Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất

Friday, May 12, 2017

MƯA ĐÊM NGOẠI Ô

Sheet Mưa Đêm Ngoại Ô của nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng. (mdno)

TÌNH YÊU BÊN DÒNG SÔNG QUAN HỌ

Sheet TÌNH YÊU BÊN DÒNG SÔNG QUAN HỌ của nhạc sĩ Phan Lạc Hoa.(tybdsqh)


TRỘM NHÌN NHAU

Sheet TRỘM NHÌN NHAU của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.(tnn)


NGOẠI Ô BUỒN

Sheet NGOẠI Ô BUỒN của nhạc sĩ Anh Bằng.(nob)










Monday, May 8, 2017

Chính xác, trang phục người Tày sử dùng màu chàm/đen (Mai Thúy Hằng)

chinh-xac-trang-phuc-nguoi-tay-su-dung-mau-cham-den
Trang phục của người Tày tương đối đơn giản, sử dụng màu chàm/đen là phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ. Bộ y phục cổ truyền được làm từ vải bông tự dệt, hầu như không thêu thùa, trang trí.

Phụ nữ Tày thường mặc áo dài đến bắp chân màu đen, gài khuy đồng bên phải, ngang lưng thắt dải, hai đuôi dải buông xuống đằng sau. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song cũng có đủ vòng tay, vòng cổ…, chủ yếu bằng bạc.
Trang phục người dân tộc Tày đơn giản nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp tự nhiên, bình dị, trang nhã.

Mai Thúy Hằng

Trang phục truyền thống của người Tày (Hữu Duyệt)

Người Tày cư trú ở vùng miền núi phía Bắc. Từ sau năm 1975, người Tày di cư vào các tỉnh Tây Nguyên khá nhiều, ở Đắk Nông, người Tày định cư nhiều ở các huyện Chư Jút, Krông Nô, Đắk Mil…
Cũng như các dân tộc thiểu số khác, người Tày cũng có trang phục riêng, dù không sặc sỡ như của người Mông, Thái, Mường… nhưng cũng có sự độc đáo riêng biệt.

Trang phục của phụ nữ Tày gồm bộ áo và váy. Bộ áo gồm bên trong là yếm và bên ngoài là áo. Yếm là mảnh vải màu hình thang cân để che ngực; xung quanh vòng tròn cổ yếm có đính các hạt Mạt Đạo (là các cúc đúc bằng kim loại tròn hình cái mũ được mạ trắng lóng lánh, làm nổi bật cái cổ cao duyên dáng nơi đầu ngực chị em.

Bên ngoài mặc áo dài tay hay ngắn tay, gấu áo đều dài đến thắt lưng gọi là Cóm, cổ áo may hay khâu rất khéo theo vòng tròn cổ, áo xẻ giữa ngực xuống đến gấu áo để dễ thao tác khi mặc. Từ cổ áo xuống đến gấu có đính 7 đến 9 hàng cúc nhôm hay bạc hình con bướm, mỗi đôi có móc cài vào nhau làm cho khuôn ngực chặt chẽ.

Hiện nay chị em thường thêu hoặc mua sẵn ở chợ. Ngoài cũng là một áo dài tới qua đầu gối có hai dây thắt buộc ở vị trí giữa bụng. Nếu đi chơi, một số người thường đeo thêm túi vải sặc sỡ, nhưng đi rừng, đi nương thì thường thắt dây buộc vỏ dao vào người.

Chiếc váy có thân từ mắt cá chân lên đến bụng dưới thường là màu đen hoặc tràm xanh. Cạp váy là những miếng vải xanh, đỏ, hồng, có chiều rộng 3cm, dài 15cm khâu nối với nhau liên tục cho bằng chu vi của đường tròn váy. Phần trên là khổ vải rộng khoảng 22cm, được thêu tay. Hoa văn thêu là hình các con rồng, phượng và cỏ cây hoa lá bằng chí ngũ sắc rất công phu mỹ thuật; hoặc khâu vải hoa.

Khi mặc, váy rộng được gấp chặt vào thân người và giắt đầu váy vào phía nách bên trái hay nách phải, ở phía trên khuôn ngực. Ngoài cùng được thắt một khăn xanh màu thiên lý hay màu đỏ hồng; gọi là cái tềnh, được thả hai đầu cao thấp bên hông. Nơi dái tai đeo khuyên vòng hay các loại rtang trí khác bằng bạc.

