Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Di sản Văn hóa
Showing posts with label ₪ Di sản Văn hóa. Show all posts
Showing posts with label ₪ Di sản Văn hóa. Show all posts

Saturday, May 14, 2016

Tây Bắc mênh mang (Huỳnh Tâm)

Tây Bắc có những mùa hoa đẹp mê man.

Tây Bắc, có 32 dân tộc thiểu số sinh sống với những bản sắc văn hóa đa dạng và lịch sử hào hùng, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đã đi vào thơ ca và là nguồn cảm hứng cho những áng văn chương, đã trở nên nổi tiếng đi sâu vào lòng người đọc. Chính sự hoang sơ, bí ẩn đã trở thành nét quyến rũ, sức hút thiêng liêng của Tây Bắc.


Trẻ em vùng cao hồn nhiên vui đùa.

Những đỉnh núi cao chót vót hiểm trở mà kỳ vĩ, con đường đèo chênh vênh và thơ mộng khi uốn mình quanh sườn núi chạm vào chân mây hay lấp ló trong sương mù, ruộng bậc thang trải dài vút tầm mắt như kéo giãn không gian thêm dài thêm rộng, các mùa hoa tiếp nối nhau… Tất cả tạo nên bức tranh thiên nhiên quyến rũ, mộng mơ, đầy sắc màu nơi núi rừng Tây Bắc. Tiêu biểu như cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang), cảnh quan Mèo Vạc, ruộng bậc thang Mù Cang Chải, Mường Lò-Nghĩa Lộ.
Tây Bắc có 32 dân tộc thiểu số sinh sống, tạo nên những đặc trưng văn hóa cộng đồng, bản sắc truyền thống, đa dạng sinh thái riêng cho từng tỉnh. Khám phá văn hóa truyền thống, cùng trải nghiệm và cảm nhận sự giàu có của văn hóa các vùng miền.

Vẻ đẹp rực rỡ của chợ phiên Bắc Hà.


Nhắc đến Sơn La, người ta sẽ liên tưởng đến những món ăn, lễ hội truyền thống và phong cách sinh hoạt độc đáo của đồng bào dân tộc Thái. Hòa Bình lại là nơi mang đậm bản sắc của dân tộc Mường. Hay có những dân tộc chỉ sinh sống ở Lai Châu như Người Lào, Người Lự. Tây Bắc còn là địa danh gắn liền với lịch sử của 32 dân tộc.

Monday, May 2, 2016

Văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt-Mường (Văn Hóa Việt)

Giới thiệu về văn hoá 4 tộc người nhóm ngôn ngữ Việt-Mường: Kinh, Mường, Thổ, Chứt. Trong lịch sử xa xưa, cả 4 tộc người có chung một nguồn gốc. Tổ tiên của họ là chủ nhân của nền văn minh Sông Hồng với nghề trồng lúa nước lâu đời và một thời đại đồng thau phát triển rực rỡ, được đánh dấu bằng các di chỉ khảo cổ nổi tiếng như: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn..
Do điều kiện lịch sử tự nhiên và xã hội, đã tách ra thành những tộc người khác nhau như ngày nay. Vì vậy, bên cạnh những những dấu ấn khá t­ương đồng về mặt ngôn ngữ, phong tục tập quán, mỗi tộc người lại có những biểu hiện văn hoá theo các chiều h­ướng khác nhau, tạo nên các sắc thái văn hoá rất riêng của từng tộc người. Người Kinh vừa bảo l­ưu những bản sắc văn hoá riêng, vừa nhanh chóng tiếp thu tinh hoa của nhiều luồng văn hoá. Người M­ường vẫn bảo lư­u bản sắc văn hoá truyền thống Lạc Việt. Các tộc người Thổ, Chứt có sự giao thoa mạnh mẽ với văn hóa của một số tộc người sinh sống cùng khu vực. Trong phòng tr­ưng bày, cả yếu tố văn hoá chung và riêng của 4 tộc người lần l­ượt được giới thiệu theo 3 vùng môi sinh như: đồng bằng, thung lũng và miền núi. Thông qua các tổ hợp tr­ưng bày cụ thể như­ hình t­ượng bánh trưng bánh dầy, ngôn ngữ, kinh tế lúa nước, kinh tế sông biển, nghề thủ công... phần nào nêu bật các giá trị văn hoá chung của các tộc người. Bên cạnh đó, các tổ hợp trư­ng bày cổng làng, bàn thờ tổ tiên, đình làng, nghệ thuật rối n­ước, tục hát quan họ... mang giá trị văn hoá đặc tr­ưng, tiêu biểu của người Kinh; Nhà sàn mang bản sắc riêng của người M­ường; Tập tục đan võng đay của người Thổ và góc nhà của người Chứt là những giá trị văn hoá độc đáo của tộc người. Với diện tích 250m2, phòng trưng bày giới thiệu các yếu tố văn hoá chung và riêng của 4 tộc người theo 3 vùng môi sinh: đồng bằng, thung lũng và miền núi.

- Cổng làng của người Kinh.
Người Kinh sống quần tụ trong các xóm làng. Mỗi làng có một cổng ra vào, xung quanh được bao bọc bởi luỹ tre xanh. Mỗi làng đều có cây đa, giếng nước, mái đình và chùa thờ Phật. Cổng làng truyền thống được xây bằng gạch, phía trên có tháp canh đề phòng giặc dã. Đình làng xây dựng theo lối chữ đinh, chữ công hay chuôi vồ. Hậu cung thờ Thành Hoàng, tiền đình là nơi diễn ra các sinh hoạt động đồng. Phòng trưng bày phục chế cổng làng Thổ Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Cổng làng này được xây dựng từ những năm đầu công nguyên. Lúc đầu có cổng vọng gác, cửa đóng then cài đề phòng, ngăn thú dữ, giặc dã. Bước sang thế kỷ XX, cổng làng không còn là vọng gác. Ngoài chức năng “cửa đóng then cài” cổng làng còn là một địa điểm, một vị trí để phô diễn bản sắc địa phương.

- Đường làng lát gạch nghiêng của người Kinh:
Hiện nay, nhiều làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Còn hiện diện những con đường làng lát gạch nghiêng. Đó là bằng chứng của lệ tục “Cheo cưới” trong hôn nhân truyền thống của người Kinh ở vùng nông thôn Bắc Bộ từ những năm đầu thế kỷ XX. Theo tục lệ, khi lấy vợ, nhà trai phải nộp cho làng một khoản “nạp cheo” thì đám cưới mới được coi là hợp pháp. Khoản "nạp cheo" này nhiều địa phương đóng vào việc công ích như đào giếng, lát đường làng, xây cổng làng.... Ngày nay, tục nạp cheo này hầu như không còn nữa, chúng ta chỉ còn thấy bóng dáng của tục "nạp cheo" qua những con đường làng hiện hữu hay những câu ca dao-tục ngữ:  "Lấy vợ mười heo, không cheo cũng mất... Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối".

Bàn thờ tổ tiên của người Kinh
Người Kinh có tục thờ cúng tổ tiên từ lâu đời, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết. Hàng năm, người ta thắp hương vào các dịp giỗ tết, tuần tiết thể hiện lòng hiếu thảo, nhớ thương người đã khuất, cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh, an khang, thịnh vượng. Mặt khác, dâng lễ cúng tổ tiên để các linh hồn không đi lang thang vô định làm hại con cháu. Việc thờ cúng tổ tiên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình. Gia thế bình thường, bàn thờ bài trí đơn giản, chỉ có một tấm gỗ nhỏ gắn trên vách với một bát hương. Ngày lễ tết, tuần tiết đôi khi chỉ một nén hương, một đĩa hoa quả hay chén nước đặt trên bàn thờ cũng tỏ tấm lòng thành.  Những gia đình trung lưu, khá giả, bài trí bàn thờ tổ tiên theo tam cấp rất cầu kỳ, công phu với nhiều đồ thờ tự khác nhau. Tại Bảo tàng trưng bày mẫu bàn thờ "tam cấp", sơn son thếp vàng, đục chạm “tứ linh, tứ quý” của gia đình ông Nguyễn Văn Tư, 52 tuổi - một gia đình trung lưu người Kinh ở thôn Tư, xã Đồng Quang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Trong cùng là giường hành. Bên trên bài trí một cỗ ỷ thờ thần chủ ông tổ của dòng họ. Trong ỷ đặt một hộp đựng bài vị, ghi tên huý, tên thuỵ, phẩm tước, ngày sinh, ngày mất của thuỷ tổ. Bên cạnh còn có một ống đựng gia phả của dòng họ và hai cây đèn, nến, trang trí đăng đối ở hai bên. Chính giữa là sạp thờ (còn gọi là sập tôn). Bên trên đặt một mâm xà bày ngũ quả, cỗ ngọt, cỗ mặn trong ngày tết, một bát hương thờ tổ tiên, xung quanh bài trí đèn nến, ba cơi đài để bày nước, trầu cau, rượu và thuốc hút. Ngoài cùng là hương án. Trên mặt hương án bài trí tam sự, ngũ sự hoặc thất sự bằng đồng. Bộ tam sự này gồm một đỉnh đồng, hai con hạc để cắm nến. Ngoài ra còn có hai lọ hoa để dâng lễ trong những dịp cúng lễ, yết cáo tổ tiên. Phía trên bàn thờ, gắn với xà dọc và hàng cột cái còn được trang trí một bức hoành phi liên hoàn cùng với cặp câu đối. Hoành phi và hai câu đối thể hiện tâm tư tình cảm của con cháu đối với bậc tiền nhân, đồng thời thể hiện vị thế của từng gia đình, dòng họ. Vì vậy, nội dung câu đối trước bàn thờ hầu hết ca ngợi công ơn tổ tiên trồng cây đức, đắp nền nhân cho con cháu được hưởng phúc lộc. Tuy nhiên, tuỳ theo gia thế văn chương hay võ thuật, mà mỗi gia đình sử dụng nội dung câu từ cho phù hợp. Nội dung bức hoành phi “Phúc lý tuy chi” nghĩa là: nhiều phúc duy trì mãi về sau và hai vế câu đối  “Thi thư tảo thức hương nhiên đức” “Nhật nguyệt đồng ân phúc mãn đường” mang nghĩa: sớm đi vào con đường kinh sử, học sách thánh hiền, cái đức của gia đình sẽ lan toả và nhiều người biết đến; gia thế luôn tràn đầy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu rọi, cái phúc ắt sẽ đầy nhà, duy trì cho các thế hệ mai sau. Qua 2 bức hoành phi, chúng ta có thể biết gia thế của gia đình theo nghiệp văn chương, ca ngợi cái nhân, cái đức của tổ tiên và mong con cháu luôn giữ lấy nghiệp văn chương của ông cha.

