Kho tàng truyền thuyết, sử thi của đồng bào dân tộc thiểu số khá phong phú. Từ chương trình học phổ thông, có "Trường ca Đam San" của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Ngoài ra, có Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" của dân tộc Mường, Truyền thuyết "Quám tố mướng" của đồng bào Thái vùng Tây Bắc. Và với người Thái Nghệ An có Truyền thuyết "Xuống mường hạ giới" viết theo thể loại truyện thơ truyền thống của người Thái.
Ở bản "Xuống mường hạ giới" của người Thái Nghệ An, nếu chỉ đọc qua phần đầu, người đọc sẽ có cảm giác cho rằng "Quám tố mướng" và "Xuống mường hạ giới" là na ná như nhau. Đó là trong phần đầu nội dung đều có nhắc đến sự hình thành trời đất, khi mà "mặt đất bằng lá đa, bầu trời bằng vảy ốc"… Tuy nhiên, khi đọc sang phần sau thì sẽ thấy Truyền thuyết "Quám tố mướng" đi sâu vào phần lịch sử, diễn tả quá trình thiên di tìm các mường đất mới của Tạo Lò… Truyền thuyết "Xuống mường hạ giới" có một vài bản, tuy nhiên bản 645 (tạm gọi như vậy vì có 645 câu) có sự diễn tả đầy đủ và dẫn dắt chi tiết hơn.
Nội dung của "Xuống mường hạ giới" có thể phân chia thành nhiều "kỷ nguyên", phần đầu cũng nói về hình thành trời đất, phần giữa nói về sự khai phá lập bản dựng mường và phần sau nói về phân định tầng lớp cai quản bản mường cho đến thời phong kiến gần đây, và được tóm tắt như sau:
- Kỷ nguyên 1: "Bên trên chưa có trời, bên dưới chưa có đất. Đất nhão nhoét, bước đi chẳng được. Cả vũ trụ như ở chung trong một quả trứng. Đất đẻ (trứng) ra bắt trời ấp, trời không chịu. Trời đẻ ra bắt đất ấp, đất nhận lời. Mới có mảnh đất bằng lá đa, bầu trời bằng vảy ốc. Nước chưa biết chảy, lửa chưa biết cháy…". Sau đó Trời mới sai hai ông bà Pủ Cắp- Nhả Ké xuống trần. Họ trồng lên những cây đa, cây si đầu tiên. Lớp người ấy nhỏ như cái chìa vôi, chẳng làm được gì, vì bầu trời còn thấp nên họ chọc lấy "cùi trời" (bầu trời có cùi như cùi dừa!!!) để ăn, sau rồi chết hết. Hồn của họ biến thành những bông hoa trên đỉnh núi cao.
- Kỷ nguyên 2: Trời tiếp tục sai hai ông bà Ý Thư- Ý Thiếng xuống trần. Lúc này những cây đa cây si do hai ông bà Pủ Cắp- Nhả Ké trồng từ trước đã lớn lắm, che rợp cả trời. Hai ông bà Ý Thư- Ý Thiếng chặt cây si thần hết 3 năm không đổ, "chặt phía này phía kia liền lại, đốn phía này phía nọ lại nguyên". Họ cũng chết đi mà không hạ được cây si thần.
- Kỷ nguyên 3: Trời sai hai ông bà Pủ Dơ- Nhả Mày xuống trần. Họ xin đem theo rìu vàng rìu bạc từ mường trời xuống. Nhờ rìu đó sau 4 năm họ chặt đổ cây si thần. Khi chết họ trở thành các vị thần trông coi cổng rú mồ (nghĩa địa).
- Kỷ nguyên 4: Trời sai hai ông bà Ý Thi- Ý Thón xuống trần. Lúc này cây si thần đã bị chặt nên họ lấy cày bừa từ trên trời xuống, cày đất thành núi thành non như ngày nay ta thấy. Được trăm năm sau họ chết, hồn họ quay về trời.
- Kỷ nguyên 5: Trời sai hai ông bà Căm Ngọc- Căm Vá xuống trần. Con cháu họ ăn lông ở lỗ, sống chung chạ với nhau, không phân biệt vợ chồng. Họ suốt ngày tranh giành chồng/ vợ với nhau, chém giết lẫn nhau nên chết hết. Hồn của họ biến thành vàng thành bạc tụ dưới đất sâu.