Trang phục nam giới có áo, quần nhưng đơn giản hơn là áo thường may ngắn tay hoặc dài tay chật ống, xẻ tà ngang hông, trước ngực trái có một túi, dưới bụng hai túi, cổ tròn có nẹp dựng đứng nhưng không có ve cổ; áo được cài khuy vải. Chất liệu vải để may quần áo nam thường làm bằng vải bông tự dệt, đem nhuộm tràm, xanh đen.

Quần may kiểu ống đứng, và rộng để tiện khi vén lên qua suối, ở bụng buộc cạp túm lại với nhau, bên ngoài thắt thêm một dây rừng dẻo hoặc dây bông bện cho chắc chắn khi lao động. Người già thường chít khăn quanh đầu rộng khoảng 20cm dài độ 1m đem nhuộm tràm, chít khăn giắt mối rồi thả độ 20 phân xuống bên tai nào thuận tay. Đi rừng thường thắt dao cầm nỏ, đi chặt cây thì mang rìu; đi đào củ mài thì mang thuổng; đi chơi thì khoác túi vải đựng một số đồ vặt. Thanh niên đi chơi lễ hội, có thể thắt thêm khăn màu ở bụng thay dải rút cho an toàn.

Hữu Duyệt

Từ trang phục dân tộc Tày nghĩ về bản sắc văn hóa Việt (Hồng Hải)

Trang phục dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường nhiều màu rực rỡ vui vẻ. Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu hãnh giữa bầu trời. Đó là khi ta ngắm nhìn các nhà sàn đẹp và những chiếc váy xòe màu sắc trên bản.
Đường dài, vòng vòng qua núi,
gần nửa ngày đường tôi chẳng thấy nhà sàn, chỉ thấy toàn nhà bê tông, nhà lớp ngói, lợp tôn lổn nhổn hai bên đường quốc lộ với lèo tèo với mấy cái quán ăn sơn lem nhem, bán mấy thứ linh tinh trước cửa. Đến nơi chúng tôi được đón tiếp ở khu nhà tầng như khu tập thể dưới Hà Nội thời bao cấp. Chúng tôi đến một nơi như doanh trại cũ của Pháp trước kia. Thị trấn chẳng còn bóng nhà sàn, cũng chẳng thấy bóng áo chàm. Các cháu người dân tộc và mọi người đều mặc quần áo như người Kinh. Kinh hóa và xi măng đến tận đỉnh núi. Ngày hôm sau đúng phiên chợ, tôi mới thấy một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy người Dao, đeo vòng rất ấn tượng, và lác đác vài người mặc trang phục dân tộc Tày. Chiều đi vào bản Hon, thăm nhà một trưởng bản, tôi mới tận mắt thấy cái nhà sàn giữa núi rừng. Phụ nữ Tày đứng tuổi ở đây còn giữ nếp sống cổ xưa không ra tiếp khách. Cụ trưởng bản Hon đón chúng tôi. Trời đã chập choạng tối, thấp thoáng một người đàn bà mặc áo chàm đi lên địu giỏ ngô khô mang cất lên góc nhà sàn để chuẩn bị làm rượu. Bây giờ tôi mới hiểu, trang phục Tày hết sức đơn giản, chỉ có đơn thuần một màu chàm. Trang phục giống nhau cho cả ngày lễ, ngày tang, ngày cưới, lao động, chợ xuân...


Để làm thơm trang phục, phụ nữ Tày ướp loại lá hoắc hương rất thơm, cũng thường dùng làm thuốc để trong rương đựng trang phục. Bình thường thì họ dệt vải đơn giản hoặc mua vải nơi khác đem về nhuộm chàm. Một số trang phục trang trọng hơn, họ dệt những hoa văn thiên nhiên quen thuộc như hoa, lá ẩn trên vải. Khi nhuộm nét đó đậm mầu vằn lên trông rất đẹp. Họa tiết được ký họa là những hình để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục giản đơn họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khúc. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Trang phục của họ giản dị, nhưng đồ chăn màn, khăn che bàn thờ tổ tiên lại có màu sắc, có thêm diềm ở phía trên  tương ứng với cõi dương - Trời; có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người và thêm đường diềm ở phía dưới  tương ứng với cõi âm - đất với hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian.

