Biến đổi sao dời trong ngôn ngữ H'Mông (Văn Hóa Việt) - Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất

Friday, May 6, 2016

Biến đổi sao dời trong ngôn ngữ H'Mông (Văn Hóa Việt)

Thiếu nữ H'Mông đỏ

Người H'Mông (hay Hơ-Mông) là một nhóm dân tộc thiểu số, có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á. Người H'Mông nói tiếng tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. Người H'Mông bao gồm các phân nhóm: H'Mông, H'mu, H'mao và Ghao Xong. Bên ngoài Trung Quốc thì chủ yếu thuộc phân nhóm H'Mông.
Tại Việt Nam người H'Mông (trước đây còn gọi là người Mèo) là một trong các dân tộc thiểu số có dân số đáng kể trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.

Tại Lào họ được gọi là người Mẹo hay Lào Sủng. Tại Thái Lan theo tiếng Thái là แม้ว Maew hay ม้ง Mông.
Tại Trung Quốc, họ được gọi là Miêu (tiếng Trung: ; bính âm: Miáo), và tên gọi này được dùng trong văn liệu quốc tế là Miao, như tiếng Anh Miao people. Người Miêu được chính phủ Trung Quốc công nhận là một trong 55 dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Người Miêu tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 tại Trung Quốc.

Miêu và H'Mông.
Thuật ngữ "Miêu" và "H'Mông" ("Mèo" và "H'Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu.

Ngoài phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt Nam và Myanmar do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyana thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H'Mông.
Tiếng H'Mông bao gồm 3 phương ngữ, với 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng với tiếng Bunu, thuộc về nhánh Miêu trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay hệ Miêu-Dao).

Đám cưới H'Mông Đen

Các nhà nghiên cứu phương Tây xử lý vấn đề thuật ngữ này không thống nhất. Những người đầu tiên sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa trong một loạt các phiên âm: Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc) v.v. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào, một số nhà nghiên cứu đương đại đã chấp nhận thuật ngữ khác là "H'Mông".

Bản thân người Miêu thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác nhau. Thông thường phân loại theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu:
Ghao Xong; Miêu đỏ.
Hmu, Gha Ne (Ka Nao); Miêu đen.
Hmao; Miêu hoa lớn.
H'mông; Miêu trắng, Miêu xanh, Miêu hoa nhỏ.

Chỉ có nhóm thứ tư sử dụng thuật ngữ "Hmông" (hay "H'Mông"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một số Hmu). Những người H'mông cho rằng thuật ngữ "Hmông" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ các nhóm khác. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ "Miao" (hay "Miêu") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ "H'mông" được sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý nghĩa của từ.
Trung Hoa xâm lược đặt cho người H'mông tên gọi "Miao" (hay "Miêu"), sau đó trở thành "Meo" (Mèo) và "Man" (Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ "man di, mọi rợ ở miền nam". Từ "miêu" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, Lào, Thái v.v. trong dạng "Meo" (tức là "Mèo"). Mặc dù rất nhiều người nói các thứ tiếng này (và cả người Trung Quốc) không nghi ngờ gì khi cho rằng "Miêu" là những kẻ man di, nhưng điều này không có cách gì để chứng minh từ này có nghĩa như vậy. Có thể những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ "miao" (miêu) từ tiếng Trung Hoa, nhưng đã bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy của nó là "cây giống" và sử dụng nó chỉ để gọi những người mà họ cho là man rợ. Nó được phát âm với giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có ý nghĩa là "mèo" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong cách dịch của người Việt các từ Hán-Việt thì "miêu" cũng là "mèo". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết liệt như vậy chống lại thuật ngữ "miêu" trong các nhóm người H'mông tại khu vực Đông Nam Á.

Những người còn lại thì có ý kiến cho rằng "H'mông" là thích hợp hơn so với "Miêu" trong mọi vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại chính thức các dân tộc thiểu số trong thập niên 1986 một số dân tộc thiểu số đã khiếu nại về từ ngữ Mông do chính quyền muốn áp đặt, thay đổi cách sử dụng chính thức của tiếng H'Mông. Chính quyền đưa ra một lý do khác cho là thực dụng: không có khả năng đưa từ "H'Mông" vào trong tiếng Việt do âm tiết của nó không tồn tại trong tiếng Việt. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không giống như tiếng Việt, người ta có khả năng viết được từ "H'Mông".

