làng mình mở hội. Dịp của gái trai gặp gỡ, ngày để dân bản trả ơn thầy mo đã chữa khỏi bệnh cho mình. Không phải chỉ những người trong bản mà cả du khách thập phương, già có, trẻ có kéo về dự hội.

Tổ chức: Sau lễ cúng, dân làng múa hát xung quanh cây hoa, càng về khuya không khí hội càng nhộn nhịp với những trò diễn độc đáo hài ước đầy ắp tiếng cười, nhộn nhịp hơn là múa tập thể. Tất cả những người đến dự hội từ già đến trẻ đều vào cuộc múa, múa hết mình hòa lẫn trong âm vang nhộn nhịp của tiếng chiêng, trống, tiếng khua luống, tiếp dập của ống nửa (tẳng bù), tượng trưng cho sấm, mưa cho sự phồn thực với mong ước của một mùa màng tươi tốt. Hái hoa (Kếp boóc) là phần cuối của lễ hội Xăng Khan, chủ nhà là người trực tiếp hái hoa đem tặng cho mọi người, mỗi bông hoa là một phần thưởng tượng trưng cho bổng lộc và sự may mắn trong cuộc sống. Bằng lời hát chia tay thắm thiết hẹn kỳ hội sau gặp lại, và lúc này trời cũng vừa sáng, mọi người trở về tiếp tục với công việc hàng ngày của mình.Những năm sau này, nhiều bản làng Thái không còn lễ hội Xăng Khan nữa, nguyên nhân thì nhiều nhưng quan trọng nhất vẫn là con người và cách ứng xử của con người đối với lễ hội.

Lễ hội "Xến Xó Phốn":
Lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) vùng Tây Bắc được ra đời và hình thành cùng kho tàng văn hóa phi vật thể của người Thái. Qua bao đời chắt lọc, gạn đục khơi trong để có được tinh hoa, những giá trị về phong tục tập quán, tín ngưỡng. Lễ hội cầu mưa ngày nay mang đủ bản sắc văn hóa của người Thái Tây Bắc.
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội, phần lễ để cúng thần linh cai quản mưa nắng không mang yếu tố dị đoan mà chỉ mượn yếu tố tâm linh để dạy bảo con người, phần hội tạo nên những tiếng cười thoải mái nhằm giáo dục nhân cách, phẩm hạnh để con người vươn tới cái đẹp, của đạo đức truyền thống mà người Thái đã có.
Người Thái ở vùng Tây Bắc quan niệm rằng thần linh cai quản mưa gió thương những đứa trẻ sinh ra không có cha để làm nhà cho nên đã không làm mưa khiến cho trời hạn hán, vì vậy trời không mưa là lỗi của những người phụ nữ chửa hoang. Vì vậy dân bản phải làm lễ cầu mưa, cúng lễ các vị chủ nước, chủ sông suối (thuồng luồng, tiếng Thái gọi là Tô Ngược) để mời các thần linh về nghe nguyện vọng của con người đồng thời trách phạt những người phụ nữ đó đã không biết giữ mình. Những lời cầu xin, trách móc được truyền tụng và đúc kết thành các bài cúng và các trò chơi trong lễ hội cầu mưa.
Người đóng vai trò chính trong lễ hội là bà Mè mải. Mở đầu lễ cầu mưa, đoàn người đi đến các nhà xin lễ vật. Đến nhà thứ nhất, mè mải nói:
Ở nhà đấy bà thím ơi 
Chúng tôi đến xin cơm đấy nhé 
Rau chua xiểm cũng xin 
Canh khoai nhạt cũng xin 
Chủ nhà thứ nhất trả lời:
Ngày cúng chủ nước sông tôi có chút lễ bằng rau, bằng cỏ để cùng xin cầu mưa 
Mè mải đáp lời:
Cảm ơn chủ nhà nhé!
Lời cảm ơn vừa dứt chủ nhà té nước gạo lên người hoặc dùng hạt bông tung vào đoàn người giả làm mưa.
Đoàn người luôn miệng hô to: “Có mưa rào, mưa ra gạo ra lúa”. Sau đó đoàn người tiếp tục đến nhà thứ 2, thứ 3… và lặp lại bài cúng trên. Đến khi đã có đủ lễ vật, đoàn người rước Tô Ngược đến địa điểm cúng lễ và bà mè mải bắt đầu cúng bài cúng cầu mưa với nội dung mời chủ nước chủ sông về ăn lễ vật và lắng nghe nguyện vọng của dân bản cầu xin trời làm mưa cho đến khi sấm sét nổi lên và trời mưa xuống thì chuyển sang phần hội. 
Ở phần hội, cả bản làng cùng chơi ném còn, uống rượu cần và hát các bài hát về tình yêu đôi lứa… Cùng với Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội cầu mưa của người dân tộc Thái miền Tây Bắc là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người dân tộc ở nơi đây. Lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch hàng năm (gần tết Nguyên Đán) được biểu hiện qua tiếng sấm, tức là lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng...Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông đảo bà con dân tộc ở bản, mường.