Người Tày sống giản dị nhưng trân trọng người đã khuất. Họ tin thế giới linh hồn bên kia luôn phù trợ họ. Họ trân trọng làm lễ tiễn đưa hồn người đã khuất về thế giới bên kia. Mong muốn hạnh phúc nơi vĩnh hằng, có âm dương hòa hợp, nên phụ nữ Tày không chồng không con tức là chưa có hạnh phúc trong cuộc đời dương thế, về bên kia sẽ cũng cô đơn. Theo quan niệm người Tày, những phụ nữ này vẫn phải hóa kiếp trở về cõi nhân gian. Khi nào đầy đủ cuộc sống lứa đôi mới được lên trên thế giới vĩnh hằng đó. Đó là một quan niệm nhân bản, để con người không sống ích kỷ, lẻ loi và chỉ nghĩ đến bản thân, nam nữ phải hòa đồng, chia sẻ trong cuộc sống thực tại và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Kẻ cô đơn bị coi như là còn ích kỷ. Thế giới bên kia hạnh phúc, lứa đôi, không có người cô đơn, bất hạnh, không có ích kỷ. Nên ai muốn về được thế giới bên kia hạnh phúc, thì ngay từ khi còn sống phải cố gắng cho mình có hạnh phúc lứa đôi và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Một quan niệm hết sức nhân bản. Một cách giúp con người phải đi tìm và xây dựng hạnh phúc để âm dương hòa hợp ngay từ dương gian.

Theo phong  tục Tày hầu như các màu sắc chỉ được dùng trong hoa văn trang trí trên mặt chăn hay các tấm thổ cẩm chứ không được dùng trên trang phục. Người Tày mặc giống nhau như mặc đồng phục mang một ý nghĩa nhân bản. Các dân tộc khác cũng có trang phục riêng để nhận nhau. Thời trước không có căn cước, giấy tờ, con người hòa đồng cùng thiên nhiên, đi giữa rừng có thể lạc hoặc xảy ra tai nạn. Nếu ai đó tình cờ trông thấy chỉ cần qua sắc phục là họ biết dân tộc nào, thì họ giúp đưa về bản đó, hoặc gọi ra đón về. Đó là hình thức nhận ra nhau và phân biệt với dân tộc xung quanh. Dù đi đâu, người cùng dân tộc cũng nhận ra đồng hương qua trang phục. Trang phục Tày giản dị nhất so với các trang phục dân tộc khác, không màu mè, để không phân biệt nghèo giầu. Khi đến ngày lễ hội vui của bản, người nghèo không mặc cảm vì quần áo, hay phải lủi trốn không dám đến. Họ sẽ không bị coi thường vì trang phục. Khi đi ra đồng, hay tiếp khách đều tiện, không cầu kỳ phải thay trang phục, không phải bận tâm vì không có quần áo sang mới dám đón khách. Khách chủ như nhau. Quần áo không đánh giá con người. Tình người mới quan trọng. Thường ngày lễ họ chỉ cần chọn bộ mới nhất đem ra mặc. Không ai bị chê cười vì không mặc đúng kiểu, đúng thời trang. Không ai phải lựa chọn bạn đời qua mác hiệu quần áo. Sự đơn điệu trong trang phục còn thể hiện nếp sống kỷ luật của dân tộc Tày. Tất cả như nhau, khi giúp đỡ nhau, có thể mượn trang phục của nhau mà không ai biết nghèo phải mượn… Người Tày vì lý do gì phải đi xa bản lập nghiệp khi trở về quê hương không ngại bị đánh giá sự thành công nếu vẫn mặc quần áo sắc tộc đến chào bà con.