-  Canh tác lúa nước và chế biến lương thực của người Kinh
Người Kinh có truyền thống canh tác lúa nước từ rất sớm. Trải qua bao đời cày cấy, cha ông ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm  làm ruộng rất sâu sắc “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Bên cạnh đó đã tạo ra nếp sống cần cù, chịu khó của cư dân nông nghiệp vùng đồng bằng, trung du với tinh thần đoàn kết chống chọi với thiên tai để ổn định cuộc sống, và hình thức lao động đầy chất nhân văn. Những công cụ lao động như cày, bừa, cuốc, mai, thuổng, gầu tát nước, liềm, hái được trưng bày tại Bảo tàng như một minh chứng lịch sử cho quá trình canh tác thủ công, mang tính chất gia đình “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” trong các làng quê người Kinh. Quá trình canh tác lúa nước không chỉ đơn thuần là vậy. Mạ cấy rồi phải chăm chút bắt sâu, làm cỏ, bón phân và thường xuyên thăm nước. Lúa trỗ đòng lại cầu trời cho mưa thuận gió hoà mới cho mùa gặt bội thu. Gắn với nông nghiệp lúa nước là quá trình chế biến lúa gạo. Vào những năm 70 của thế kỷ XX quy trình chế biến mang tính giản đơn, từ giã bằng chày tay, chiếc cối xay thóc (hai thớt, đóng bằng tre, đắp đất, cấy dăm gỗ) tách vỏ thành gạo và trấu, để rồi mỗi sáng sớm, hay tối khuya chị em phụ nữ nông thôn lại nhộn nhịp bên cối giã, chuẩn bị thổi cơm cho cả gia đình. Ngày nay, ít ai còn thấy tiếng xay thóc, giã gạo chốn thôn quê, mọi vùng đều sử dụng máy sát gạo thay cho sức người và người nông dân cũng dần thích nghi với cuộc sống công nghiệp.

-  Nghề đánh bắt cá của người Kinh
Cư trú chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và lưu vực các con sông, người Kinh đã biết tận dụng bờ biển dài hàng nghìn km và hệ thống sông ngòi dày đặc để làm muối, đánh bắt cá và nuôi trồng thuỷ sản… Đánh cá là một trong 4 nghề chính đem lại nguồn lợi chính cho các cư dân ven biển, ven đầm lầy, ao hồ và sông suối. Trước đây công cụ đánh bắt chủ yếu là: Diu tôm, nơm, dậm, chài, lưới, đó…Ngày nay, nhiều ngư dân đã đầu tư nâng cấp tàu thuyền, trang thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ, nâng cao sản lượng, kết hợp với việc đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản ở ven bờ. Gắn liền với sản phẩm đánh bắt cá và làm muối là một quá trình chế biến thuỷ - hải sản....điển hình là nghề làm nước mắm. Nước mắm chủ yếu làm từ các loại cá: (cá linh, cá thiểu, cá cơm, cá thu, cá đối, cá quả …vv) và chiết ra dưới dạng nước. Làm mắm có 4 công đoạn chính là: làm cá, muối cá, thính mắm, chao mắm. Người ta trộn 2 hay 3 phần cá với 1 phần muối rồi để đến 1 năm, càng để lâu hàm lượng đạm càng cao nhưng nước mắm ít thơm và màu bị sậm hơn. Người ta còn chôn nước mắm vài ba năm, lúc đó màu nước mắm thành đen gọi là nước mắm lú, dùng để chữa bệnh. Nếu dùng cá ươn thời gian sẽ mau hơn nhưng nước mắm không thơm. Tùy theo nước chiết từ lu/hũ ủ nước mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm cốt, nước mắm loại 1, nước mắm loại 2). Cách sử dụng mắm trong bữa ăn hàng ngày là nét văn hoá ẩm thực rất riêng của cư dân Việt.

- Nhà sàn dân tộc Mường
Từ bao đời, người Mường đã quen sống trên những ngôi nhà sàn. Đồng bào đã đúc kết toàn bộ đời sống văn hoá của mình qua câu ngạn ngữ:  “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui tháng tới”. Nhà của người Mường thường dựng ở gò đồi, lưng dựa vào núi, nhà có 4 mái, ba gian, sàn lát bằng gỗ. Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, nơi diễn ra các lễ nghi thể hiện ứng xử của con người với ngôi nhà. Tại đây có một cây cột gốc to hơn các cây cột khác trong nhà, để đặt bàn thờ tổ tiên. Mọi thành viên, kể cả chủ hay khách đều không được phép bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công cụ lao động. Nếu ai phạm phải những điều cấm trên, đều bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh. Vì vậy gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới, phụ nữ tuyệt đối không được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay, thì chỉ những nam giới có vai vế trong dòng họ mới được ngồi ăn uống. Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa “voóng”, bình thường không ai được đưa vật gì hay chui qua, chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột gốc có một cây cột khác cũng quan trọng. Ở chân cột này, người ta để vài cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (đồng bào gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện quan niệm cân bằng âm dương, để tạo sự ổn định phát triển và thuận hoà cho cả gia đình. Tại gian này, người ta cũng treo những chiếc nạ mụ để giữ vía cho các thành viên nhỏ tuổi trong nhà.
Gian giữa thường là nơi để thóc và làm bếp.
Gian cuối cùng  được ngăn với các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp, là nơi để chạn bát, đồ dùng gia đình, bếp nấu cơm và là nơi ngủ nghỉ của phụ nữ. Nhà sàn của người Mường còn có mặt bằng thứ tư. Đó là sàn gác được làm từ những tấm gỗ hay cây bương gác qua các xà ngang, làm nơi đựng nông sản và các dụng cụ sinh hoạt gia đình. Đầu hồi nhà người Mường bao giờ cũng có một chiếc đuống và một cối tròn. Đuống là dụng cụ để vò thóc, đồng thời là dụng cụ báo hiệu khi nhà có việc lớn như đám cưới, đám tang. Bên cạnh đó, đuống còn là nhạc cụ gõ của phụ nữ để tấu những bản nhạc vui trong những ngày lễ tết, hội hè hay chào mừng khách đến chơi nhà  để tỏ lòng mến mộ. Gầm sàn là nơi để các công cụ sản xuất như: Cày, bừa, cuốc, liềm...và nhốt trâu bò. Ngày nay không ai còn để đuống và nhốt trâu bò dưới gầm sàn như trước nữa. Nhà sàn Mường ở Hoà Bình thường có hai cầu thang, gọi là cầu thang chủ và cầu thang khách. Cầu thang chủ đặt ở gian cuối dành riêng cho phụ nữ đi lại. Cầu thang khách đặt ở gian đầu dành cho khách và nam giới. Điều này khác hẳn với ngôi nhà có một cầu thang của người Mường ở tỉnh Phú Thọ. Người Mường Phú Thọ quan niệm: Nhà hai cầu thang sẽ mang lại sự xui xẻo, của cải sẽ không giữ được trong nhà “vào đầu này, ra đầu kia”, nên cả vùng không thấy có loại nhà hai cầu thang. Trên sàn, nhà của người Mường ở các nơi đều có hai bếp: bếp chủ và bếp khách. Bếp chủ ở bên trong để nấu nướng, sưởi lửa. Bếp khách để bên ngoài. Với người Mường, bếp rất linh thiêng, sự linh thiêng ấy ngự trị ngay trong ngọn lửa. Vì vậy, đồng bào cấm kị hơ chân, thay quần áo bên bếp lửa. Nếu vi phạm điều cấm kỵ là xúc phạm đến thần lửa ắt sẽ gặp tai hoạ. Ngay trên khung bếp, người Mường dựng một gác bếp để chứa dụng cụ chế biến, nấu nướng như: rá vớt gạo, ống muối, đũa cả, các loại giỏ, mõ trâu... Người Mường thường nói “Muốn tìm gì cứ tìm trên gác bếp”. Trong đời sống ẩm thực của người Mường, không thể thiếu hương vị độc đáo của men rượu cần. Rượu được làm từ gạo nếp ủ với lá cây rừng dùng trong các lễ hội như: cưới xin, khánh thành nhà mới, tang ma, tiếp khách quý, lễ, tết. Vò rượu ngon có rất nhiều cần để mọi người cùng uống thể hiện sự đoàn kết cộng đồng và lòng hiếu khách, của người Mường.

-  Văn hoá dân tộc Thổ, Chứt
Dân tộc Thổ sinh sống ở miền Tây Nghệ An, có trên 50.000 người với các tên gọi khác nhau như: Kẹo, Mọi, Cuối, Họ, Đan Lai... Đồng bào canh tác nương rẫy kết hợp với trồng lúa nước. Bên cạnh hình thức canh tác dùng gậy chọc lỗ tra hạt, đồng bào đã biết dùng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Người Thổ có kinh nghiệm đánh bắt cá và săn bắt thú rừng. Đồng bào giỏi đan võng gai để phục vụ cuộc sống. Người Thổ sinh sống thành từng làng bản dọc theo các con sông, con suối lớn. Mỗi bản từ vài nóc đến vài chục nóc nhà. Xưa kia, đồng bào ở nhà sàn, nay hầu hết đã ở nhà trệt. Mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà của người Thổ được chia làm 2 phần theo chiều ngang: Phần ngoài đặt bàn thờ tổ tiên, là nơi tiếp khách. Phần trong là bếp và nơi sinh hoạt của phụ nữ; gầm sàn là nơi nhốt trâu bò và các dụng cụ phục vụ sản xuất như: cuốc, liềm, củi, cối giã gạo. Cầu thang thường đặt ở hồi trái. Người Thổ không dệt vải, nên y phục chủ yếu mua hoặc trao đổi với các dân tộc láng giềng. Có nơi, đồng bào mặc giống người Kinh ở vùng nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi mua váy của người Thái. Tuy nhiên chiếc khăn, áo trắng bằng vải thô vẫn mang đậm dấu ấn truyền thống tộc người. Người Chứt hiện có khoảng hơn 2 nghìn người, cư trú ở hai huyện Minh Hoá và Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Dân tộc Chứt còn có các tên gọi khác là Rục, Sách, A Rem, Mã Liềng...Nguồn sống chính của đồng bào là làm ruộng và canh tác nương rẫy, ngoài ra còn hái lượm, săn bắn, đánh cá, và chăn nuôi. Người Chứt không trồng bông dệt vải, y phục chủ yếu được trao đổi với các tộc người láng giềng. Áo may bằng vải màu đen có thêu nhẹ nhàng ở hò áo, không đơm cúc mà buộc dây cùng chiếc váy dệt hoa văn giống với người Bru - Vân Kiều và các cư dân bên kia biên giới. Trước đây người Chứt sống du canh, du cư trong các hang động, ngườm đá hay những túp lều đơn sơ, lợp bằng lá cây rừng. Hiện nay, đồng bào đã định canh, định cư thành từng làng trên những triền núi dốc. Cấu trúc nhà gần giống kiểu nhà một gian hai chái của người Kinh ở Bắc Trung Bộ.

- Nghề thủ công truyền thống
- Nghề gốm của người Kinh
Người Kinh có nghề gốm phát triển từ lâu đời. Đến nay, nhiều làng gốm nổi tiếng vẫn còn tồn tại như gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh... với các sản phẩm rất phong phú gồm đồ gia dụng, đồ trang trí (bát, bình, ấm, chén, con giống…) được thể hiện trên các loại chất liệu khác nhau như đất nung, sành nâu, sành xốp... Gốm Phù Lãng ở Bắc Ninh được hình thành và phát triển vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Kỹ thuật sản xuất chủ yếu sử dụng phương pháp tạo hình trên bàn xoay và in trên khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi dán ghép lại và phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong. Sản phẩm gốm Phù Lãng thuộc loại men nâu ở những sắc độ khác nhau như da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu... và 3 loại hình chính là: Gốm dùng trong tín ngưỡng, (lư hương, đài thờ, đỉnh...); Gốm gia dụng (lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu...) và gốm  trang trí (bao gồm bình, ấm hình thú như ngựa, voi...). Gốm Bát Tràng ở Gia Lâm Hà Nội cũng hình thành vào thế kỷ 14-15. Nguyên liệu sản xuất gốm chủ yếu là đất sét; kỹ thuật sản xuất truyền thống, sử dụng phương pháp tạo hình trên bàn xoay. Đất sét trắng sau khi nặn cốt sửa và phơi khô, sau đó được quét men rồi cho vào lò nung. Ngày nay, hầu hết người ta dùng khuôn đúc để tạo dáng sản phẩm. Sản phẩm truyền thống của làng gốm Bát Tràng chỉ có ba loại để phục vụ tín ngưỡng gia dụng và trang trí. Ngày nay, sản phẩm gốm Bát Tràng phong phú đa dạng không chỉ được sử dụng phổ biến ở trong nước mà còn xuất khẩu sang Châu âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... Tháng 11 năm 2004, thương hiệu “Bát Tràng - Việt Nam” được công bố và chính thức quảng bá thương hiệu cho hàng gốm sứ lâu đời của Việt Nam trên thị trường thế giới. Sự kiện này là một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển của làng gốm Bát Tràng trong  xu thế hội nhập quốc tế. Gốm Hương Canh ở Vĩnh Phúc, từ xưa chỉ phục vụ nhu cầu của nhân dân trong vùng. Những hũ, vại giản đơn, dạng sành được sử dụng phổ biến trong việc đựng nông sản, muối cà, làm mắm, chăn nuôi...đã làm phong phú thêm kho tàng văn hoá Việt Nam.