Cướp vợ

Ngôn ngữ.
Cho đến nay chúng ta đều biết đến tiếng H'Mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay Miêu-Dao). Nhưng trên thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ học xếp tiếng H'Mông thuộc nhánh Miêu-Dao trong ngữ hệ Hán-Tạng. Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam Thái. Trong đó vị trí các ngôn ngữ H'Mông-Miền được định vị trong hệ Nam Thái.
Còn André G. Haudricourt từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ H'Mông-Miền với các ngôn ngữ của ngữ hệ Hán-Tạng và hệ Nam Á. Ông đã cho rằng "các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến". Đây cũng chính là cơ sở để một hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ H'Mông-Miền vào Nam Á hay Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của Haudricourt "không thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một thao tác thể hiện tính quy luật của những chuyển đổi âm thanh". Kế thừa những nghiên cứu đi trước, Martha Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ H'Mông-Miền khá chi tiết trong đó tác giả đã định vị hệ H'Mông trắng (Mông Đỏ) như sau:
Hệ ngôn ngữ: H'Mông-Miền (H'mong-Mien)
Nhóm ngôn ngữ: H'Mông
Nhánh: thuộc các phương ngôn Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam, còn gọi là nhánh H'Mông phía Tây.
Tiểu nhánh: Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam
Phương ngữ: H'Mông trắng (White Hmong)
Trong cuốn từ điển Bách khoa thư ngôn ngữ đã phân các ngôn ngữ H'Mông-Miền thành hai nhánh chính:
H'Mông - gồm có: Dananshan H'mong, H'mong Đông, H'mong Bắc, H'mong Tây, H'mong Daw, H'mong Njua, Miao Đỏ, Pa Heng, Punu
Miền (hay Dao) - gồm có: Ba Pai, Mien, Biao Mien, Iu mien, Mun, She ở đây H'Mông Leng (H'Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của hệ H'Mông Njua (H'Mông Xanh) nằm trong nhánh H'Mông.

Lịch sử.
Lịch sử người Miêu có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của họ có thể lần theo dấu vết của các câu truyện truyền khẩu và các lễ nghi an táng của họ.
Trong truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người Miêu nói rằng họ đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đường trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Miêu cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ tới Trung Hoa.

Nơi thứ hai, trong đó miêu tả người Miêu từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đường" của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả trong truyện truyền khẩu và nghi thức an táng của người Miêu chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.
Tiếp xúc với người Hán.

Tại Trung Quốc, vương quốc Miêu đầu tiên được ghi chép có tên gọi là Cửu Lê và những người cai trị nó có tước hiệu là Chiyou (Xi Vưu trong tiếng Hoa) hay Txiv Yawg (trong tiếng H'Mông). "Trí Zờ" có nghĩa là "ông-cha", và là tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên "Xi Vưu" được coi là dân tộc Liangzhu. Jiuli được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.
Lịch sử theo truyền thuyết Trung Quốc
Theo truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi Vưu đã bị đánh bại ở Trác Lộc (涿鹿, một địa danh cổ trên ranh giới tỉnh Hồ Bắc và Liêu Ninh ngày nay) bởi liên minh quân sự của Hoàng Đế và Viêm Đế, các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (華夏) khi họ tranh giành quyền làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý do quyết định trong chiến thắng của người Hoa Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn ra vào thế kỷ 26 TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người Miêu là nhờ có la bàn.

Sau thất bại, bộ tộc ban đầu của người Miêu được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lê (). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lê về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).

Có một phiên bản khác của thời kỳ hậu-Cửu Lê, người dân của Cửu Lê chia thành 3 nhóm đi theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi Vưu có 3 con trai, và sau khi Cửu Lê thất thủ thì con trai cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ dẫn một số người về phía bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam thành lập ra nhà nước San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên rất nhiều dân tộc ở Viễn Đông coi Xi Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về bộ tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Miêu hay các dân tộc khác. Ví dụ, người Triều Tiên cũng cho Xi Vưu là tổ tiên của mình. Ngoài ra, theo chính sách hợp nhất các bộ tộc hiện nay của Trung Quốc, Xi Vưu được nhắc đến như là một trong những tổ tiên của người Trung Hoa cùng với các tổ tiên của người Hán là Hoàng Đế và Viêm Đế.