Có người cho rằng mặc thế trông nghèo nàn. Mỗi sắc tộc có quan niệm sống khác biệt. Chính sự đơn giản có thể là nguyên nhân dân tộc Tày phát triển và giữ vững được cộng đồng của mình. Dân tộc Tày chiếm 20% tổng số dân tộc thiểu số (gồm 53 dân tộc trên 500 người, không tính người Kinh, vậy người Tày có khoảng 1,6 triệu người, sống rải từng khu ở vùng núi miền Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Lào Cai, Hà Giang. Dân tộc Tày chiếm 1,89% dân số người Việt Nam, đứng thứ 2 sau người Kinh. Dân tộc Tày phát triển mạnh dù địa lý hiểm trở, núi cao. Dân tộc Thái cũng như dân tộc Tày có nguồn gốc chung ngôn ngữ cổ, văn hóa có những nét tương đồng, nhưng trang phục Thái rất đa sắc. Có thể người Tày gốc chung một nguồn, nhưng do ban đầu nghèo hơn, với lòng tự trọng cao, tự lập nên đã tách ra và tạo nên dân tộc mang sắc thái riêng. Có thể tổ tiên ban đầu đi lập nghiệp nghèo, đã hiểu được cái tầm quan trọng của trang phục đối với sự đoàn kết anh em họ hàng, nên các trưởng tộc trong bản đã quyết định đơn giản hóa trang phục, trong mọi sinh hoạt. Hơn nữa kỹ thuật nhuộm màu ban đầu không thể nhiều màu như ngày nay. Màu chàm là màu thông dụng. Việc đơn giản hóa trang phục giúp người phụ nữ nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái và đồng áng hơn là suốt ngày phải lo trang phục đẹp để khoe với mọi người. Trang phục đồng bộ đơn giản giúp con người xích lại dễ dàng hơn, đồng cảm và tính đồng hương cao. Thời trước, ngay vua chúa Việt Nam cũng nghèo, trang phục đơn giản. Sự giản đơn của trang phục dân tộc Tày đã tạo nên sự liên kết giữa con người với nhau, mang ý nghĩa nhân bản trong sự tương trợ giúp đỡ nhau khi xã hội kinh tế chưa phát triển, còn du canh du cư trên miền núi phía Bắc lạnh lẽo và đầy thú dữ.

Rất tiếc ngày nay các bản người Tày đã bị Kinh hóa nhiều, các cô gái Tày mặc quần bò, váy đầm ngắn. Tất nhiên trong sự hội nhập với cả nước, và để phù hợp với công nghiệp hiện đại, họ không biết rằng họ sẽ đang rơi vào xu hướng mất bản sắc dân tộc. Khách du lịch đến Bắc Kạn hay đi Tuyên Quang, Hà Giang… ngắm hồ Ba Bể hay miền núi hoang sơ chứ không phải để ngắm những nam nữ dân tộc mặc quần bò, áo thun, nghe hát rap, và xem những ngôi nhà xi măng, nhà lầu, xe hơi… Họ thèm khát sự thay đổi không khí trong lành chưa bị ô nhiễm vì công nghiệp, với những con ngựa thồ trên núi, với những tiếng khèn gọi bạn, với những trang phục dân tộc và những nhà sàn lạ mắt… Đó là một nguồn thu nhập du lịch đáng kể, nếu như biết tổ chức và khai thác. Ngay bên bờ biển sát vách núi ở vùng Saint Lunaire, một vùng biển phía Tây Bắc nước Pháp, nơi có rất nhiều người đã từng có mặt ở Đông Dương, nỗi nhớ Đông Dương cho họ một ý tưởng lợp nhà bằng gianh, và đặt tên Quán “Gianh” (Bar “chaumière”). Trong khi đó chúng ta đang có sẵn lại phá đi để xây mấy cái nhà lợp tôn nóng bức, làm hỏng cả quần thể của núi rừng phía Bắc. Tại sao chúng ta không nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hiện đại kết hợp dùng nóc nhà gianh, xây kiểu nhà sàn, vẫn bền và giữ bản sắc dân tộc và thu hút được khách du lịch?

Nếu qua Paris chúng ta có thể gặp nhiều người phụ nữ Ấn Độ vẫn khoác cái khăn, áo xà rông của họ ngoài phố, phụ nữ châu Phi mặc áo màu rực rỡ giữa thành phố văn minh đầy kiêu hãnh, ở Việt Nam chúng ta ít khi gặp người thiểu số mặc trang phục dân tộc đi ngoài thành phố lớn. Phải chăng họ bị mặc cảm vì sự xa lạ giữa quần thể người Kinh đông đúc? Người Việt vốn hay tò mò nhìn họ, xem là dân trên núi xuống. Họ chỉ thay trang phục khi có yêu cầu buổi dạ hội, và có xe đến đón đi biểu diễn, hoặc đến nơi mới thay, họ không mặc trang phục của dân tộc mình ra đường. Ngày nay nhiều người mặc áo đũi, vải thô mát, kiểu dân tộc ở thành phố đã tạo ra một cái nhìn quen thuộc. Nhưng những tấm áo dài phụ nữ dân tộc hầu như không thấy xuất hiện ngoài đường. Tất nhiên do điều kiện giao thông, trang phục phụ nữ dân tộc không thể chen lấn ô tô buýt hay tàu xe, nhưng tại sao họ lại bắt chước trang phục phụ nữ phương Tây mặc váy ngắn dài đi làm bằng xe máy, xe đạp được, nhưng lại ngại mặc quần áo dân tộc của chính họ? Sự quen mắt và lạ đẹp sẽ trở thành mốt. Phụ nữ Kinh giờ đây sành điệu cũng sử dụng vòng bạc khuyên bạc kiểu dân tộc, khoác túi thổ cẩm đa sắc, trông vừa hiện đại vừa dân tộc tính khi đi chơi. Chúng ta biết mang trang phục thổ cẩm ra giới thiệu với người phương Tây, nhưng lại ngại giới thiệu với dân cả nước cùng đồng bào mình. Khi ra nước ngoài thì người Kinh lại mang túi, khăn, áo, quần thổ cẩm làm quà cho bạn Tây. Người dân tộc đang nắm trong tay cái bảo vật quý, quốc hồn quốc túy mà họ không biết trân trọng.