- Nghề in tranh dân gian Đông Hồ
Cách thủ đô Hà Nội 30 km về hướng Đông, làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh vẫn nổi tiếng với nghề in tranh tồn tại từ thế kỷ XVI. Tranh được in trên giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của Đông Hồ.  Màu tranh được chế biến từ chất liệu thiên nhiên: màu đen lấy từ than lá tre; màu xanh lấy từ vỏ và lá chàm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Dụng cụ in tranh chỉ có khuôn in, chổi quét màu và những bản khắc gỗ. Mỗi màu in  có một bản khắc riêng. Vì vậy bức tranh bao nhiêu màu sẽ có bấy nhiêu bản khắc gỗ. Sản phẩm tranh gồm có 5 loại: Tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh. Trong số sản phẩm tranh Đông Hồ “Hứng dừa” và “Đánh ghen” được coi là những tác phẩm nổi tiếng với triết lý dân gian sâu sắc. Nếu "Hứng dừa" ca ngợi một gia đình hạnh phúc, đầm ấm, hai vợ chồng tâm đầu, hợp ý, hai đứa con vui đùa, mãn nguyện. "Khen ai khéo dựng nên dừa, Chồng trèo, vợ hứng cho vừa một đôi". Thì "Đánh ghen" lại mang một nội dung trái ngược, phê phán chế độ đa thê, người chồng không chung thuỷ dẫn đến cảnh tan cửa nát nhà. "Thôi, thôi bớt giận làm lành, Chi điều sinh sự nhục mình, nhục ta".
Tranh Đông Hồ có sức sống lâu bền và cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ người Việt Nam bởi đề tài trên tranh phản ánh đậm chất dân gian, mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người Việt.

- Nghề gò đúc đồng Đại Bái
Đại Bái xưa có tên là làng Văn Lãng nổi tiếng với nghề gò đúc đồng truyền thống, chuyên sản xuất các vật dụng gia đình. Ban đầu Đại Bái chỉ làm các vật dụng thô sơ, sau mới có ấm, mâm, chậu thau. Đầu thế kỷ XI, nghề gò đúc đồng làng Đại Bái phát triển mạnh. Nổi tiếng nhất là các sản phẩm: Tượng đồng, đỉnh đồng, lư hương, lọ hoa, tranh, câu đối. Dụng cụ đúc đồng gồm có bễ thổi lửa, nồi đúc, khuôn đúc, đe gò đồng, búa gò đồng, kéo cắt đồng, trục tiện các sản phẩm đồng. Ngày nay, làng Đại Bái tiếp tục phát triển và gìn giữ nghề truyền thống với những hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh cùng sự cải tiến kỹ thuật, tự trang, tự chế ra máy móc như máy cán, máy dập, máy đánh bóng...tìm kiếm thị trường xuất khẩu.

- Âm nhạc dân gian
Nhạc cụ của người Kinh phải kể đến: Mõ, phách, đàn cò, đàn nhị, kèn... Trong đó Mõ được xếp là một nhạc khí tự thân vang, phổ biến ở Việt Nam. Nó được sử dụng trong các không gian khác nhau với những chức năng khác nhau. Trong chùa mõ đóng vai trò điểm nhịp đều theo lời tụng kinh. Ngoài đời, những người nông dân xưa dùng mõ để giữ nhịp và hoà tấu khi diễn tuồng hay hát chèo. Ngày nay, mõ còn được dùng trong các tốp nhạc dân tộc mới và trong dàn nhạc dân tộc. Xinh tiền là nhạc cụ gõ độc đáo, xuất hiện ở Việt Nam ít nhất vài trăm năm nay. Tên cổ của nó là phách xâu tiền hay phách quán tiền, ngày nay có người gọi là sênh tiền (hay xinh tiền). Xinh tiền được dùng trong dàn nhạc cung đình, bát âm, hát sắc bùa, và hát ả đào hay hòa tấu, giữ nhịp hoặc làm đạo cụ múa. Xinh tiền gồm có 3 thanh gỗ cứng, hai thanh dài 28cm, một rộng 3cm, dày 8mm, còn thanh thứ ba ngắn hơn có kích thước 20cm. Người Mường có bộ cồng được đúc bằng đồng thau hoặc đồng đỏ. Cồng hiện diện trong tất cả các lễ hội, sinh hoạt cộng đồng của người Mường như: lễ xuống đồng, lễ cầu đảo, ngày hội đánh cá, lễ cơm mới, lễ mừng nhà mới, tang lễ…Cồng còn dùng trong đi săn, báo động khi có hoả hoạn, trộm cắp, báo lệnh của nhà Lang ... Đặc biệt trong ngày tết nguyên đán, người Mường tổ chức hát Sắc bùa đi chúc tết các gia đình trong bản. âm thanh sắc bùa và những ứng xử đầy tính nhân văn đã tạo nên nét riêng, độc đáo trong văn hoá Mường. Một dàn cồng của người Mường hoàn chỉnh phải có đủ 12 chiếc. Người chơi cồng thường là nữ, nhưng đôi khi cả nam và nữ. Mỗi người một chiếc, tay này xách quai đeo cồng, tay kia cầm dùi gỗ quấn vải, gõ vào núm cồng, theo nhịp điệu và tiết tấu của bài. Một dàn cồng của người Mường có hai hình thức biểu diễn: dàn hàng ngang đứng tại chỗ, hoặc vừa đánh cồng vừa đi tròn. Xưa kia khi có việc hệ trọng trong làng, các gia đình quý tộc-nhà Lang thường sử dụng vài ba bộ cồng đánh một lúc.

- Nghệ thuật múa rối nước của người Kinh
Múa rối nước là một loại hình nghệt thuật sân khấu dân gian truyền thống lâu đời của Việt Nam gắn bó mật thiết với hội hè, đình đám ở các làng quê. Nghệ thuật múa rối nước ra đời cách ngày nay gần 10 thế kỷ, múa rối nước cổ truyền có nội dung phong phú, ngắn gọn, phản ánh chân thực cuộc sống lao động, sản xuất, chiến đấu chống thiên tai, dịch hoạ, nhằm thích với thiên nhiên, xây dựng cuộc sống, bảo vệ đất nước. Trò rối nước xưa thường diễn không lời hoặc chỉ với lời giáo, lời hát làm nền, dẫn chuyện cùng với tiếng trống, tiếng mõ, tiếng pháo, tiếng tù và…điểm nhịp, gây không khí rộn ràng. Con rối được tạc bằng gỗ sung, gỗ vông, quét nhựa cây, sơn thếp vàng, thếp bạc. Quân rối nước cử động nhờ 2 loại lò so và dây được giấu kín, biểu diễn bằng sào và dây. Trình diễn múa rối nước thường mở màn bằng nhân vật Chú Tễu giới thiệu để tạo không khí vui tươi, dí dỏm, đượm chất dân gian. Sau đó là các trò diễn tứ linh (long, ly, quy, phượng), thể hiện ước nguyện mưa thuận, gió hoà mùa màng bội thu; các trò diễn thể hiện cuộc sống đời thường như xay thóc, giã gạo, cày bừa, cáo bắt vịt... Các trò diễn ca ngợi người nông dân chăm chỉ hiền lành phê phán thói ba hoa với nhân vật Ba thạo, phê phán người gian giảo, đã góp phần đưa cuộc sống lên sân khấu làm phong phú thêm kho tàng văn hoá Việt Nam.

- Chiếu chèo sân đình
Chèo là một loại hình nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc. Đất chèo có gốc từ vùng châu thổ sông Hồng. Khởi đầu bằng hình thức trò nhại, trò diễn xướng dân gian từ thế kỷ X-XI, chèo dần dần trở thành một sinh hoạt văn hóa của nhiều làng quê Bắc Bộ. Sân khấu chèo xưa kia là hai chiếc chiếu trải ở giữa sân đình, khán giả ngồi vây ba mặt nên gọi là chiếu chèo hay chèo sân đình. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu và trở thành đại diện tiêu biểu của sân khấu truyền thống Việt Nam.

- Đình làng người Kinh
 Đình làng gắn liền với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng của người Kinh. Hàng năm lễ hội thường được tổ chức ở Đình làng. Lễ hội gắn với truyền thống lịch sử (sự tích thần đánh giặc, lập làng, dạy nghề), gắn với lễ nghi nông nghiệp (lễ rước nước). Các ngôi đình nổi tiếng ở Bắc bộ như: Đình Bảng, Bắc Ninh; Đình Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, Đình Tây Đằng, Chu Quyến - Hà Tây; Đình Thổ Hà, Phù Lão - Bắc Giang; Đình Hoành Sơn, Nam Đàn, Nghệ An, đình Làng Đình Bảng - Bắc Ninh. Bảo tàng đã trích đoạn một góc Đình Bảng. Một ngôi đình lớn nhất Việt Nam, nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp) huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, kiểu bốn mái. Một số đình có tám mái theo kiến trúc chữ đinh để thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập làng vào thế kỷ 15. Ngày nay, đình làng vẫn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Nối tiếp đời này sang đời khác, người dân luôn gìn giữ, trân trọng ngôi đình - một phần không thể thiếu cấu thành văn hoá Việt Nam.

- Hát quan họ vùng Kinh Bắc 
Kinh Bắc là cái nôi của nhiều lễ hội cổ truyền đặc sắc và là quê hương của những làn điệu dân ca quan họ. Cứ mỗi độ xuân về, các làng lại mở hội hát quan họ. Trước khi mở hội, các làng mang hương hoa, vật phẩm đến đền thờ Vua Bà ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh để xin mở hội. Theo truyền thuyết, Vua Bà chính là người sáng lập những làn điệu quan họ. Khi hát, nam giới thường mặc áo the, áo lụa, khăn xếp, tay cầm ô; nữ giới mặc áo mớ ba mớ bảy, thắt lưng lụa đào, tay cầm nón quai thao cho thêm phần duyên dáng và lịch sự. Hát Quan họ là lối hát đối đáp giữa nam và nữ. Những câu hát bắt nguồn từ sinh hoạt thường nhật mang đậm màu sắc trữ tình, rất bài bản và phong phú về làn điệu. Nơi hát quan họ có thể diễn ra trong nhà, sân đình, sân chùa, dưới sông hay trên đồi. Hát quan họ bao giờ cũng có những màn chào hỏi, mời trầu, tìm hiểu gia cảnh của nhau. Mỗi lễ hội như vậy có khi kéo dài 2-3 ngày không dứt, rồi họ hẹn nhau đến mùa hội năm sau.