Tết của dân tộc Thái:
Sáng ngày 27 hoặc 28, ông trưởng bản chủ trì tổng vệ sinh cho cả bản. Tối 29 bắt đầu gói bánh chưng. Người Thái thường gói hai loại bánh chưng màu đen và màu trắng. Để làm bánh màu đen, họ đốt rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sẩy sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu đen. Nhiều nơi không cho nhân bánh. Người ta quan niệm hương vị của Tết ở trong bánh chưng chủ yếu thể hiện ở hương vị của lá dong, và đó cũng là cái chủ yếu để dâng lên tổ tiên (ma nhà). 
Sáng 30, các nhà luộc bánh chưng và thịt lợn. Tối 30 là bữa cơm tất niên, có sự góp mặt của bà con, bạn bè, rồi cả đêm người ta thức uống rượu, nhang không bao giờ tắt. Sau lễ cúng giao thừa bằng thịt, bánh, các đồ thổ cẩm, bạc nén..., nhà nào có chiêng hay cồng thì mang ra gõ tại nhà. 
Cũng không thể không nhắc tới phong tục gọi hồn của người Thái. Vào tối 28, 29 hoặc 30, gia đình người Thái thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, con còn lại dùng để gọi hồn cho mọi người trong nhà. Để gọi hồn, thầy cúng lấy của mỗi người một chiếc áo, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai, tay thầy cầm một thanh củi đang cháy, rồi mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà, sợi chỉ đó phải để tự đứt, nếu dứt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm.
Sáng mùng một người Thái dậy sớm, múc nước luộc bánh chưng cho mỗi người uống một ít, có lẽ để phòng đau bụng! Các người nữ trong nhà hôm mùng 1 được đem xôi đã đồ ra quạt ở giữa gian cúng ma nhà (bình thường họ không được bén mảng đến khu vực đó!). Sau đó người ta dọn ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm đặt trên cao là để cúng tổ tiên nhà chồng, còn mâm thấp cúng tổ tiên nhà vợ. Cúng xong, tất cả con trai lui vào trong để cho phụ nữ ăn trước, và chỉ như thế mỗi ngày mùng 1 thôi. (Hàng ngày, phụ nữ ăn cùng hoặc ăn sau đàn ông). Bữa cơm Tết của người Thái có một món không thể thiếu, đó là cá, với các món nướng, chua, khô... Người Kinh mùng 1 kiêng đến nhà, nhưng người Thái thì mùng 1 đã đi nườm nượp đến nhà nhau chúc Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong xuống gậm sàn, kiêng quét nhà vào ngày mùng 1. Tối ngày mùng 1 họ đã làm lễ tạ. Từ chiều mùng 1, thanh niên bắt đầu đi chơi, và muốn đi chơi đến bao giờ thì đi, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi đi đến qua cả mùng 10 mới về. Các trò chơi khá náo nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu lông gà), ném còn; khắc loỏng...