Dân tộc Bách Việt vốn đa màu sắc, tại sao chúng ta không khuyến khích mọi người mặc áo dân tộc ngoài phố để giúp phát triển kinh tế các vùng dân tộc và giữ bản sắc phong phú các dân tộc mà lại đi nhập cảng tràn lan những áo rẻ tiền bắt chước dân tộc thiểu số và nhuộm dởm bằng hóa chất. Ngày hội vui, tại sao mọi người cứ phải thích hóa trang kiểu Tây không hóa trang làm 54 dân tộc, vừa lôi kéo khách du lịch vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Cái gì ban đầu lạ, nhưng dùng nhiều thành quen mắt và trở thành quốc túy. Phở, nem Việt Nam được thế giới biết đến như thịt bò Kobe, Pizza, Mcdonald, được biết đến ở Việt Nam hiện nay… Vậy để phát huy và giữ bản sắc dân tộc, phải chính bản thân người dân tộc phải nỗ lực và tự hào cái mình hiện có, đem nó từ cái không phổ biến của dân tộc ít người trở thành cái phổ biến, như vòng bạc, áo khăn thổ cẩm và các món ăn đặc sản của núi rừng. Trong khi trang phục của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tuyệt diệu ít được khai thác, thì quần áo trang phục Tây thì được bày bán nhan nhản và toàn sản xuất từ Trung Quốc. Tiếng Việt phong phú, nhưng các chương trình giải trí trên vô tuyến lại dùng tiếng Anh dân dã xen vào như “yes” rồi vỗ tay vào nhau đánh chát, chưa kể người dẫn chương trình (gọi là M.C) còn phát âm chưa chuẩn ngoại ngữ, đôi khi gây nực cười như “Việt Nam ai đần (idol)”…

Người Việt hầu như ai cũng giữ tục lệ thờ cúng tổ tiên. Hồn các cụ về tưởng bị lạc đường, nhầm nhà vì ngôn ngữ loạn tiếng Anh nhiều. Người ta thi nhau dịch trinh thám, chuyện rùng rợn ở phương Tây, trong khi các dân tộc ít người có nhiều chuyện truyền khẩu ly kỳ hấp dẫn không kém. Dương Thuấn nhà thơ dân tộc Tày, đã chịu khó sưu tầm ghi chép lại thơ, truyện truyền khẩu, cùng phong tục của dân tộc mình giới thiệu ra cho cả nước và thế giới biết. Lê Anh Hoài người Kinh đi ngược xu hướng thức thời của thiên hạ bằng việc đem thơ mình nhờ dịch ra tiếng thiểu số: Kh’mer, Lô Lô, K’Ho và chữ Nôm để mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc gìn giữ bản sắc ngôn ngữ dân tộc và hòa nhập dân tộc. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn, nổi tiếng nhờ chất ly kỳ rùng rợn của rừng tác giả tích lũy được sau nhiều năm chung sống với đồng bào thiểu số… Đó là khát vọng của một số người cầm bút tâm huyết với văn hóa ngôn ngữ dân tộc, yêu thiên nhiên muôn màu và hòa hợp các dân tộc.