- Quả đựng đồ lễ trong đám cưới của dân tộc Kinh
Quả đựng lễ vật là vật dụng không thể thiếu trong đám hỏi của người Kinh. Tuỳ theo từng gia đình đồ lễ nhiều hay ít, người ta sử dụng 3 - 5 - 7 quả lễ với các kích thước khác nhau. Thông thường khi đôi trai gái đã ưng nhau phải thực hiện nghi lễ đánh tiếng dạm ngõ, đợi ngày lành tháng tốt làm đám hỏi. Trong đám hỏi thanh niên bưng theo quả lễ, phủ vải điều màu đỏ có dán hay thêu chữ song hỷ, bên trong đựng trầu, cau, bánh phu thê. Đến nhà gái, tuỳ theo số lượng chàng trai bưng quả lễ, phía nhà gái phải cử số lượng con gái chưa chồng tương ứng ra đón lễ. Nhà trai mở lễ, đại diện nhà gái nhận lễ đặt lên bàn thờ gia tiên. Hai họ bàn chuyện cưới xin, ăn uống vui vẻ. Khi họ nhà trai ra về, nhà gái để lại trên nắp quả một phần lễ vật gọi là lại quả. Hiện nay, nghi lễ hỏi và những quả đựng lễ vẫn duy trì trong đời sống đồng bào, thậm chí nhiều gia đình còn tổ chức lễ hỏi rất lớn với số lượng quả lễ 9, 12 hay 15... quả đựng lễ.

- Tục ăn trầu:

Con dao, túi vải, bình vôi, cơi trầu trưng bày tại bảo tàng thể hiện tục ăn trầu và những ứng xử đầy chất nhân văn của người Việt Nam; ăn trầu là phong tục cổ truyền của nhiều dân tộc ở Việt Nam có từ thời Hùng Vương. Nó gắn liền với một câu chuyện về tình yêu và sự chung thuỷ. Vì vậy, trầu cau vừa biểu hiện của phong cách, vừa thể hiện tình cảm của người Việt Nam. "Miếng trầu là đầu câu chuyện", làm cho con người gần gũi, cởi mở với nhau hơn trong cuộc sống. Trầu dùng trong lễ hội, trong câu hát, khi tiếp khách, làm sính lễ trong đám hỏi, thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ. Trầu cau có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê, là quà tặng trong mỗi dịp tết đến, xuân về, trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. Ăn trầu còn gắn với tục nhuộm răng để có những "má hồng răng đen" tiêu biểu của cái đẹp người con gái thuở xưa. 

Văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ H'mông-Dao, Ka Đai, Tạng Miến (Văn Hóa Việt)

Giới thiệu về văn hoá 13 tộc người: Hmông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, Cờ Lao, Pu Péo, La Ha, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La, Phù Lá, Lô Lô, thuộc các nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao, Ka Đai, Tạng Miến. Mỗi tộc người có nhiều nhóm địa phương như: H’mông hoa, H’mông trắng, H’mông đen, H’mông xanh, H’mông đỏ; Dao quần chẹt, Dao đại bản, Dao đỏ, Dao quần trắng, Dao thanh y, Dao lô gang, Dao áo dài, Dao làn tiển, Dao thanh phán..., Cờ Lao xanh, Cờ Lao trắng, Cờ Lao đỏ. Đồng bào cư trú ở hầu khắp các tỉnh miền núi và trung du miền Bắc, nhưng tập trung đông nhất ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu

- Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao có 03 tộc người : H’mông, Dao, Pà Thẻn
Tộc người H’mông có các nhóm: H’mông Trắng, H’mông Hoa, H’mông Đỏ, H’mông Đen, H’mông Xanh.Tộc người Dao có các nhóm: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Làn Tiển. Mỗi nhóm có nhiều ngành nhỏ khác. Tộc người Pà Thẻn, di cư vào Việt Nam cách đây khoảng 200 – 300 năm
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai gồm 04 tộc người: La Chí, Cờ Lao, Pu Péo, La Ha; Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến gồm có 06 tộc người : Lô Lô, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Cống, Si La
- Làng bản, nhà cửa
Làng bản của cư dân H’mông - Dao, Tạng - Miến chủ yếu  được dựng trên các triền núi cao hay lưng chừng núi, khí hậu thoáng mát, nhưng hiếm nước và giao thông đi lại khó khăn. Một số ít cư dân: La Chí, Cống, Si La và một vài nhóm Dao dựng làng ven các con sông, con suối hoặc nơi có điều kiện dẫn nước về nhà.
Bản có 2 loại: Bản phân tán và bản tập trung. Số lượng nhà trong bản nhiều hay ít tuỳ thuộc điều kiện địa hình cụ thể và cuộc sống định canh định cư hay du cư của mỗi dân tộc.
Nhà ở các dân tộc nhóm H’mông - Dao, Ka Đai, Tạng - Miến có 3 loại: Nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất và nhà  sàn.
Nhà đất thường thấy ở đại bộ phận nhóm H’mông - Dao, Tạng - Miến
Nhà sàn thường thấy ở nhóm Dao làm ruộng nước, một số ít nhóm Dao làm rẫy như: Dao Thanh Y, Dao áo Dài, một bộ phận Lô Lô, Phù Lá và đại bộ phận Cống, Si La.
Nhà nửa sàn nửa đất thường thấy ở 2 nhóm Dao vùng Trung du Bắc bộ, đồng bào La Chí và một bộ phận Lô Lô.
- Kinh tế nông nghiệp
Các tộc người nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao, Ka Đai, Tạng - Miến chủ yếu canh tác trên nương rẫy. Nương có 3 loại: nương cuốc, nương cày chiếm vị trí quan trọng, gắn liền với cuộc sống định canh, định cư của đa số các dân tộc trong cả 3 nhóm. Nương phát đốt gắn với cuộc sống du canh, du cư chỉ còn rải rác ở các nhóm địa phương. Đồng bào còn lợi dụng thế đất, tận dụng nương thổ canh hốc đá để canh tác. Trên nương, đồng bào trồng lúa, ngô, mạch ba góc, trồng rau, đậu, bầu bí, đỗ, dong giềng, cây thuốc, các loại cây ăn quả và cây công nghiệp.
Công cụ sản xuất chủ yếu cày, cuốc, các loại dao, rựa, rìu, thuổng, gậy chọc lỗ, nạo cỏ, nhíp. Cày của đồng bào vùng cao có thân ngắn, to, chắc khoẻ để phù hợp với các nương hốc đá. Cùng với canh tác nương rẫy, trong quá trình định cư, định canh cư dân vùng núi cao đã biết lợi dụng thế đất khai phá và đắp bờ tạo thành ruộng bậc thang để cấy lúa nước. Tuỳ thuộc vào thế đất mà đồng bào tạo ra ruộng bậc thang cao hay thấp, rộng hay hẹp. Vì vậy, có ruộng rộng 1m, có ruộng chỉ vài chục cm, có ruộng rộng 2 – 3 đường bừa, có ruộng chỉ có 1 đường bừa.Trong canh tác ruộng nước, đồng bào vùng cao còn biết tạo mương dẫn nước, làm đất kỹ, cày bừa nhiều lượt để diệt cỏ dại, tăng độ mầu cho đất, cho năng suất cao.
- Săn bắt
Hái lượm, săn bắn nhằm cải thiện đời sống và bảo vệ mùa màng của cư dân vùng núi cao. Ngày nay, họat động này vẫn được duy trì, tuy nhiên không nhiều như trước kia. Đồng bào H’mông, Dao, Phù Lá, La Hủ rất giỏi săn bắn các loại thú nhỏ như lợn rừng, cầy hương, hươu nai, khỉ, cáo, chồn… Hầu hết đàn ông các tộc người đều biết chế tác các loại bẫy, nỏ. Một số người giỏi rèn, khoan, làm súng kíp, súng hoả mai, sáng chế các loại bẫy thú có hiệu quả. Ngoài ra đồng bào còn giỏi đánh bắt cá bằng nhiều hình thức: Ruốc, đặt chặn, đặt đó, lặn bắt cá bằng tay, dùng chài lưới…
- Tập quán ăn uống của các tộc người nhóm H’mông - Dao, KaĐai, Tạng Miến.
Đa số đông bào trong nhóm Hmông - Dao, KaĐai, Tạng - Miến  thường ăn 2 bữa chính một ngày; bữa sáng và bữa tối, ngoại trừ một số nhóm Dao  coi bữa trưa và bữa tối là chính. Một số tộc người H’mông, Pu Péo, Lô Lô ăn "mèn mén" ngô đồ là chính.
 Ngô được xay thành bột nhỏ, nhào nước cho tơi xốp, đổ ngô vào chõ đồ chín, dỡ ra nia, xoa tơi, vẩy nước, trộn đều, sau đó đồ lại lần 2 cho chín dẻo.
Các tộc người khác trước đây ăn cơm nếp, nay ăn cơm tẻ, một số độn thêm ngô, sắn. Gạo nếp chỉ dùng để đồ xôi, làm bánh trong dịp lễ tết.
Thức ăn thường ngày gồm có: Măng, rau, đậu, bầu bí… Ngày tết có thêm thịt gà, dê, lợn, bò, cá… Món thịt, ngoài xào, nấu, luộc, đồng bào còn biết chế biến bằng cách phơi khô, sấy khói, ướp chua để ăn lâu dài. Thắng cố là món ăn đặc trưng của đồng bào vùng cao được hầm nhừ từ tổng hợp các loại thịt, xương, lòng của các loại gia xúc. Trong ngày chợ phiên, người H’mông còn có món bánh làm từ ngô non, xay thành thứ nước đặc quánh như sữa, sau đó làm thành bánh trôi hoặc bánh dợm.
Đồng bào thường uống rượu. Riêng nhóm Dao Thanh Y, Dao Tiền, Lô Lô, Phù Lá uống rượu hoẵng. Nước uống thường ngày là nước chè, lá vối, lá rừng. Họ hút thuốc lào bằng điếu, ở một số vùng đồng bào còn có tục ăn trầu.
- Nghề mộc, nghề rèn
Hầu hết đàn ông các  tộc người H’mông, Dao, La Hủ… biết rèn dao, cuốc, thuổng… và sửa chữa nông cụ. Riêng kỹ thuật tôi thép của người H’mông, người La Hủ đạt trình độ cao. Người ta có thể khoan thép cây thành nòng súng kíp, nòng súng hoả mai.
Nghề làm đồ gỗ khá phổ biến trong đời sống của đồng bào H’mông, Cờ Lao. Chỉ bằng chiếc bàn xoay đơn giản, họ đã làm ra những đồ đựng và dụng cụ ăn uống bằng gỗ rất đẹp như: Muôi, thìa, bát, chậu…
- Nghề đan lát
Việc dùng nguyên liệu tre, nứa, mây, trúc… tạo ra các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày đã phát triển ở hầu hết các tộc người nhóm: Hmông-Dao, KaĐai, Tạng - Miến. Sản phẩm đan lát của người H’mông, Cờ Lao nổi tiếng với các sản phẩm đồ dùng gia đình: Nong, nia, cót, phên, bồ, gùi…
Nam nữ Cống, La Chí, Phù Lá đều biết đan gùi, đồ đựng thức ăn, đồ đựng quần áo, bằng mây tre đan cải hoa văn rất đẹp. Người La Hủ rất giỏi đan mâm cơm, ghế mây.
Nhìn chung sản phẩm đan lát của đồng bào không chỉ phục vụ cuộc sống tự cung, tự cấp mà còn trở thành mặt hàng trao đổi với các dân tộc láng giềng.
- Nghề dệt vải, in hoa văn, thêu thùa
Các tộc người H’mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, La Ha, Phù Lá đều duy trì và phát triển nghề dệt vải,  đáp ứng phần nào vải mặc trong cuộc sống. Phụ nữ H’mông rất giỏi dệt vải bằng sợi cây lanh (ngoại trừ nhóm H’mông Xanh, H’mông Súa và Na Miẻo trồng bông dệt vải).
Phong tục người H’mông, khi người chết phải mặc áo ngoài bằng vải lanh linh hồn mới được về đoàn tụ với tổ tiên. Vì vậy, thiếu nữ từ 15 tuổi trở lên, mỗi người phải có nương lanh. Lanh thường được gieo trồng ở ven chân núi, trong các thung lũng vào khoảng tháng 4 âm lịch. Sau 3 - 4 tháng lanh được cắt thành bó đem về phơi khô trong khoảng 10 - 15 ngày. Sau đó tước lấy vỏ trước khi có gió mùa Đông Bắc, vì nếu gặp gió lạnh sợi lanh sẽ bị khô, giảm độ bền, rất dễ nát và khó nối.
Khi vỏ lanh bong ra, người ta chia thành từng chùm sợi nhỏ đều nhau, đem giã cho sợi mềm và xơ, sau đó tước từng sợi nối lại với nhau, cuộn thành cuộn to rồi ngâm nước tro bếp, luộc chín, giặt sạch, đun thêm một lần nữa với nước hoà sáp ong trong 4 - 5 giờ, vớt ra cho ráo nước, dùng đoạn gỗ tròn chà nhiều lần để sợi bóng và bền. Từ đó se thành sợi rồi đưa lên khung dệt. Phụ nữ H’mông đi đâu cũng mang vỏ lanh bên mình, lúc đi chợ hay lúc giải lao khi lao động trên nương rẫy… họ tranh thủ tước sợi, nối sợi. Trước khi đưa lên khung dệt, người ta dùng xa kéo thành các con sợi.
Vải đã dệt xong được nấu trong nước lọc tro bếp cho vải trắng, sau đó nấu sáp ong để hồ vải cho cứng, bóng mịn và đem nhuộm chàm.
Trong các gia đình người H’mông cũng đều có khung dệt. Mỗi năm một phụ nữ có thể dệt được từ 4 - 5 tấm vải lanh, mỗi tấm dài 20 vuông đủ may một bộ váy áo đẹp.
Công cụ in hoa văn đơn giản gồm có bút in bằng đồng to nhỏ khác nhau (có loại đường thẳng, đường diềm; có loại dùng tỉa hoa, lá; có loại chuyên dùng in hình tròn), các khung hình tam giác bằng tre, bát đựng sáp ong, chiếc mẹt làm giá kê để in.
- Kỹ thuật in:
Đun sáp ong nóng chảy, nhúng một cạnh khung hình tam giác hoặc bút vẽ vào sáp ong rồi in lên vải. Tuỳ kích thước đoạn thẳng dài hay ngắn mà chọn khung có cạnh tương ứng, nếu là hoa văn tròn người ta dùng ống nứa có tiết diện thích hợp. In xong, đem nhuộm vải nhiều lần cho đến khi vải sẫm mầu, người ta nhúng vải vào nước ấm làm sáp ong tan chảy, để lại những hoa văn màu xanh nhạt, trắng rất đẹp.