- Kỷ nguyên 6: Trời sai hai ông bà Tạo Vi xuống trần trồng cây cối, trồng song mây. Hai ông bà chết đi, con cháu lười nhác không chịu khai ruộng, suốt ngày chỉ đan lưới, làm bẫy săn bắt chim, cá, thú rừng về ăn. Chim quý Áng Vanh của Trời xuống trần mắc phải bẫy, Trời nổi giận làm ra chín mặt trời thiêu đốt dương gian. Người trần không chịu nổi, bàn nhau làm ná, làm cung tên bắn rụng 8 mặt trời. Còn lại một mặt trời sống sót trốn xuống biển nấp. Mặt đất trở nên tối tăm. Con người bàn nhau và cử Gà và Vịt đi tìm gọi Mặt Trời, mặt đất mới sáng trở lại.
- Kỷ nguyên 7: Trời sai hai ông bà Ắm Ết- Lang Chai xuống cai quản trần gian. Họ cũng lười khai phá ruộng nương, chỉ chuyên tâm làm bẫy, đan lưới. Rồng thần của nhà trời xuống trần vướng vào lưới bị họ đâm chết. Trời nổi giận làm gió mưa dâng nước thành nạn hồng thủy. Người trần gian chết hết. Chỉ còn hai chị em bám được theo quả bầu nổi lên đến mường trời. Họ xin làm tôi tớ cho nhà trời để kiếm cái ăn qua ngày. Về sau, họ chấp nhận ăn ở thành vợ chồng với nhau để sinh ra loài người. Khi sinh nở, người mẹ sinh ra mọi giống người, và cả các loài sên vắt, muỗi mòng, chim muông, và ma quỷ nữa…
- Kỷ nguyên 8: Trời sai Tạo Lò Kăm xuống trần gây bản dựng mường. Tạo Lò Kăm vâng mệnh xuống ngự ở núi Pu Quai (tức "Núi Trâu", ở xã Châu Kim, huyện Quế phong ngày nay). Tạo Lò Kăm xuống trần, các con vật như trâu, ngựa xin xuống theo cùng để giúp đỡ. Trời hỏi sao lại xin xuống trần như thế, các con vật tâu trình như sau: “Trâu: xin xuống trần để vai mang ách, chân giẫm ruộng trồng lúa, khi chủ mất xin được xả thân làm ma cho chủ; Ngựa: chân nhỏ không giẫm ruộng được, xin mang người trên lưng đi khắp nẻo gần xa; Hổ: tôi không xuống thì trâu bò không về chuồng, kẻ lười nhác không làm nhà dựng cửa; Vắt núi và đỉa: tôi không xuống thì người không phát đường quang, bạ chỗ nào cũng đi, bạ lối nào cũng lội; Muỗi: nếu tôi không xuống, con người sẽ không biết dệt chăn màn, con gái Thái về nhà chồng lấy đâu ra nệm đẹp…". Tạo Lò Kăm cũng được các con vật giúp để lấy được lửa về dùng, khai phá ruộng nương, xây dựng bản mường dài lâu…
Trong phần cuối nói về “Kỷ nguyên 8", cũng có đoạn nói về việc phân định nơi cai quản, nơi thờ cúng (các đền thờ cúng) ở từng mường. Trong "Địa chí huyện Qùy Hợp" cũng có lược trích một đoạn ở phần này. Tuy vậy, tôi cũng xin trích một đoạn trong truyền thuyết "Xuống mường hạ giới” trong phần phiên âm tôi đã được tham khảo: "Lò Anh xuống ngồi ngự/ Lò Em xuống ngồi mường/ Căm Thướng xuống ngồi bản/ Chủ Căm Lạn xuống ngự núi Trâu/ Tạo Hai ngồi Đền Choọng/ Em Út ngồi Đền Ham/ Tạo Ba ở Mường Chai/ Anh Út Nhỏ xuống ở Chiềng Van…" (Chiềng Van: thuộc địa phận Thanh Hóa).