Sự tồn tại của bản sắc riêng của hồn dân tộc đánh dấu sự hiện diện của nó. Hương hoa hồng khác hoa nhài, hoa cúc, hoa lan. Thiên nhiên đẹp vì đa màu sắc, đa hương. Hoa nào cũng thơm, cũng đẹp, nét đặc trưng văn hóa nào cũng mang tính nhân bản và hữu ích riêng nếu ta biết nâng niu, trân trọng nó. Sự lai căng cũng tạo sắc thái riêng, nhưng sẽ giết dần bản sắc dân tộc. Tất cả mọi xu hướng đều quý, nhưng bản sắc dân tộc cần giữ như bảy nốt nhạc cơ bản làm nên bản nhạc giao hưởng hùng tráng hay thiết tha nhờ người soạn giả xuất chúng và cũng chỉ mấy màu cơ bản hòa quyện thành những bức tranh đẹp dưới tay người họa sỹ tài ba.

Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu hãnh giữa bầu trời.

Hồng Hải

Phong tục văn hóa của dân tộc Tày (Hoàng Thị Khuyên)

Hình ảnh Phong tục văn hóa của dân tộc Tày

Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.

Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau... Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi, chè.

Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng, nam nữ đều biết đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm gạch, ngói, nung vôi có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu. Người Tày tự túc được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều vùng dệt thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại dao…

Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà.

Người Tày quan niệm, người chết linh hồn tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì người Tày làm lán quàn quan tài, làm ma chôn tại chỗ. Trẻ em chết thì bó chiếu chôn rất xa nhà. Người già chết thì làm ma trên sân nhà ở. Khi bố mẹ qua đời, người con trai cả đeo dao, mang một gói muối đi mời thầy tào đến cúng làm đám tang. Người con đeo dao suốt những ngày diễn ra tang lễ. Hàng năm, người Tày chỉ đi tảo mộ người chết vào tết Thanh Minh (ngày 3/3 âm lịch) và chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, ngày Tết như cúng các thần linh khác.

Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm khuy ở cổ và sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo cánh trắng bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây chuyển sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ Tày còn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt buông dài quá đầu gối. Đồ trang sức có vòng cổ, vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc.

 Hoàng Thị Khuyên

Tìm hiểu văn hoá của dân tộc Tày (Đàm Minh Phiếu)

Tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc Tày

Dân tộc Tày có số dân đông thứ 2 chỉ sau người kinh, với các nhóm địa phương gồm có: Pa di, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao đây là một trong số các dân tộc ít người ở Việt Nam. Cùng xem nét văn hóa truyền thống của dân tộc này ra sao nhé:

Độc đáo với trang phục truyền thống của dân tộc Tày
Người Tày chủ yếu sinh sống ở vùng núi thấp tại phía bắc Việt Nam, tiếng nói và chữ viết riêng gọi là tiếng Tày, đây là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Tày có mối quan hệ khá gần gũi với người Choang ở Trung Quốc.

Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Theo một số tài liệu thu thập được thì có thể họ có mặt ở Việt Nam từ thiên niên kỉ thứ nhất trước công nguyên. Thời gian sinh sống lâu dài đã tạo ra một nền văn hóa dân tộc Tày vô cùng độc đáo, nó được thể hiện rõ nét thông qua lối sống hay chính trang phục cổ truyền cùng với những điệu múa đẹp và lạ mắt.

Lối sống của dân tộc Tày có gì đặc sắc?

Những đổi thay từ ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày Lạng Sơn

Người dân Tày thường sống tập trung thành bản. Mỗi bản có khoảng 20 hộ gia đình, nhiều bản lớn có tới hàng trăm hộ gia đình.

Họ thường sinh sống trong những ngôi nhà sàn được dựng bằng các loại gỗ quý. Mái nhà thường được lợp bằng ngói, tranh hoặc cây cọ. Xung quanh nhà được rào bằng ván gỗ hoặc liếp nứa. Dân Tộc Tày có nhiều nghề thủ công như đan đồ dùng bằng cót, kéo dầu thực vật, dệt vải, nghề rèn

Người Tày có phong tục kết hôn trong cùng một dòng họ, gia đình thường theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ trong đó người đàn ông là trụ cột của gia đình. Họ sống theo chế độ một vợ một chồng.

Trang phục của người dân tộc Tày với những nét hoa văn hấp dẫn

Thanh niên được tự do tìm hiểu đối tượng trước khi kết hôn. Hôn lễ truyền thống của người Tày gồm có các nghi thức như: dạm, ăn hỏi, sêu tết, đón dâu, đưa dâu,…mang đậm bản sắc văn hóa sapa.