Thêu thùa trang trí hoa văn trên vải là nét văn hoá đặc sắc của phụ nữ H’mông - Dao. Họ có cách thêu độc đáo và khéo léo, tạo hoa văn không theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ và óc tưởng tượng. Kỹ thuật thêu thực hiện kim thêu trên mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Do đó trước khi thêu, người phụ nữ phải tính toán tỉ mỉ tới từng đường kim sợi chỉ, nhớ kích thước từng hoạ tiết trong toàn bộ mảng hoa văn, để tạo được tổng thể đồ án hoa văn có bố cục cân đối, hài hoà, mang tính thẩm mỹ cao trong trang phục của họ. Hoạ tiết hoa văn phổ biến là hình sừng trâu, con ốc, các hình chữ thập ngoặc và hình móc câu… gắn với cảnh quan thiên nhiên và quan niệm tộc người.
- Tập tục cưới xin
Hôn nhân các tộc nguời  nhóm H’mông - Dao, Ka Đai, Tạng - Miến theo chế độ một vợ một chồng bền vững, ít có hiện tượng đa thê hay li dị. Dưới chế độ cũ, hôn nhân mang tính chất "gả", "bán", ngày nay trai gái tự tìm hiểu để kết hôn. Hôn nhân giữa những người cùng dòng họ bị ngăn cấm. Tập tục cưới xin của các tộc nguời cơ bản có nghi lễ : Đánh tiếng, dạm ngõ, hỏi, cưới. Tuy nhiên, tuỳ thuộc mỗi nhóm, mỗi tộc nguời có các nghi lễ cưới hỏi riêng.
Đối với tộc người Dao trai gái phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không mới tiến hành hỏi cưới. Lễ cưới thường diễn ra sau lễ hỏi một năm hay ngắn hơn tuỳ theo mỗi nhóm địa phương. Thời gian này cô dâu ở nhà dệt vải, thêu thùa, cắt may chuẩn bị của hồi môn. Riêng nhóm Dao Đỏ không có tục đón dâu. Cô dâu được cha mẹ, anh em họ hàng thân thích và đại diện nhà trai đưa, đón cô dâu về nhà chồng. Khi vào nhà trai làm lễ Tơ hồng (người Dao còn gọi là lễ "Hồng Toòng"), cô dâu phải trùm kín mặt bằng chiếc khăn đỏ, trang trí những núm bông nhỏ và gắn tua, bước qua một thau nước mà thầy cúng đã làm phép, khi nào làm lễ gia tiên xong  mới được bỏ  khăn ra. "Hồng Toòng" được dựng tại bàn thờ tổ tiên, giống chiếc cổng chào, dán giấy màu, câu đối. Thầy cúng vắt một dây hoặc những tua vải đỏ qua vai cô dâu, chú rể và đọc cuốn sách nói về cưới xin, làm ăn của người Dao, khấn vái gia tiên công nhận hai người thành vợ chồng.
- Tục sinh đẻ
Phụ nữ các tộc người nhóm H’mông - Dao, Ka Đai, Tạng - Miến khi sinh con được sự giúp đỡ của bà mụ trong bản hay mẹ chồng, chị em gái chồng.
Trước và sau khi sinh con, sản phụ phải kiêng cữ nhiều điều. Khoảng thời gian ở cữ 1 tuần, đồng bào có các dấu hiệu báo cho người lạ không vào nhà như: nguời La Hủ úp chiếc nón  lên cọc trước cửa, nguời La Ha cài tấm phên đan mắt cáo, người La Chí cắm lá xanh trước cửa… với ngụ ý để giữ vía cho đứa trẻ mới sinh. Họ rất sợ người lạ có vía dữ vào nhà làm cho đứa trẻ quấy khóc, biếng ăn.  Khi đứa trẻ đầy cữ (1 tháng) họ mới gỡ bỏ những dấu hiệu đó đi.
Đồng bào có tục chôn nhau thai hoặc bỏ vào sọt treo lên cành cây với mong muốn đứa trẻ được mát mẻ, khoẻ mạnh…
-  Tập tục tang ma 
Cư dân vùng núi cao đều quan niệm: chết đi là được “sống” ở thế giới bên kia.Vì vậy, trong tang ma, đồng bào tổ chức các nghi lễ phức tạp đưa linh hồn người chết về nơi “quê cha đất tổ”, về cõi cực lạc. Nghi lễ này còn có ý nghĩa “để vui với người thân lần cuối” và giảm sự đau khổ cho gia chủ. Một số tộc người: Dao, Pu Péo, Cờ Lao… có tục làm chay trong đám tang.
Nguời Lô Lô có tục làm lễ ma khô sau lễ ma tươi 13 ngày hoặc 3,5,7…năm sau, tuỳ theo điều kiện kinh tế của từng gia đình, để cho người chết được siêu thoát trở về với tổ tiên. Họ làm hình nhân, mặc trang phục truyền thống, tượng trưng cho người chết, bên cạnh còn có vải gửi cho người quá cố  bày dưới bàn thờ tổ tiên. Thầy cúng chuẩn bị rất nhiều tiền âm phủ, dùng các đạo cụ: thanh la, não bạt, kiếm, thẻ âm dương, trống đồng để giữ nhịp cho các điệu múa dân gian. Cùng với nghi lễ cúng mời tổ tiên đón nhận linh hồn người quá cố và lễ vật, mọi người đánh trống và nhảy múa đưa tiễn người chết về đất tổ ở thế giới bên kia. Trong lễ ma khô, người Lô Lô ở Mèo Vạc, Hà Giang ăn mèn mén, uống rượu và nhảy múa, hát ca những giai điệu truyền thống.
- Lễ cấp sắc của người Dao
Một nghi lễ rất quan trọng của người Dao là lễ cấp sắc. Theo phong tục, tất cả đàn ông đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc 3 đèn. Những người làm thầy cúng còn thực hiện nhiều lần cấp sắc với số lượng đèn khác nhau 3 đèn, 7 đèn, 9 đèn… Đây là một nghi lễ vừa mang dấu ấn của tục thành đinh xa xưa, vừa mang tính chất của đạo giáo.
Lễ cấp sắc "tam linh" (3 đèn) của người Dao quần chẹt được tiến hành ngay trước bàn thờ tổ tiên. Trong nghi lễ này nhất thiết phải có bộ tranh thờ (“Tam thanh” “hành sư”, “hành phây”) đủ 24 tờ và các loại đạo cụ như: Đèn dầu dọc, gậy tầm xích, thẻ âm dương, tù và, trống, chuông đồng, nhạc sóc, lệnh bài, ghế đặt lợn cúng, ghế ngồi cho người được cấp sắc…
Người được cấp 3 đèn ngồi trên chiếc ghế nhỏ. Ba người thầy được mời đến làm lễ, đều đã qua lễ cấp sắc từ 7 đèn trở lên, có tuổi cao hơn người thụ lễ. Họ làm lễ dâng  đèn trước bàn thờ, rồi mỗi người thầy đặt một đèn lên người thụ lễ cấp sắc ở các vị trí khác nhau: Thày cả đặt lên đầu, thày thứ hai đặt lên vai phải, thày thứ ba đặt lên vai trái.
Người thụ lễ phải ngồi hàng giờ để chịu sức nóng của 3 ngọn đèn trong khi thày cúng đọc 2 đạo sắc kể về lai lịch của người được cấp sắc, để tâu sớ với tổ tiên và các thần thánh. Đọc xong, ông đốt một bản “âm” gửi cho tổ tiên, bản  “dương” dành cho người thụ lễ giữ lại, khi qua đời mang theo làm giấy thông hành về gặp lại tổ tiên ở thế giới bên kia.
- Văn hoá chợ vùng cao
Sinh sống ở vùng núi cao giao thông đi lại khó khăn, đồng bào H’mông - Dao, Kađai, Tạng - Miến thường tự túc phần lớn nhu cầu cuộc sống, nên họ ít khi xuống núi. Thông thường 1-2 tuần, thậm chí cả tháng, các cặp vợ chồng mới xuống núi đi chợ 1 lần. Chợ thường họp vào chủ nhật, dòng người với trang phục đủ mầu từ khắp các nẻo đường đổ về chợ, người địu hàng, người dắt lợn, người dắt ngựa thồ, từng tốp 5 - 7 người men theo các lối mòn vắt quanh sườn núi rảo bước đến chợ.
Tại chợ phiên, đồng bào đem  bán đầy đủ các sản phẩm từ  gia súc, gia cầm, lâm thổ sản, đến các loại dược liệu… và họ mua các loại hàng hoá cần thiết phục vụ đời sống như: dầu, muối, chỉ thêu, thuốc lá, cuốc, dao, lưỡi rìu, nồi, bát đĩa, ấm chén…
Chợ không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hoá mà còn là nơi gặp gỡ của những người thân và nam nữ thanh niên; nơi vui chơi giải trí, nơi giao tiếp, học hỏi, thổi khèn, thổi sáo tìm bạn trăm năm. Họ mời nhau vào hàng ăn thắng cố, mèn mén, uống rượu say để quên đi những ngày lao động vất vả trước khi “lên núi trở về nhà”. Những người say được coi là giàu bạn, nên người vợ dân tộc H’mông có thể kiên nhẫn ngồi nối từng sợi lanh để chờ chồng mà không chút phiền muộn. Khi nào người chồng tỉnh rượu hai người mới ngược núi trở về nhà.
- Thuốc nam chữa bệnh
Trong mỗi  tộc người nhóm ngôn ngữ H’mông, Dao - Kađai, Tạng miến đều có nhiều người biết tìm kiếm và bào chế cây thuốc nam (nhân trần, củ gấu, sa nhân, nấm linh chi, củ sâm...) để chữa bệnh. Trước đây, người lấy thuốc luôn giữ bí mật, sự linh nghiệm của cây thuốc, lặng lẽ vào rừng hái thuốc và chữa bệnh cùng với phép thuật riêng của riêng mình. Ngày nay, đồng bào đã biết nhân giống, trồng các loại cây thuốc quý như: Nấm linh chi, hoa hồi, củ sâm, để sử dụng, bán cho người dân quanh vùng và bán cho các hiệu thuốc lớn.
- Văn học, âm nhạc nghệ thuật dân gian
Văn học dân gian của các  tộc nguời  nhóm H’mông - Dao, Ka Đai, Tạng - Miến đa dạng, phong phú về thể loại và nội dung, bao gồm: thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, sử thi, dân ca, tục ngữ, hò vè, câu đối… với nội dung ca ngợi tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, ca ngợi tinh thần đoàn kết, chiến thắng bạo ngược, lên án chế độ cũ bất công, nêu lên nỗi khổ của những người làm tôi tớ, bảo vệ tình yêu đôi lứa và những phong tục tộc nguời.
Âm nhạc, nghệ thuật dân gian tộc ngườicó nhiều nét độc đáo với các nhạc cụ đa dạng như: khèn, sáo, đàn môi, kèn lá, đàn tròn, hồ, nhị, trống thường thấy ở người H’mông; Kèn loa, đàn tranh, sáo, tiêu, trống, thanh la, não bạt, chũm choẹ, tù và… thường thấy ở người Dao; khèn bè, đàn tày nhạy, sáo trúc của người Pà Thẻn; Trống, chiêng, đàn tính 3 dây, khèn, sáo dùng phổ biến ở cư dân La Chí và các tộc người nhóm Tạng - Miến. Trống đồng trước đây được dùng phổ biến trong đời sống của người Pu Péo, Lô Lô. Ngày nay chỉ tồn tại trong đám tang của người Lô Lô (gồm trống đực và trống cái) để đưa tiễn linh hồn người qúa cố về với tổ tiên.