Dân tộc Dao:
Lễ hội "Trầu Sun":


Hàng năm cứ vào ngày Hợi tháng giêng (mồng 5 Tết), dân tộc Dao Đỏ ở Làng Chành, xã Xuân Giao (Bảo Thắng - Lào Cai) lại rộn ràng mở hội “Trầu Sun”.
Đây là hội chơi xuân truyền thống của đồng bào Dao Đỏ, mục đích của hội là thực hiện các nghi lễ cúng báo thần làng, đất trời phù hộ cho một năm mới, mở đầu chu kỳ sản xuất mới mưa thuận, gió hoà mùa màng tốt tươi, người yên vật thịnh, trâu bò đầy chuồng, gà vịt đầy sân…
Từ sáng sớm, thầy cúng chính cùng đại diện các hộ gia đình chuẩn bị đầy đủ các mâm lễ cúng thần trời đất, thần làng … Sau khi đoàn đội lễ đến tại khu đất rộng đầu làng (nơi diễn ra hội làng), thầy cúng thay mặt dân làng thắp hương khấn báo thần làng, trời đất phù hộ cho dân làng mở hội cầu mùa, cầu phúc, cầu tài cầu cho con trai làng trên, congái làng dưới, thuận duyên, bén lứa nên vợ, nên chồng, nhà nhà ấm no hạnh phúc…
Sau khi kết thúc phần lễ, diễn ra cuộc thi văn hoá – văn nghệ, thi đấu các môn thể thao truyền thống, như đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ, đánh quay. Đội văn nghệ các xã tổ chức thi múa, hát, trích đoạn nghi lễ  cấp sắc người Dao… Các trò chơi, trò diễn càng sôi nổi hấp dẫn bởi sự góp mặt của cộng đồng các dân tộc ở 7 xã, thị trấn cùng đông đảo đồng bào các dân tộc từ khắp các địa phương lân cận đến xem và cổ vũ cho các tiết mục biểu diễn văn nghệ và thi đấu thể thao.

Lễ hội nhảy lửa:
Lễ hội nhảy lửa của người Dao thường được chọn để tổ chức từ mồng 2 đến mồng 5 tháng giêng âm lịch.


Đúng giờ đẹp, giờ tốt, phần chính lễ được bắt đầu, những đồ lễ mang tính dân tộc, theo tập quán người Dao đỏ được bày ra một chiếc bàn dài, nơi được coi là chỗ trang nghiêm nhất, trước chiếc sân rộng. Ngay giữa sân, một đống củi to đã được thanh niên mang đến, xếp gọn gàng, như đống củi thường đốt trong những đêm lửa trại. Ông chủ lễ bắt đầu ngồi xuống ghế, niên phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may cho một năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong "mưa thuận, gió hoà", muôn nhà khoẻ mạnh. Rồi sau đó là nhân ngày đầu xuân, chủ lễ mong cầu thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm dân làng, về vui cùng lễ hội. Trong lúc chủ lễ cầu khấn, cũng là lúc người phụ lễ dùng một gióng vầu tre đã được chuẩn bị từ trước, được chẻ đôi, cầm chặt vào nhau như chưa hề chẻ ra, gieo xuống bàn hay xuống đất. Hình thể như ông thầy cúng của dân tộc Kinh làm lễ, "gieo quẻ xin âm dương", khi hai mảnh tre hay vầu cùng ngửa, hay cùng sấp thì cũng có nghĩa là thần lửa đã đồng ý về vui cùng dân bản, còn một sấp, một ngửa thi phải xin lại, đến lúc nào được thì thôi.
Bắt đầu vào buổi lễ, cũng là lúc đống củi được đốt lên, đến khi này, đống củi đã trở thành một đống than hồng rừng rực cháy. Những người muốn được nhảy lửa đã ngồi "hầu lễ" từ đầu buổi lễ, họ lấy que tre gõ liên tục vào những nửa ống vầu đã chuẩn bị sẵn và sẵn sàng ngồi xin thần lửa cùng vui nhảy lửa, chủ lễ lại tiếp tục "gieo quẻ xin âm dương", đến khi thần lửa đồng ý. Và thường thì từng đôi một nhảy lửa, họ đi chân không trên đống than, họ nhảy, họ lăn vòng trên than hồng khi lửa còn lem lém bốc cháy theo từng bước chân của họ. Và khi những đôi bắt đầu được thần lửa đồng ý cho nhảy lửa thì cũng là lúc các đôi khác tiếp tục vào  "hầu lễ" để được là người nhảy lửa tiếp theo, cứ đôi nọ, nối tiếp đôi kia cho đến khi đống than hồng tắt lịm dưới những đôi chân trần đen nhẻm do than để lại. Và cũng thật kỳ lạ, chẳng có ai bỏng chân, tay, cháy quần áo, mắt ai cũng như say lờ đờ, ánh lửa mùa xuân như vẫn rừng rực cháy trong lòng họ. Và tình xuân thì đang rực cháy trong hàng trăm đôi mắt các cô gái người Dao dõi theo những chàng trai chưa có vợ, đang nhảy lửa, để rồi xong hội xuân, họ tìm đến nhau, nhen nhóm tình yêu, thương trộm, nhớ thầm để rồi nếu hợp duyên, bén số sẽ nên vợ, nên chồng. Mùa xuân sau, họ lại địu con, theo chồng xuống cùng lễ hội khai xuân, mong thần lửa mang về cho họ hơi ấm tình yêu, hơi ấm của mùa màng no ấm, hạnh phúc.