Quan niệm của người Tày về người chết cũng vô cùng độc đáo. Theo họ, người chết thì linh hồn sẽ sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì phải làm ma và chôn tại chỗ. Trẻ em chết yểu thì bó chiếu và chôn cất ở nơi xa nhà. Người Tày không thờ cúng tổ tiên. Họ chỉ đi tảo mộ vào ngày thanh minh và cũng chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một và ngày tết
  
Trang phục truyền thống của dân tộc Tày


Quần áo của phụ nữ dân tộc Tày thường là màu đen

Bộ trang phục truyền thống chính là minh  chứng rõ nét nhất cho đặc trưng văn hóa dân tộc Tày. Trang phục được dệt từ sợi bông và nhuộm màu chàm. Hầu như trang phục của người Tày đều không có hoa văn trang trí. Ngày thường, phụ nữ sẽ mặc áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân có cài khuy ở cổ và sườn bên phải cùng với quần dài kèm thắt lưng và kahưn.

Trong những dịp lễ hội có thể mặc thêm áo cánh nagứn bên trong. Ngày nay, phụ nữ Tày thường mặc quần dài chấm gót hoặc quần chân què có đũng rộng, cạp lá tọa. Ngoài ra còn có thêm một kiểu áo dài kiểu như áo ngắn có vạt áo buông dài quá gối.

Đàn ông có quần chân què đũng quần rộng và cạp lá tọa. Áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Đàn ông cũng có kiểu áo dài như áo ngắn kéo vạt dài đến quá đầu gối

Văn nghệ cổ truyền của dân tộc Tày

Biểu diễn múa hát trong lễ hội của người Tày

Người Tày có nền văn nghệ vô cùng phong phú mang đậm nét văn hoá dân tộc Tày với một kho tàng đồ sộ các thể loại thơ, ca, truyện cổ tích, múa, nhạc, truyện cười dân gian,…Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát ru con, hát đám cưới và hát lượn. Có nhiều điệu hát lượn phổ biến như: lượn Slương, lượn Then, lượn nàng Hai.

Ngoài ra còn có các điệu hát Then hay còn gọi là hát văn ca được hát trong các đám tang, điệu Cỏ lầu hát trong đám cưới hoặc trong các hội Lồng Tồng.

Tôn vinh trang phục truyền thống các dân tộc

Nếu có cơ hội bạn hãy tự mình đi khám phá những nét đặc sắc của dân tộc hay các khu resort sapa, cảnh đẹp, quà tặng… để biết thêm nữa nhé!
 Đàm Minh Phiếu

Pác Nặm: Vải chàm - nét duyên dệt nên trang phục dân tộc (Lan Anh)

Thiếu nữ Sán Chỉ duyên dáng trong tà áo chàm dệt thổ cẩm truyền thống

“Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Vợ hay không biết thêu lanh thành tồi”
Là con gái dân tộc ở huyện Pác Nặm, ngay từ khi còn bé đã được bà, được mẹ dạy cho cách trồng bông, dệt vải, thêu lanh, se sợi… Có con gái lớn trong nhà mà không biết khâu áo, may váy thì cũng không dễ lấy được chồng. Tuy nhiên đến nay, không còn nhiều thiếu nữ dân tộc biết trồng bông, dệt vải nữa. Làm sao để gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc? Đó là câu hỏi và cũng chính là nỗi niềm trăn trở của rất nhiều người muốn bảo tồn và phát huy nghề truyền thống quý giá này.

      Nghề thêu lanh, dệt vải đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ. Một vuông vải chàm có thể may váy, may áo, làm mặt gối, mặt chăn, làm khăn đội đầu, hay cũng có khi là dùng để thêu thùa, trang trí trong gia đình. Không biết từ bao giờ, vải chàm đã tạo nên nét duyên dáng trong trang phục của người con gái dân tộc, làm thăng hoa hương sắc thổ cẩm. Những họa tiết thổ cẩm với sắc màu rực rỡ, được khéo léo thêu trên nền sắc chàm dung dị đã tạo nên cái “hồn” của mỗi trang phục dân tộc; chỉ cần nhìn vào vuông vải cũng có thể nhận ra được nét tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, từng vùng miền.