Trên đây là phần tóm tắt sự diễn tả khá chi tiết những "kỷ nguyên" trong văn bản truyền thuyết "Xuống mường hạ giới" của người Thái Nghệ An. Trong phần "phân định" có nhắc đến các đền thờ và các mường đất liên quan ở các huyện miền núi của Nghệ An, và cả huyện Thường Xuân (Thanh Hóa)…
Có ý kiến cho rằng, trước đây người Thái nhóm Tay Mương chỉ có hai dòng họ chính là họ Lò Căm và họ Vi (Hún Vi, Quán Vi). Có một số họ khác (…) được người Pháp đặt thêm trong thời phong kiến dưới sự cai trị của người Pháp, nhằm mục đích thuận tiện cho cai trị. Trong việc "chuyển đổi" đó, có cả việc xuất hiện họ Sầm (tức cũng là Lò Căm), và họ Trương (tức cũng là Hún Vi, Quán Vi). Tạm thời chưa cần phải đi tìm sự xác thực của ý kiến đó, mà hãy ghi nhận sự tồn tại và phát triển song hành của hai dòng họ truyền thống chủ đạo của người Thái Nghệ An: họ Lò Căm và họ Vi.
Có câu chuyện được truyền tụng trong cộng đồng người Thái, bao gồm cả trong hai dòng họ Lò Căm và Vi (chuyện thường mang một vẻ hài hước nhất định để tránh những căng thẳng, chia rẽ không cần thiết). Rằng là, tổ tiên dòng họ Vi được Trời sai xuống trước để cai quản trần gian (xem "Kỷ nguyên 6"), đến "Kỷ nguyên 8", sau khi họ Lò Căm cũng xuống trần, người của hai dòng họ có tranh cãi để phân định anh em. Trong khi tìm lý lẽ, họ Vi bị đuối lý nên phải chấp nhận làm bậc em… Tuy nhiên, thực sự là ông tổ của họ Vi xuống trần trước (từ "Kỷ nguyên 6"), sau khi chết về mường Trời thì được làm Then Vi, được đảm trách việc gác cửa lên mường trời. Then Vi không đồng tình với phân định của người hạ giới nên hễ cứ thấy người của dòng họ Lò Căm, khi hết hạn ở dương trần, hồn lên đến cửa vào mường trời thì bị Then Vi chặn lại, không cho qua. Hồn của người mang họ Lò Căm muốn qua được cửa trời thì phải có lễ cúng chuộc lỗi với Then Vi. Vậy là, con cháu người chết (họ Cò Kăm) luôn phải kiếm lễ vật, thường là một con lợn nhỡ cùng các thứ kèm theo, mời thầy mo về cúng nạp lễ cho Then Vi (gọi là "páng chuộc") thì hồn vía người chết mới qua được cửa trời (siêu thoát). Việc "chuộc lỗi" này được coi là việc bắt buộc phải có để hồn người chết được yên, cháu con mạnh khỏe…
Từ một câu chuyện truyền thuyết khởi từ hình thành trời đất và muôn loài, cuộc sống của người Thái Nghệ An, qua các lễ nghi liên quan đến sự sinh và tử của các thành viên cộng đồng, người ta vẫn thấy luôn tồn tại những sợi dây liên hệ dường như bén rễ từ trong câu chuyện huyền thoại và mọc nhánh vươn cành trong cuộc sống thực ngày nay. Truyền thuyết về sự hình thành và tiêu vong của các "Kỷ nguyên" là một sự liên tưởng vừa đủ để người ta thấy được nét khắc nghiệt của tự nhiên và xã hội đối với sự hình thành và phát triển của bản của mường. Từ đây người Thái dù thuộc dòng họ Vi hay Lò Căm… sẽ thấy thêm yêu hơn bản mường, quê hương mình- nơi mà ở bất cứ gò đất, đỉnh núi, con dốc hay dòng suối nào cũng mang dấu ấn của tổ tiên trong một hành trình lập bản dựng mường và tranh đấu sinh sôi qua hết Kỷ nguyên này đến Kỷ nguyên khác, và mãi mãi vẫn còn luôn như thế!
Sầm Văn Bình