Ghi chú
Có tài liệu cho rằng không phải là Viêm Đế (Thần Nông) mà là Đế Du Võng (cháu 6 đời của Viêm Đế mới lập liên minh với Hiên Viên (sau này là Hoàng Đế) để chống lại Xi Vưu). Cụ thể như sau: Viêm Đế (Thần Nông) - Đế Minh-Đế Nghi-Đế Lai-Đế Du Võng, như vậy theo Lĩnh Nam chích quái thì Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân là chú do Đế Minh còn sinh ra Lộc Tục và Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân.

Các thời kỳ nhà Tần/Hán
Thuật ngữ "Miêu" lần đầu tiên được sử dụng bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần, tức là trước năm 221 TCN, để chỉ các nhóm bộ tộc không phải là người Hoa ở phương nam. Nó thông thường được sử dụng trong các tổ hợp như "nanmiao", "miaomin", "youmiao" và "sanmiao" (三苗 Sānmiáo). Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam sông Trường Giang, nhưng sau đó đã bị người Hoa đẩy lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu triều vua (Đông Ngô, Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông này, việc khuất phục người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định của các triều đại này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc con sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc đồng hóa người Miêu thành người Hán.

Thời nhà Đường
Vào thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc người chính không phải gốc Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 chiếu ( có nghĩa là "vương quốc") của người Miêu. Một số học giả cho rằng 6 chiếu là các nhóm người Di (Yi) hay người Bạch (Bai). Vương quốc nằm phía nam nhất là Mông Xá Chiếu (蒙舍詔) hay Nam Chiếu thống nhất cả 6 chiếu để thành lập quốc gia độc lập vào đầu thế kỷ 8 với sự hỗ trợ từ phía nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước này là Nam Chiếu Vương (南詔王), có nghĩa là Vua của Nam Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng) đã thúc đẩy triều đình Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 Jiànnán Jiédǔ) nằm ở khu vực ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam Chiếu.

Nam Chiếu.
Trong khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ 8, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ (劍南節度使 Jiànnán Jiédǔshǐ), tới triều đình của người Hán. Khi nhà Đường suy yếu trong thời gian giữa thế kỷ 8, khu này đã có nhiều quyền tự do hơn. Họ đã yêu cầu các bộ tộc sống ở Nam Chiếu phát triển lực lượng quân sự để chống lại nhà Đường. Những người cai trị Nam Chiếu là những người nói tiếng trong nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến, nhưng dân chúng thì có thể có cả tổ tiên của dân tộc H'mông ngày nay. Các thủ lĩnh quân sự Trung Hoa có những sự hăm dọa và yêu sách quá đáng. Một ví dụ là sự từ chối yêu cầu cho ngủ một đêm với hoàng hậu, vợ duy nhất của vua Nam Chiếu. Tất cả những yêu sách quá đáng đó cũng như đồ cống nộp nặng nề đã làm nổ ra cuộc nổi loạn của người Nam Chiếu trong niên biểu Thiên Bảo (742-756) của Đường Huyền Tông (hay Đường Minh Hoàng). Trước khi hành quân chống lại thủ lĩnh khu quân sự, vua Nam Chiếu đã cho khắc lý do của việc nổi dậy vào đá. Bia đá này ngày nay vẫn còn và có thể nhìn thấy. Nhà Đường lẽ ra có thể dễ dàng đánh bại quân Nam Chiếu nhưng sự tranh giành quyền lực trong các chỉ huy quân sự của khu này đã giúp cho quân Nam Chiếu tiến sâu vào lãnh thổ nhà Đường, gần như đã tới Thành Đô, thủ phủ của khu Kiến Nam. Việc bổ nhiệm các chức vụ cầm quyền bất tài cũng là một yếu tố. Nổi tiếng nhất là trường hợp của Dương Quốc Trung, anh trai của Dương Quý Phi. Mặc dù cuối cùng thì cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan, nhưng nhà Đường cũng đã hoang phí những nguồn lực quý báu lẽ ra có thể sử dụng để bảo vệ biên giới phía bắc, điều đã dẫn tới cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn gây ra nhiều thảm họa hơn.