Thông thường, ở Pác Nặm, khi tiết trời đã sang xuân, các mẹ, các chị sẽ rủ nhau lên nương gieo hạt. Hạt bông được trồng đầu tháng 2 âm lịch, và phải đến khoảng tháng 7, tháng 8 mới được thu hoạch. Khi ấy, những vạt nương trắng xóa hoa bông, nằm vắt vẻo lưng chừng sườn núi, xen lẫn màu xám của đá và màu xanh của núi rừng đã tạo nên một bức tranh phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
      Sau khi thu hoạch bông, bà con sẽ đem phơi nắng cho thật khô rồi mới mang về quay tơ, se sợi. Dưới đôi bàn tay kỳ diệu của người phụ nữ dân tộc đã biến những sợi bông trắng, mảnh thành những tấm vải vuông vức. Vải sau khi dệt xong sẽ được ngâm, nhuộm với lá cây chàm. Bí quyết để có một tấm vải chàm đều màu, bền đẹp là khi ngâm thuốc nhuộm người ta thường cho thêm vào chút vôi bột trắng. Vải chàm của bà con dân tộc không mượt mà, mềm mịn như lụa hàng Hà Đông, nhưng lại phục vụ hữu hiệu trong cuộc sống và lao động sản xuất của người dân nơi đây. Mùa đông, khi những cơn gió mùa thổi xuyên qua kẽ lá, cái rét sương núi tê buốt, lạnh cóng đôi bàn tay, một chiếc áo khoác bông làm từ vải chàm sẽ giúp bà con bớt thấy giá lạnh. Mùa hè, khi mọi người rủ nhau lên nương, lên rẫy tra ngô, gieo hạt; cái nắng, cái gió làm gương mặt ai cũng đen sạm, bỏng rát, chiếc áo chàm lại như tấm khăn mát lạnh, thấm từng giọt mồ hôi chát mặn, xua đi cái nóng nực, oi bức ngày hè.

Vải được nhuộm chàm và phơi nắng cho khô

Tấm vải chàm dung dị, mộc mạc là thế, nhưng muốn làm được một tấm vải chàm đẹp để thêu các họa tiết hoa văn thổ cẩm, quả không phải là chuyện đơn giản. Với thiếu nữ Mông, trước khi lấy chồng, họ muốn may cho mình những chiếc váy đẹp nhất, rực rỡ nhất. Kỹ thuật thêu trên vải bằng sáp ong của người Mông đã có từ hàng ngàn năm tuổi. Đó là cả một quá trình lao động, sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm của bao thế hệ đi trước, truyền thụ lại cho con cháu đời sau.

Chị Nông Thị Bày bên khung quay sợi

Theo sự giới thiệu của bà con dân bản, chúng tôi tìm đến nhà chị Nông Thị Bày, người dân tộc Tày ở thôn Phai Khỉn, xã Nhạn Môn. Những ngày này, chị đang gấp rút chuẩn bị đồ cưới cho con gái út của mình. Theo phong tục người Tày, khi con gái đã đến tuổi lấy chồng, muốn về được nhà chồng cần chuẩn bị các vật dụng: chăn, màn, chiếu, gối… Và quần áo cưới cho cô dâu cũng phải theo đúng trang phục dân tộc.
      Chia sẻ với chúng tôi, chị Bày cho biết: “Các phong tục của dân tộc mình đã thay đổi nhiều, nhưng trong lễ cưới người Tày không thể thiếu tấm chăn, mặt gối, áo cưới cô dâu được thêu hoa văn từ vải chàm dân tộc. Con gái mình khác chúng mình ngày xưa nhiều lắm, giờ ít con gái trẻ biết làm lanh, thêu khăn, thêu áo. Đời con, đời cháu mình sau này không biết có ai còn giữ được nghề của ông bà, tổ tiên nữa”.

Vải chàm được bày bán ở các phiên chợ vùng cao

Đôi tay ai đã khéo chắt lọc nét hào hoa của sắc trời, hương núi, màu suối, vân mây, tình đất và hồn người để thêu dệt nên những vuông vải chàm thổ cẩm tuyệt vời, tinh tế nhất. Không có cái duyên, cái nợ của người trồng bông, kéo sợi, se tơ, dệt vải, thêu lanh, nhuộm thắm thì không thể tạo ra được những vuông vải chàm thổ cẩm rực rỡ sắc màu làm ngẩn ngơ, say đắm bước chân người du khách trong mỗi dịp phiên chợ vùng cao./.

 Lan Anh