Đồng bào thường tổ chức hát múa tập thể, các trò chơi dân gian như ném còn, đu thăng bằng, đu dây, thổi khèn, chơi cà kheo trong các dịp tết, hội xuân. Hát trong đám cưới, xin dâu giữa nhà trai và nhà gái kéo dài 3 - 4 giờ liền đã trở thành sinh hoạt văn nghệ độc đáo của nhiều tộc người. Trong đó phải kể đến tiếng hát làm dâu của người H’mông, hát "Ni ca" của người La Chí, các điệu múa của người La Hủ… rất đặc sắc.

Văn hóa các cư dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái (Văn Hóa Việt)

Các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có chung nguồn gốc lịch sử nằm trong khối Bách Việt xưa. Cư dân Tày-Thái cổ đã góp phần sáng tạo nền văn hoá bản địa ở vùng Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương, được gọi là văn hoá Nam á hay văn minh Sông Hồng.
Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái có 8 tộc người: Tày, Thái, Nùng, Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay, Giáy. Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An…
  
- Cấu trúc làng bản của cư dân Tày - Thái.
Làng bản của các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái thường dựng ở  thung lũng lòng chảo hay bên sườn đồi. Mỗi bản có từ  20 - 25 nóc nhà, những bản lớn có tới vài chục nóc. Nhà được dựng theo thế đất, dưới chân đồi, tựa lưng vào núí, mặt trước hướng ra đồng ruộng, sông suối, tiện cho việc sản xuất và đi lại. Mỗi bản có ranh giới cụ thể, có nguồn nước, ruộng đất, bãi tha ma riêng. Trong bản của người Tày, Nùng, Sán Chay thường có khuôn viên, vườn tược bao quanh các nhà. Bản của người Thái vùng Tây Bắc được dựng theo kiểu mật tập.
- Góc nhà dân tộc Thái (Nhóm Thái đen)
Các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái đều ở nhà sàn, nhưng ở mỗi tộc người lại có những đặc điểm riêng về kiểu dáng, kiến trúc và mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà.
Trong không gian trưng bày, Bảo tàng trích đoạn một góc nhà sàn của người Thái (nhóm Thái Đen), huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La
Nhà người Thái Đen có kết cấu dạng mai rùa, kiểu kiến trúc truyền thống này gắn với một truyền thuyết. Xưa kia người Thái không biết làm nhà để ở, một đêm họ mơ thấy một con rùa về báo mộng và bảo rằng "Nhìn vào hình dáng tôi mà làm, bốn chân là bốn trụ cột chính đỡ nhà, vẩy rùa là ngói lợp". Từ đó ngôi nhà sàn của người Thái Đen có hình dáng như chiếc mai rùa.
Nhà người Thái Đen làm bằng tre, nứa, gỗ, gianh, có hai mái chính chạy dọc và hai mái phụ chạy ngang, đầu hồi ngôi nhà trang trí hình khau cút.
Cửa sổ được trang trí hình vành trăng, liên quan đến lịch sử di cư của người Thái. Tiếp theo là kiểu trang trí mẹ con - Cha con theo cặp đối xứng, thể hiện ước mong có một gia đình đoàn tụ, hạnh phúc. Những chấn song hình răng bừa  là những tín hiệu biểu hiện cho sự sung túc, hạnh phúc của chủ nhân ngôi nhà.
Ngôi nhà sàn Thái bao giờ cũng có hai cầu thang, phía trước là cầu thang dành riêng cho con trai và khách là nam giới, gọi là (táng quản). Cầu thang phía sau dành riêng cho nữ giới, gọi là (táng chan).
Mặt bằng sinh hoạt trong nhà được bố trí chặt chẽ. Con trai lớn trước khi lấy vợ, ngủ ở vách phía sau Táng quản, được coi là nơi cư ngụ của thần, dành cho việc thờ cúng. Tiếp đến là chỗ ngủ của bố mẹ và con gái lớn. Vợ chồng trẻ bao giờ cũng nằm ở cuối dãy.
Nhà có hai bếp lửa, một đặt ở đầu táng quản dành để đun nước, sưởi ấm và tiếp khách nam. Một bếp đặt ở táng chan dùng tiếp khách nữ, nấu ăn và nấu cám lợn.
Trong mỗi góc buồng ngủ của người Thái được chủ nhà trang trí đẹp và ngăn nắp, với các sản phẩm dệt thổ cẩm như: chăn, gối, đệm, màn che. Thông qua góc buồng ngủ của người Thái phần nào thể hiện sự phát triển nghề trồng bông dệt vải của người Thái. Trước đây, phụ nữ Thái phải biết trồng bông dệt vải mới có quyền lấy chồng và nuôi con. Vì vậy, từ khi 12-13 tuổi các cô gái phải tập làm quen với công việc thêu thùa, dệt vải, đến khi trưởng thành có thể dệt mọi sản phẩm cần thiết phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Theo phong tục người Thái khi đi lấy chồng, con gái vẫn phải mặc trang phục truyền thống và mang theo về nhà chồng rất nhiều của hồi môn, chủ yếu là sản phẩm dệt: Gối, chăn, đệm...
Người phụ nữ Thái luôn gọn gàng và chăm chút chỗ ăn, chỗ ngủ cho từng thành viên trong gia đình. Khi có khách đến chơi nhà ngủ qua đêm, bên bếp lửa hồng, người đàn ông ngồi tiếp khách, người phụ nữ đã chuẩn bị chọn bộ chăn, gối đẹp nhất, ủ ấm trước rồi mới mời khách nằm nghỉ. Lâu dần, tập tục này đã trở thành nét đẹp văn hoá truyền thống đậm nét nhân văn.
- Góc bếp sinh hoạt dân tộc Tày.
Trong ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày bao giờ cũng có 2 bếp lửa, một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm, đun nước, tiếp khách và một bếp ở gian trong để nấu ăn.
Bếp nấu ăn đặt gần chỗ để nước, tiện cho việc nấu nướng. Khung bếp làm bằng gỗ sồi, kén hay táu mật. Trên mỗi  bếp có thể bắc 2 kiềng, để vừa nấu ăn và nấu cám lợn. Khi trong nhà có việc hiếu, hỷ hay có khách, một kiềng nấu nướng thức ăn, một kiềng xôi cơm.
Bếp lửa rất quan trọng với người Tày. Vì vậy, khi làm xong nhà đồng bào rất coi trọng việc vào nhà mới. Sau những nghi lễ cúng thần linh, tổ tiên, chủ nhà nhất thiết phải mang một số vật tượng trưng: lọ dấm, hũ mẻ, bình vôi... dọn về nhà mới.
Người Tày còn có tục giữ lửa bằng 2 cây củi to, dài ủ suốt ngày đêm tại bếp. Mỗi khi nấu chỉ cần một que đóm mỏng, một chiếc ống thổi, lửa sẽ bùng lên. Đêm 30 tết, người ta thay 2 thanh củi dài giữ lửa làm sao cho hết tháng giêng vẫn chưa cháy hết. Khi đặt cây củi ủ lửa vào bếp, chủ nhà còn buộc vào cây dài nhất một chiếc bánh nẳng và thắp một nén hương để gửi gắm ước muốn về sự no đủ, may mắn, đồng thời biết ơn ngọn lửa suốt năm, suốt đời chung thuỷ với con người để mời bếp lửa vui tết với cả nhà.
Sau những giờ lao động mệt nhọc, các thành viên trong gia đình ngồi quây quần bên bếp lửa, trò chuyện, bàn bạc công việc gia đình, chị em ngồi bên bếp lửa tranh thủ quay sa kéo sợi dệt vải
 Hình ảnh cô gái Tày duyên dáng đang quay sa kéo sợi bên bếp lửa hồng là công việc thường xuyên vào các buổi tối. Vào dịp lễ tết, khách đến chơi nhà còn được thưởng thức món cơm lam thơm, dẻo, thắm đượm tình người.
- Nghề thủ công truyền thống nhóm Tày - Thái.
Do nền kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp đã tạo điều kiện cho các nghề phụ gia đình phát triển. Đồng bào đã tự tay làm ra mọi sản phẩm cần thiết để phục vụ cuộc sống trong gia đình từ việc trồng bông, kéo sợi, dệt vải, đan lát, rèn đúc, nghề gốm đến nghề mộc.
 + Nghề rèn Nùng An:
Nghề rèn truyền thống của đồng bào Nùng có kỹ thuật khá cao. Sản phẩm rèn đúc không chỉ được đồng bào Nùng chuyên dùng, mà hầu hết các dân tộc lân cận đều ưa chuộng. Nghề rèn đúc phát triển nhất là ở nhóm  Nùng An ở Phúc Xen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Với bàn tay khéo léo của những người  thợ rèn cùng với những công cụ giản đơn  như bễ, đe, kìm kẹp và búa rèn... đồng bào Nùng đã tạo ra các loại sản phẩm cần thiết  phục vụ cho đời sống của mình. Sản phẩm rèn của người Nùng An gồm đồ gia dụng và công cụ sản xuất với hơn 20 chủng loại khác nhau, nhưng phổ biến và thông dụng hơn cả vẫn là các loại công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của đồng bào trong vùng như: Dao, cuốc, liềm, nhíp, hái, xẻng...
- Nghề gốm của người Thái
Trước đây, nghề gốm truyền thống của đồng bào Thái ở nhiều nơi như: Thuận Châu, Chiềng Cơi, Hua La và Mai Sơn (Sơn La). Hiện nay, ở những nơi này nghề gốm đã mai một, chỉ có người Thái ở Mường Chanh, huyện Mai Sơn còn duy trì nghề gốm.
Nguyên liệu làm gốm ở Mường Chanh chủ yếu là đất sét màu trắng nhạt, xanh đen, vàng, rất mịn và dẻo nên không qua công đoạn sử lý hoặc pha trộn thêm cao lanh. Công cụ tạo hình gốm của người Thái là bàn xoay bằng thớt gỗ tròn, đường kính 39 đến 40 cm, cao 19 đến 20 cm, úp trên một trụ gỗ chôn chặt xuống nền đất.
Nung gốm là khâu then chốt nhất trong quá trình sản xuất gốm của người Thái ở Mường Chanh, nó quyết định chất lượng sản phẩm. Mỗi gia đình ở Mường Chanh đều tự làm lấy lò nung gốm. Người ta chọn chỗ đất cứng hay những chỗ đất phong hóa để đào lò, tiết kiệm củi đốt, sản phẩm chín tốt hơn và vào mùa mưa không bị sập.
Sau đó, họ dùng cuốc, xẻng khoét vào sườn đồi theo kiểu lò hầm, hình dáng mu rùa (cao ở giữa và thấp dần ra xung quanh). Đáy lò dốc nghiêng, thấp dần từ ống khói ra phía cửa lò.
Sản phẩm nghề gốm của người Thái Mường Chanh khá phong phú, gồm hơn 10 loại với nhiều hình dáng, kích cỡ khác nhau, chủ yếu là gốm gia dụng như: chum, bình có quai, nồi nấu cách thủy, chày cối dùng để nghiền gia vị, mõ để đeo trâu, bò... Bên cạnh gốm gia dụng, các lò gốm ở Mường Chanh cũng sản xuất một số gốm mỹ nghệ, các con giống như: Trâu, bò, ngựa, lợn, gà, vịt, cua, cá... Người Thái Mường Chanh còn sản xuất một số đồ gốm có giá trị như: Chum to, lọ cổ nhỏ được dùng làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng.
Gốm của người Thái Mường Chanh thuộc loại gốm trơn, không tráng men, ít tinh xảo và thậm chí có phần hơi thô, nhưng vẻ đẹp của nó lại toát lên chính nhờ sự thô ráp, mộc mạc đó. Gốm Mường Chanh có nhiều ưu điểm: Nhẹ hơn, khó vỡ hơn và cũng ít bị rò rỉ hơn so với các nơi khác
Ở Mường Chanh, tất cả các thành viên trong gia đình từ già đến trẻ đều có thể tham gia làm gốm. Đàn bà con gái và trẻ em có thể tham gia khai thác nguyên liệu, gia công nguyên liệu, quay bàn xoay... Còn đàn ông phụ trách các khâu quan trọng như: tạo hình sản phẩm, xếp gốm vào lò, nung.
- Nghề dệt:   
Vốn là cư dân nông nghiệp lâu đời, các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày- Thái đều trải qua một thời kỳ dài trong nền kinh tế tự  túc, tự cấp. Ngoài trồng trọt  và chăn nuôi, các nghề phụ gia đình như mộc, rèn, đan lát cũng phát triển để đáp ứng nhu cầu ăn, mặc ở và đồ dùng cần thiết cho gia đình. Trong đó, dệt vải truyền thống được coi là thế mạnh của cư dân vùng thung lũng. Mọi nhà đều tự trồng bông kéo sợi dệt vải. Nhà nào cũng có công cụ dệt vải: Cán bông, sa kéo sợi, khung cửi. Nhiều gia đình còn có tới hai ba bộ khung dệt vải. Để có một tấm vải, chị em phải thực hiện rất nhiều công đoạn như trồng bông, cán bông, bật bông, quấn cúi bông, se sợi, hồ sợi, nhuộm sợi, dàn sợi, lên go, mắc cửi và dệt vải.
Việc dệt vải được chị em làm trong những lúc nông nhàn, nên để dệt được  một tấm vải phải mất hàng tháng, còn vải thổ cẩm phải mất 5 đến 6 tháng. Họ không chỉ dệt vải để phục vụ bản thân, gia đình mà còn đem trao đổi với bên ngoài.
-  Canh tác nông nghiệp
Cư trú ở vùng thung lũng, có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nơi có nhiều cánh đồng màu mỡ, đồng bào nhóm ngôn ngữ Tày-Thái đã sớm phát triển nông nghiệp ruộng nước kết hợp với nương rẫy. Kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác đạt đến trình độ khá cao. Đồng bào tuân thủ chặt chẽ nông lịch để gieo trồng, sử dụng cày bừa trong khâu làm đất. Đồng bào đã sáng tạo và hoàn thiện các công trình thuỷ lợi phù hợp với địa thế của ruộng. Họ có nhiều kinh nghiệm trong việc be bờ, đào mương, đắp phai, bắc ống dẫn nước về ruộng, đặc biệt là việc sử dụng chiếc cọn nước để "dẫn thuỷ nhập điền".
Cọn nước được làm bằng những cây vầu nhỏ, gỗ, lợi dụng sức nước ngăn dòng, tạo áp lực, tác động cho guồng quay. Khi cọn quay, các ống tre gắn xunh quanh vành cọn sẽ múc nước từ dưới suối lên đổ vào hệ thống mương máng dẫn nước về ruộng.
Trên nương rẫy, cư dân Tày, Thái phổ biến canh tác theo phương thức phát, đốt, trồng trỉa. Mùa thu hoạch, họ dùng nhíp hái từng bông lúa, bó thành cum, mang về, để lên gác bếp. Khi ăn, họ mang cum lúa xuống vò tách hạt và giã thành gạo.
 Công cụ thu hoạch lúa gồm có liềm, hái, nhíp, các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Lào còn sử dụng loóng để đập lúa ngay tại ruộng. Loóng có hình dáng giống như chiếc thuyền độc mộc, nhưng ngắn hơn. Khi đập lúa, người ta đập trên hai đầu của loóng, có phên che hai bên chắn thóc không bắn ra ngoài.
Loóng đập lúa là một công cụ lao động sản xuất mà cư dân miền núi, phản ánh trình độ canh tác và sự ứng xử phù hợp với điều kiện môi trường.
 Ngoài lúa, họ còn trồng ngô, rau, đậu, bầu bí và các loại hoa màu để cải thiện đời sống.
- Khai thác nguồn lợi tự nhiên.
Cư trú gần các con sông, khe suối, cư dân Tày-Thái còn phát triển đánh bắt cá để cải thiện bữa ăn thường ngày. Các loại dụng cụ đánh bắt truyền thống chủ yếu là đơm, đó, rọ nhử…Ngày nay, đồng bào còn dùng chài lưới để đánh bắt cá.

- Phương tiện vận chuyển:
Xuất phát từ điều kiện cư trú vùng thung lũng, nơi có những khe suối, những dòng sông và hồ lớn. Cư dân Tày - Thái đã tạo cho mình những phương tiện vận chuyển phù hợp với từng địa thế khác nhau. Với những con đường mòn men theo các sườn dốc, đồng bào dùng dậu gánh để tránh va quệt. Dậu gánh có nhiều loại với nhiều chức năng khác nhau dùng trong lao động sản xuất. Loại dùng vận chuyển nông sản như rau, củ, quả thường đan lóng thưa với hoa văn mắt cáo. Loại  dùng vận chuyển các loại hạt thường được đan các nan đan khít nhau. Ngoài ra dậu còn là của hồi môn cho cô dâu về nhà chồng bao giờ cũng có nắp, được đan cải hoa văn đẹp.
Những vùng gần sông nước, lợi dụng dòng chảy, cư dân nơi đây dùng thuyền độc mộc đi lại và vận chuyển hàng hoá.
Chiếc thuyền đuôi én trưng bày tại Bảo tàng, của gia đình ông Lù Văn Pấc, Bản Hậu, xã Chiềng Bằng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La

- Lễ hội  Lồng tồng  
Cứ mỗi độ Tết đến xuân về, các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày-Thái lại tưng bừng mở hội đón xuân để tạ ơn thần đã phù hộ cho mùa màng bội thu, cuộc sống tốt lành, đồng thời cầu xin thần năm mới cho mùa màng tươi tốt, cuộc sống bình an, con người khoẻ mạnh. Cầu mùa, cầu an, cầu phúc, cầu sự bình yên...
 Một trong những lễ hội lớn mang bản sắc tộc người, đó là lễ hội Lồng tồng.
Lồng tồng, theo tiếng Tày - Nùng là hội xuống đồng, được tổ chức vào dịp đầu xuân năm mới khoảng mùng 3 tết  thời gian bắt đầu của một mùa sản xuất mới.
 Địa điểm tổ chức hội thường diễn ra trên một thửa ruộng rộng Tổng (gọi là nà Lồng - ruộng xuống đồng) của một làng có dân số đông tập trung. Hay trước đền, miếu của làng có đền thờ thần nông, có miếu thờ thổ công.
Lễ hội gồm hai phần: Phần lễ và phần hội. 
Phần Lễ: là nghi thức đầu tiên, thiêng liêng và quan trọng nhất. Các gia đình chuẩn bị một mâm cỗ gồm có: gà trống thiến, thịt lợn quay, rượu, xôi, bánh bỏng, cúng tạ ơn thần nông và cầu mùa tại ruộng hay trước miếu. Sau đó, họ đón một lão nông làm ăn giỏi trong vùng hạ một đường cày tượng trưng.
Phần hội: Là phần chính của lễ hội lồng tồng để du khách thập phương đến xem và tham dự các trò chơi, trò diễn dân gian truyền thống: như múa lân, kéo co, đấu võ, tung còn, hát Sli, hát Lượn.....và điển hình là trò chơi tung còn, một  hoạt động không thể thiếu trong lễ hội. Đây là trò chơi dân gian mang đậm dấu ấn tín ngưỡng phồn thực, thể hiện rõ quan niệm âm dương của cư dân Nam á.
 Bãi chơi còn là một khu đất bằng phẳng, người ta trồng ở giữa ruộng một cây còn cao từ 15 - 20m, trên ngọn uốn thành vòng tròn có đường kính 50-60cm tượng trưng cho bầu trời còn gọi là phỏng còn. Có nơi vòng tròn được dán kín bằng một tờ giấy hồng tượng trưng cho sự trong trắng của người thiếu nữ đến tuổi trưởng thành.
Quả còn hình vuông tượng trưng cho mặt đất được khâu ghép bằng nhiều mảmh vải khác màu, tượng trưng cho ngũ phương, bên trong nhồi hạt thóc, hoặc hạt bông, tượng trưng cho sự sống, quả còn có tua dài bằng vải ngũ ngũ sắc.
Có hai hình thức tung còn:
Cách thứ nhất: Tung còn mang tính lễ nghi, lối tung còn này đòi hỏi người chơi phải có sức khoẻ, có kỹ thuật và chỉ cần tung thủng vòng tâm là được. Đồng bào quan niệm, nếu không có ai tung thủng hồng tâm của phỏng còn thì năm đó âm dương không hoà hợp, không có mưa thuận gió hoà, năm đó sẽ mất mùa đói kém. Bởi vậy trong ngày hội ai tung thủng hồng tâm đầu tiên được coi là ngôi sao sáng trong năm, mọi người thán phục và được lĩnh phần thưởng của làng.
Cách thứ hai: Tung còn giao duyên, những người chơi đứng thành hai bên giữa các làng với nhau, một bên nam, một bên nữ. Đích của quả còn lúc này không nhất thiết phải trúng phỏng còn, mà họ tung cho nhau bắt còn. Nếu bên nào để còn rơi xuống đầt nhiều lần là thua cuộc. Nếu ai tung còn được bạn tình bắt được sẽ hứa hẹn về tình yêu đôi lứa tốt đẹp. Qua buổi tung còn nhiều đôi trai gái đã kết bạn và đi tới hôn nhân. Vì vậy, các nhà dân tộc học nói hội tung còn là “ngày giải toả tâm linh và cân bằng sinh thái”.
Kết thúc cuộc chơi, người chủ trì lễ hội cũng là người khép hội cầu mùa bằng việc dùng dao rạch quả còn và ban phát những hạt giống cho mọi người.
Đồng bào quan niệm, những hạt giống này là hạt giống thiêng sẽ đâm trồi nẩy lộc nhanh chóng. Vì nó được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ( âm - dương). Mọi người ai cũng vui vẻ đón nhận, với niềm hy vọng vụ mùa tới sẽ bội thu.