L hi cu mùa:


Lễ hội Cầu mùa là một lễ hội của người Dao Tuyển là nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao Tuyển, không cầu kỳ nhưng mang nhiều yếu tố tâm linh sâu sắc của cả cộng đồng.
Trước khi mở hội người già trong bản, phân công là những người có uy tín, người cao tuổi làm bàn thờ cho ngày lễ. Cột bàn thờ được làm bằng bốn cây gỗ, xung quanh đan bằng nan nứa, phía bên trong đặt ba ống bầu to dùng làm bát hương. Ba bát hương đó thể hiện có trời có đất có con người, trong có đặt một ít tiền vàng mã. Dưới gầm bàn thờ là một bó ngọn mía như muốn cho mọi điều ngon ngọt.
Khi vào lễ, bốn người trẻ tuổi ăn mặc chỉnh tề đội lễ từ bốn hướng đi về nơi được chọn làm lễ. Trên mâm lễ là gà luộc, bánh chưng, bánh mật, tiền vàng mã. Trong các mâm lễ người ta quan niệm phải có nam có nữ vì thế nhất thiết là các con gà trên mâm lễ có cả gà trống, gà mái. Thầy mo đọc bài cầu khấn trời đất cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bội thu, con cháu học hành thành đạt, nhà nhà no đủ. Cầu mong mọi sự bình yên, giảm đói nghèo.
Tất cả mọi người cùng nhau tham gia các trò chơi dân gian kéo co, đẩy gậy, ném còn. Trong trò chơi ném còn người Dao quan niệm rằng nếu ai ném quả còn qua vòng đầu tiên trong lễ hội là người đó gặp nhiều may mắn trong năm.

Dân tộc H’Mông:
Lễ hội Gầu tào:

Lễ hội Gầu Tào là một lễ hội của người đồng bào dân tộc H'Mông. Nội dung chính cho lễ hội là cầu phúc hoặc cầu mệnh. Trong đó:
Hội cầu phúc: Một gia chủ nào đó không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thày cúng bói xin cho mở hội Gầu tào nhằm cầu mong có con.
Hội cầu mệnh: Một gia chủ nào đó bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, thậm chí có con bị chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy cúng bói xin mở hội Gầu tào.
Thời gian mở hội thường trong khoảng từ ngày mồng một đến ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức 9 ngày.
Ngay từ cuối tháng chạp, khi được thầy cúng bói xin mở hội. Gia đình mở hội cầu phúc hay cầu mệnh, trong gia đình cử ra một người chặt cây làm cây nêu. Đầu tiên lễ dựng nêu được tổ chức. Nơi trồng cây nêu (cũng là địa điểm mở hội). Cây nêu được chôn nơi cao nhất thường là đỉnh đồi. Khi dựng xong, gia chủ còn làm lễ cúng ở ngay chân cột nêu mời tổ tiên các thần phù hộ cho có con, mọi thành viên đều khỏe mạnh, bằng an kế tục việc làm ăn, làm mặc theo dòng họ. Cây nêu được dựng lên, các làng gần, làng xa biết rằng tết năm nay sẽ mở hội Gầu tào. Mọi người đều hiểu chuẩn bị dự hội.
Sau phần của thầy mo, làm những thủ tục lễ bái, hầu hết là dùng những từ hoa mỹ (pàng lỳ) thanh cao, những câu ví mỹ miều, những câu tục ngữ (lù txà) khoa trương. Mọi người tụ tập đến bãi mở hội. Khắp bãi dựng thêm nhiều lều lợp lá cây cho người già ăn uống chúc tụng. Bãi bằng nhất được dọn ra cho trẻ em đánh quay.
Các nơi khác trong bãi, tổ chức các trò chơi cho ngày hội được quy định trước. Các nơi này mỗi nơi đều có quán xử (chủ sự) quản lý chung. Ngoài ra cần có xừ quan (quản lý) chăm lo việc ăn uống, có hấu pầu tờ (quản củi đuốc), hấu pầu giê (trông nom xay giã dần sàng) cùng với xừ quan.
Kết thúc lễ hội, chủ nhà làm lễ, cây nêu được hạ xuống. Thày mo đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn. Sau mỗi đoạn khấn vái, thày lại hấp một ngụm nước phun ra xung quanh. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong hồng phúc đời đời.

Tết của người H’Mông:
Hàng năm khi hoa đào, hoa mận nở trắng rừng cũng là lúc người dân tộc H’Mông bắt đầu đón tết. Tết H’Mông rơi vào cuối tháng một, đầu tháng Chạp âm lịch (30/11 âm lịch). Tết thường kéo dài trong nhiều ngày với nhiều sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét văn hóa dân tộc H’Mông.
Khác với truyền thống của các dân tộc khác, người H’Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng sớm mùng Một mới là mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. 
Tối hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.

 Bánh dày kẹp với giò hoặc chả đón Tết của người H’Mông


Tết của người H’Mông cũng có một vài tục lệ gần giống người Kinh như: Không quét rác, đổ rác ra ngoài nhà trong 3 ngày đầu năm (người Kinh là trong ngày mồng 1), trang trí nhà cửa sặc sỡ, mừng tuổi trẻ nhỏ.
Tuy nhiên người H’Mông cũng có tục lệ độc đáo khác là: Các bữa ăn trong 3 ngày Tết đều không được có rau mà chỉ có thịt lợn, thịt gà. Ngày mồng một, phụ nữ không được cầm kim chỉ, con gái không phải làm việc gì trong 3 ngày tết, chỉ đi chơi, đi hát văn nghệ trong các lễ hội. 
Trong ngày Tết, bên cạnh nghi lễ tín ngưỡng còn có nhiều trò chơi dân gian quen thuộc nhưng đầy tính thượng võ như chơi cù, ném pao, bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn, chọi chim họa mi…

Tổng kết:

Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu ngọt của những thiên tình sử Tiễn dặn người yêu nhưng cũng đầy tiếng than thở của những thân phận người Tiếng hát làm dâu, một một vùng đất mang nhiều vẻ đẹp văn hóa độc đáo và hấp dẫn. Bằng những nét văn hóa rất riêng ấy, Tây Bắc đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.