Trong những năm sau đó, Nam Chiếu luôn có ưu thế trong quan hệ với nhà Đường và Thổ Phồn do cả hai nước này đều muốn liên minh với họ để cô lập kẻ thù của mình. Nam Chiếu đã tận dụng được cơ hội này và nhanh chóng phát triển thành một thế lực ở khu vực đông nam châu Á. Trong thời kỳ đỉnh cao của nó, các phần phía bắc của Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện, Quảng Tây và phần phía đông của Quảng Đông, tây nam của Tứ Xuyên, Quý Châu và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay đều nằm dưới sự kiểm soát của họ. Thành Đô và Đại La (Hà Nội ngày nay) đều bị cướp phá hai.

Nam Chiếu dưới ảnh hưởng của nhà Đường trong các thế kỷ 8-9 đã dần dần chấp nhận văn hóa Trung Hoa cũng như trong thời gian đó đã xuất hiện mâu thuẫn nội bộ giữa các thị tộc đối địch. Cuối cùng họ Đoàn (duan4) đã thắng và thành lập Vương quốc Đại Lý. Trong thời nhà Đường và nhà Tống thuật ngữ "nam man" (南蠻Nánmán, có nghĩa là "những kẻ man di phương nam không phải người Hán") đã được sử dụng. Tuy nhiên, tên gọi "miêu" vẫn được dùng để miêu tả một số dân tộc ở phương nam trong các sách của Phàn Xước (Fan Chuo) về các bộ tộc miền nam là Manshu (tức Man thư - viết năm 862).

Thời nhà Minh và nhà Thanh.
Trong thời nhà Minh và nhà Thanh (1368-1911) "miao" và "man" (mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai có lẽ là để gọi dân tộc Dao ( Yáo). Nhà Nguyên, Minh và Thanh chưa bao giờ đồng hóa hay kiểm soát chặt chẽ được các bộ tộc thiểu số. Kết quả là chính sách "dùng người man quản lý người man" (yiyi zhiyi) đã được thực thi. Ngoài ra, bức tường bản sao của Vạn Lý Trường Thành ở miền nam đã được dựng lên để bảo vệ và phân chia người Hán với những kẻ "man rợ miền nam. Về mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong chiếc giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại người Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu, họ tạo ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng hóa người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và Thanh, các chức vụ chính thức như Kaitong (cai tổng) đã được tạo ra tại khu vực Đông Dương. Người H'mông có thể tham gia vào các chức vụ này cho đến những năm thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ thống chính trị thuộc địa của Pháp tại Đông Dương.

Dân số và địa bàn cư trú.
Người Miêu sống chủ yếu ở Trung Quốc. Ngoài ra còn có khoảng 2.000.000 người H'Mông sống ở các nước khác như Việt Nam, Lào, Myanma cũng như các quốc gia khác. Có khoảng 124.000 người sống ở Thái Lan, ở đây họ là một trong số 6 dân tộc chính sinh sống trên núi.
Sau năm 1975 cộng đồng người H'Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào).

Người Miêu ở Trung Quốc.
Khu vực người Miêu ở tỉnh Tứ Xuyên đã trở thành một phần của thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh mới thành lập năm 1997.
Trung Quốc có số lượng người Miêu đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống kê 1990) phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam và Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc H'Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi.
Trong các tỉnh trên, có 6 khu tự trị của người Miêu (chia sẻ một cách chính thức cùng với các dân tộc thiểu số khác):
Khu tự trị Kiềm Đông Nam người Miêu và Đồng (黔东南Qiándōngnán), Quý Châu
Khu tự trị Kiềm Nam người Bố Y và Miêu (黔南Qiánnán), Quý Châu
Khu tự trị Kiềm Tây Nam người Bố Y và Miêu (黔西南Qiánxīnán), Quý Châu
Khu tự trị Tương Tây người Thổ Gia và Miêu (湘西Xiāngxī), Hồ Nam
Khu tự trị Văn Sơn người Choang và Miêu (文山Wénshān), Vân Nam
Khu tự trị Ân Thi người Thổ Gia và Miêu, Hồ Bắc

