Tục cà răng của người Bru – Vân Kiều (ảnh st)
Người Bru-Vân Kiều, còn gọi là người Vân Kiều, người Mang Coong, người Trì hay người Khùa, là một dân tộc thiểu số. Ngôn ngữ sử dụng là tiếng Bru, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn-Khmer.
Địa bàn cư trú
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Bru-Vân Kiều ở Việt Nam có dân số 227.716 người, cư trú tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Bru-Vân Kiều cư trú tập trung tại các tỉnh Quảng Trị với dân số 55.079 người, chiếm tỷ lệ 73,9 % tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt Nam, tỉnh Quảng Bình với dân số 14.631 người, chiếm tỷ lệ 19,6 % tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt Nam, tỉnh Đăk Lăk với dân số 3.348 người, tỉnh Thừa Thiên Huế với dân số 1.114 người, tỉnh Thanh Hóa với dân số 38 người
Một thôn bản sinh sống của người dân tộc Bru-Vân Kiều
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 69.000 người Bru nói phương ngữ phía đông của tiếng Bru, tương tự như tại Việt Nam.
Tại Thái Lan có khoảng 5.000 người, nói phương ngữ phía đông của tiếng Bru và khoảng 20.000 người nói phương ngữ phía tây của tiếng Bru.
Lịch sử và đặc điểm sinh sống
Người Bru vốn là cư dân nông nghiệp có trình độ tương đối phát triển, xưa kia họ tập trung sinh sống tại vùng Trung Lào, sau những biến động của lịch sử diễn ra hàng thế kỷ, họ phải di cư đi các nơi. Một số đi theo hướng tây bắc sang Thái Lan, một số đi theo hướng đông tụ cư tại vùng miền núi phía tây tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế của Việt Nam. Khi vào Việt Nam họ dựng làng xung quanh hòn núi Vân Kiều (núi Viên Kiều), về sau người Việt lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng của người Bru, và từ đó họ còn được gọi là Bru-Vân Kiều.
Một số đồ dùng của người dân tộc Bru-Vân Kiều
Tộc người Bru-Vân Kiều có truyền thống làm rẫy và làm ruộng, cùng với tập quán hái lượm, săn bắn và đánh cá. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm dành phục vụ chủ yếu cho các lễ cúng hơn là việc cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công của dân tộc này thường chỉ đan chiếu lá, gùi.
Đặc điểm văn hóa
Văn hóa của người dân tộc Bru-Vân Kiều đặc sắc, thể hiện ở các phong tục hôn nhân, nghệ thuật âm nhạc truyền thống, kiến trúc nhà ở và trang phục.
Về hôn nhân, trong phong tục đám cưới của ngườidân tộc Bru-Vân Kiều, nhà trai trao cho nhà gái một thanh kiếm. Cô dâu khi về nhà chồng thường trải qua nhiều nghi lễ phức tạp như làm bếp, rửa chân... Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng bái của các cháu.
Về nghệ thuật âm nhạc, nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Bru-Vân Kiều có nhiều loại khác nhau như trống, thanh la, chiêng, núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Dân ca của dân tộc này có nhiều làn điệu như "chà chấp", lối vừa hát vừa kể rất phổ biến, hay "sim", hình thức hát nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của người Bru-Vân Kiều rất phong phú.
người dân tộc Bru-Vân Kiều
Về kiến trúc nhà ở, người dân tộc Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhỏ, phù hợp với quy mô gia đình thường gồm cha, mẹ và các con chưa lập gia đình riêng. Nếu ở gần bờ sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay, ngườidân tộc Bru-Vân Kiều ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.Nhà của người Bru-Vân Kiều là nhà sàn có hai mái, thường lợp bằng lá mây hoặc lá cọ. Chiều dài của ngôi nhà dài - ngắn bao nhiêu tùy thuộc vào số lượng người trong gia đình, hoặc tùy thuộc vào kinh tế. Nhưng dù nhà dài hay ngắn, đều cũng chỉ có hai cửa chính, một cửa chủ yếu dành cho nữ, còn một cửa chỉ dành cho nam và khách nam. Hai bên đầu hồi có những hình trang trí bằng gỗ theo kiểu sừng trâu hoặc đôi chim, vừa đỡ bị tốc lá, vừa mang tính thẩm mỹ.
Phụ nữ người dân tộc Bru-Vân Kiều
Về trang phục, nam giới người Bru-Vân Kiều để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây, họ thường lấy vỏ cây sui làm khố, áo. Phụ nữ Bru-Vân Kiều mặc áo và váy. Áo nữ có đặc điểm xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bằng bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc hình vuôngVáy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang. Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ Bru-Vân Kiều ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20 đến 25 cm. Có nhóm phụ nữ Bru-Vân Kiều đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các "đồng tiền" bằng bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
Gia Bách (sưu tầm)