- Điệu múa xoè các tộc người Thái, Lào, Lự
Xoè là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian vốn có từ rất lâu đời của tộc người Thái, Lào, Lự, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó là món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào. Xoè quan trọng đối với các tộc người Thái, Lào, Lự cũng giống như làn điệu then, câu hát lượn của người Tày - Nùng.
Vào dịp lễ tết, hội hè, mừng nhà mới...không thể thiếu những điệu múa xoè của cộng đồng như: Xoè quạt, xoè khăn, xoè nón, xoè bướm, xoè đèn...
Phụ nữ Thái múa xoè bao giờ cũng gọn gàng, duyên dáng trong bộ váy đen, thắt lưng xanh, áo cóm cùng đôi hàng cúc bướm, chiếc khăn piêu sặc sỡ và các loại trang sức như; vòng tay, xà tích...
Nghệ thuật múa xoè dân gian mang đậm nét văn hoá tộc người, đã đi vào kho tàng văn nghệ dân gian Việt Nam và đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng đời sống văn hoá của dân tộc.
- Tôn giáo tín ngưỡng của các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái
Hầu hết các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái đều không theo một tôn giáo chính thống, mà chịu ảnh hưởng của tam giáo (Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo).
Là cư dân nông nghiệp, sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên đồng bào tin vào thuyết vạn vật hữu linh, mọi vật đều có linh hồn. Trong các làng bản của đồng bào có một tầng lớp người gọi chung là: “Thầy” (Mo, Then, Tào, Pụt). Họ cho rằng, các thầy này được thần linh, thượng đế ban cho họ để thực hiện nhiệm vụ truyền chỉ và giúp dân giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc đời bằng các nghi lễ cúng bái.
Các tộc người Tày, Nùng, Sán Chay cho rằng: Cả 4 chức sắc tâm linh Tào, Mo, Then, Pựt đều là con cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trong đó, thày Tào là anh cả, Mo - thứ hai, Pựt - thứ ba và Then là em út. Ngọc Hoàng Thượng Đế giao cho các con đi cứu nhân độ thế, trị bệnh cứu người.
Trong phần trưng bày tôn giáo tín ngưỡng các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, Bảo tàng giới thiệu một nghi thức trong lễ “lẩu then” của người Tày, Nùng ở Lạng Sơn.
Lẩu then hay còn gọi là "Lẩu pựt", được tổ chức vào tháng Hai, tháng Ba âm lịch. Lẩu then còn là một nghi lễ mang tính tôn giáo được tổ chức với ý nghĩa nhà then mang lễ vật đi tiến cống Ngọc Hoàng theo thông lệ hàng năm, khi gia đình nhà ai có người ốm đau hoặc cầu yên giải hạn phải mời bà then về nhà làm lễ chữa bệnh, cầu yên, giải hạn.
Các bà then thường là nữ. Họ là nghệ nhân vừa đàn, vừa hát. Trang phục làm then, gồm có: áo, mũ làm then, đi giầy vải đỏ hoặc xanh. Bộ đồ làm then gồm: Dấu ấn, chuông đồng, nhạc sóc, quạt giấy, túi vóc, khăn đệm nhạc sóc và không thể thiếu một cây đàn tính và nhiều nghi trượng như cây bông, cầu âm dương, cây chuối, nhà hoa, nhà long đình, nhà hạn... để tạo ra không gian của một thế giới theo trí tưởng tượng của con người.
Lẩu then là nghi lễ trang trọng nhất trong sinh hoạt văn hoá then, là ngày hội của các bà then, mấy năm mới tổ chức một lần.
- Dụng cụ hành lễ của thầy cúng:
Trong tổ hợp trưng bày tín ngưỡng dân gian, Bảo tàng còn giới thiệu một bộ sưu tập đạo cụ của thầy cúng dân tộc Nùng Phàn slình.
Khi hành lễ, ngoài mũ, áo, thầy cúng  còn  sử dụng các đạo cụ mà họ cho rằng ở đó có dấu ấn và sự chi phối của thần linh như: Dấu ấn Tam bảo do Ngọc Hoàng ban cho thầy cúng để đóng dấu các tờ sớ gửi lên thiên đình trong các nghi lễ cúng đám ma, đám chay. Ngọc Hoàng nhìn thấy dấu mới ghi nhận và phù hộ cho con cháu được mạnh khoẻ, mùa màng bội thu. Tuy nhiên, chỉ có các thầy cúng cao tay mới được cấp dấu và được phép đóng dấu vào các tờ sớ.
Chó gỗ, được coi là chó trời có nhiệm vụ bảo vệ thầy cúng khi thầy tiến hành mọi nghi lễ trong đám ma, giữ cho ma quỷ không đến quấy phá.
Chuông gõ, dùng để thỉnh Ngọc Hoàng, thần linh về khi cúng, dành cho các thầy cúng cao tay, có chức sắc trong cộng đồng.
Kiếm, dùng chém ma quỷ khi chúng đến quấy phá việc cúng lễ.
Não bạt, dùng để báo cho mọi người biết có đám ma,đồng thời gọi các vong nhân, hồn ma về dự hội làm cho người chết được vui vẻ.
Chuông lắc, dùng để tạo âm thanh cho vong linh người quá cố được vui khi gặp tổ tiên, đồng thời động viên gia đình, con cháu được yên lành
Lệnh bài, dùng để xin lệnh trời thực hiện đám cúng, đồng thời thỉnh bái, báo cho thánh biết dưới trần gian có việc cúng lễ.
Thẻ âm dương, là tín vật để nhận biết sự chứng giám của thần linh.Thông thường khi cầu xin Ngọc Hoàng và thần linh một việc gì đó, nếu xin cả hai đều ngửa (dương) có nghĩa là thần linh cười hay mắng. Nếu cả hai úp (âm) hay một mặt dương, một mặt âm là được.
Kèn: dùng để thổi trong đám ma, báo hiệu cho dân làng biết nhà có người chết, đồng thời cũng là vật khóc người quá cố thay cho con cháu trong gia đình.
- Tranh thờ thập điện Diêm vương của người Tày, Nùng.
"Thập Điện Diêm Vương" là bộ tranh thờ được dùng trong các nghi lễ tang ma của thày Tào các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay. Mỗi khi gia đình có người chết, ngoài việc lập bàn thờ của thầy cúng, treo tranh Tam Thanh, nhất thiết phải có tranh thờ "Thập điện Diêm Vương" và "Phá ngục" để thày Tào thực hiện nghi lễ cúng dẫn độ linh hồn người chết vượt qua 10 cửa điện về với tổ tiên.
 Bộ tranh "Thập Điện Diêm Vương" gồm mười bức, miêu tả 10 vị vương cai quản âm phủ. Mỗi vị đứng đầu một điện để xét xử công tội những người mới chết. Người ta tin rằng sau khi chết, linh hồn bị quỷ vô thường đón linh hồn người chết dẫn tới trước điện diêm vương thứ nhất thuộc quyền của Tần Quảng Vương. Tại đây, có sổ sách ghi đủ về tuổi thọ, xem từ trần có đúng kỳ hạn hay không. Sau đó sẽ tra đến sổ sách ghi rõ điều phúc đã  làm, điều ác đã gây ra lúc sống ở trên đời, để định công và tội. Tại đây có gương nghiệt kính đài: cân phúc, cân tội, ai có phúc thì được hưởng, có tội sẽ bị trừng phạt qua 8 cửa ngục, bắt đầu từ cửa nhị điện Sở Giang Vương đến tam điện Tống Đế Vương, tứ điện Ngũ Quan Vương, Ngũ Điện Diêm La Vương, Lục Điện Biện Thành Vương, Thất điện Thái Sơn Vương, Bát Điện Bình Đẳng Vương, Cửu Điện Đô Thị Vương, để đầu thai kiếp khác tại cửa ngục thứ mười của Chuyển Luân Vương.
Như vậy nội dung các bức tranh đã phản ánh rất rõ quan điểm khuyến thiện, trừng ác theo giáo lý nhà Phật, có tác dụng giáo dục, đạo đức, nhân cách, hướng tới cái thiện của nhân gian.
- Âm nhạc dân gian nhóm Tày - Thái.
Nhạc cụ của các tộc người trong nhóm  ngôn ngữ Tày-Thái độc đáo và đặc sắc. Tiêu biểu nhất phải kể đến cây đàn tính của người Tày, trống Tang sành của người Sán Chay, Khèn bè của các tộc người Thái, Lào, Lự. Ngoài ra, còn có nhị, thanh la, não bạt, chuông, trống dùng trong các nghi lễ cúng và tang ma tộc người.
- Rối cạn của người Tày ở Thẩm Rộc, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên:

Múa rối Thẩm Rộc thuộc loại hình rối que. Thông thường, phường rối có 12 thành viên điều khiển con rối bằng que tre, dây có sự hỗ trợ của âm nhạc. Con rối được hóa trang giống như những nhân vật sân khấu, các tích trò đều có lời đọc để diễn giải. Rối cạn được trình diễn chủ yếu để mua vui và giáo dục. Nội dung của các màn diễn ca ngợi những con người xuất chúng, sống có đức, có tâm. Hàng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, khi tổ chức lễ hội Lồng tổng, đồng bào Tày ở Định Hóa không thể thiếu vắng trò rối cạn để cầu may, cầu mùa, chúc tụng nhau năm mới làm ăn phát đạt, an khang, thịnh vượng.