Ngoài ra còn có thêm 23 huyện tự trị của người Miêu:
Hồ Nam: Ma Dương (麻阳 Máyáng), Tĩnh Châu (靖州 Jīngzhōu) và Thành Bộ (城步 Chéngbù)
Quý Châu: Tùng Đào (松桃 Sōngtáo), Ấn Giang (印江 Yìnjiāng), Vụ Xuyên (务川 Wùchuān), Đạo Chân (道真 Dǎozhēn), Trấn Ninh (镇宁 Zhènníng), Tử Vân (紫云 Zǐyún), Quan Lĩnh (关岭Guānlíng) và Uy Ninh (威宁 Wēiníng)
Vân Nam: Bình Biên (屏边 Píngbiān), Kim Bình (金平 Jīnpíng) và Lộc Khuyến (禄劝 Lùquàn)
Tứ Xuyên: Tú Sơn (秀山 Xiùshān), Dậu Dương (酉阳 Yǒuyáng), Kiềm Giang (黔江 Qiánjiāng) và Bành Thủy (彭水 Péngshuǐ)
Quảng Tây: Dung Thủy (融水 Róngshuǐ), Long Thắng (龙胜 Lóngshēng) và Long Lâm (隆林 Lōnglín)
Hải Nam: Quỳnh Trung (琼中Qióngzhōng) và Bảo Đình (保亭 Bǎotíng)
Phần lớn người Miêu sinh sống trên các dãy núi hay ngọn đồi, chẳng hạn
Núi Vũ Lăng (武陵 Wǔlíng) cạnh sông Tương Kiềm (湘黔川边的武陵山 Xiāngqián Chuān Biān Dí Wǔlíng Shān)
Núi Miêu (苗岭 Miáo Líng), Kiềm Đông Nam
Núi Nguyệt Lượng (月亮山 Yuèliàng Shān), Kiềm Đông Nam
Đại Tiểu Ma Sơn (大小麻山 Dà Xiǎo Má Shān), Kiềm Nam
Đại Miêu Sơn (大苗山 Dà Miáo Shān), Quảng Tây
Núi Ô Mông cạnh sông Điền Kiềm (滇黔川边的乌蒙山Tiánqián Chuān Biān Dí Wūmēng Shān)
Vài nghìn người Miêu đã rời bỏ quê hương để chuyển sang sinh sống ở các thành phố lớn như Quảng Châu hay Bắc Kinh.

Người H'mông ở Việt Nam.
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H'Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Trung và Việt-Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán du mục nên một số người H'Mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn tỉnh và 16,0% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người, chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đăk Lăk (22.760 người), Đăk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa (14.799 người).
Trên thực tế cho thấy các cư dân H'Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng tộc ở các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào.

Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người H'Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. H'Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc H'Mông ra làm các hệ: H'Mông Trắng (Môngz Đơư), H'Mông Hoa (Môngz Lênhs), H'Mông Đỏ (Môngz Si), H'Mông Đen (Môngz Đuz), H'Mông Xanh (Môngz Dua), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng H'Mông Hoa và H'Mông Đỏ là một.

Tiếng H'Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương án chữ H'Mông theo tự dạng Latin (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm hệ H'Mông Lềnh Sa Pa-Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành H'Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của hệ H'Mông Đơư và H'Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ H'Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người H'Mông sinh sống. Nhưng đến nay với nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình học chữ H'Mông đã không còn phát triển như trước kia nữa.

Người H"mông ở Mỹ.
Tại Hoa Kỳ, nhiều người H'mông là những người tị nạn từ Lào cũng như ra đi sau chiến tranh Việt Nam tới Mỹ. Bắt đầu vào năm 1976, những người H'mông tị nạn đầu tiên đã tới Mỹ, chủ yếu từ các trại tị nạn nằm trên đất Thái Lan.
Ngày nay, phần chủ yếu của người H'mông ở Mỹ (khoảng 270.000) sống ở California, Minnesota và Wisconsin. Fresno, Minneapolis-St. Paul, Madison và Milwaukee có mật độ tập trung cao của người H'mông.
Điều tra dân số Mỹ năm 2000 cho thấy chỉ có 40% người H'mông trên 24 tuổi đã từng học trung học. Khoảng 7% người H'mông có bằng cử nhân hoặc cao hơn. Tỷ lệ cao của thất học là do nhiều người H'mông chủ yếu có nguồn gốc là nông dân, họ ít có cơ hội tiếp thụ nền giáo dục tại Lào khi sinh sống trên núi đồi. Ngoài ra, khoảng 40% các gia đình H'mông nằm dưới mức nghèo khổ. Mặc dù họ vẫn là một trong số những dân tộc châu Á nghèo khổ nhất tại Mỹ, rất nhiều trẻ em thế hệ hai đã chiếm các vị trí cao trong nhiều trường học khi so sánh với các nhóm thiểu số thu nhập thấp khác. Trẻ em Mỹ gốc H'mông sinh ra tại Mỹ thông thường có nhiều cơ hội tiếp thu giáo dục hơn so với cha mẹ của chúng và vì thế có nhiều cơ hội kinh tế hơn so với cha mẹ chúng có thể có được ở Lào. Mặc dù người H'mông thông thường có xu hướng làm những công việc có thu nhập thấp, nhiều người trong số họ là rất chuyên nghiệp.

Tại nhiều thành phố lớn ở đó người Mỹ gốc H'mông sống và làm việc thì các bất hòa đã diễn ra giữa người H'mông và các nhóm thiểu số khác. Người H'mông thông thường là mục tiêu của sự phân biệt chủng tộc, chủ yếu là do sự cạnh tranh trong công việc và bản chất của người H'mông như là những người phụ thuộc vào trợ cấp. Nhiều kẻ ngược đãi họ bào chữa cho hành động của mình là do người H'mông đã lấy mất công việc, trợ cấp và các dịch vụ khác của những người định cư lâu đời ở đó. 

Mặc dù nhiều gia đình H'mông nói bằng ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà họ, nhưng nhiều người Mỹ gốc H'mông đã nhanh chóng thích nghi với xã hội Mỹ và rất nhiều người trẻ tuổi đã đánh mất các bản sắc văn hóa truyền thống của mình rất nhanh. Vì điều này, cộng đồng H'mông đã thành lập hiệp hội và phương tiện thông tin riêng để cổ vũ người H'mông giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ của họ.

Văn hóa ẩm thực.
Mèn mén, chế biến từ ngô hạt đem xay nhỏ, phải xay bằng cối đá và xay hai lần mới nhỏ mịn và khi đồ mới ngon. Đêm bột ngô vẩy nước vào đảo đều với độ ẩm vừa phải, khi cầm nắm ngô bột không bị dính, cũng không bị bở ra là được. Tiếp đó cho vào chõ đồ lần 1, đến khi hơi bốc lên thơm thì đổ ra mẹt vẩy thêm một ít nước rồi đảo đều cho tơi ra, sau đó lại cho vào chõ đồ lần 2; khi có mùi thơm lừng bốc lên, khi đó mèn mén đã chín, bưng ra chỗ cao ráo để ăn trong cả ngày.

Tục cưới hỏi.
Người con trai phải biết về sáo H'Mông, Khèn H'Mông, vào các đêm thổi trước cửa nhà cô gái. Nếu điệu sáo hay điệu khèn thu hút được lòng cô gái thì cô gái sẽ đi ra trò chuyện. Vào các ngày lễ hội để mong được người bạn gái để ý đến, người con trai cũng thể hiện làn điệu nhạc để thu hút bạn gái.
Nếu người bạn gái đồng ý thì hẹn bạn trai làm một thủ tục Bắt vợ. Theo tục bắt vợ của người H'Mông, sau ba ngày bắt được vợ, người con trai phải cùng bố mẹ đẻ đem lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà, rượu sang nhà gái để tạ ơn và làm vía thành hôn đồng ý cho hai người lấy nhau. Sau khi làm vía, người con trai phải cùng vợ ngủ lại nhà gái một đêm rồi sáng mai mới được về sớm. Bắt được vợ rồi thì hai người có thể về chung sống với nhau đến lúc nào có điều kiện kinh tế khá giả thì mới tổ chức đám cưới, thậm chí có những đôi ở với nhau có con rồi cưới cũng chẳng sao.
Ngày nay thủ tục này có phần thay đổi khác tiến bộ hơn, biến đổi giống người Kinh. Người con gái tìm hiểu kỹ hơn, tự do lựa chọn người bạn đời.

hầu như hiện tại tất cả dân tộc H'Mông đặc biệt là giới trẻ đều sử dụng chung ngôn ngữ viết mông để giao tiếp trong nước cũng như nước ngoài để thống nhất ngôn ngữ chung cho dân tộc H'Mông "hmoob".

Share with your friends