Dân tộc Xtiêng có hơn 67.000 người. Đồng bào cư trú tập trung tại tỉnh Bình Phước và một phần sinh sống ở Đồng Nai và Tây Ninh. Có thể phân biệt hai nhóm Xtiêng là Bù Đéc và Bù Lơ. Nhóm Bù Đéc ở vùng thấp,biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người Mnông và người Mạ. Dân tộc Xtiêng còn có tên gọi là Xađiêng. Tiếng Xtiêng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơmer.
Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình nhỏ làm nhà ở riêng. Vùng cao ở nhà trệt, vùng thấp ở nhà sàn. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng trang sức…
Thông thường con trai từ tuổi 19 – 20, con gái từ tuổi 15 – 17 bắt đầu tìm bạn đời. Sau lễ cưới, cô dâu về nhà chồng hoặc chú rể về ở đằng vợ.
Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, dái tai xâu lỗ để đeo hoa tai bằng gỗ hay ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Người Xtiêng quan niệm “vạn vật hữu linh”, tin vào sức mạnh huyền bí của sấm, sét, trời, đất, trăng, mặt trời. Tính chất thiêng liêng và quyền uy của thần được quy ước bằng vật hiến sinh màu trắng: gà trắng, lợn trắng, trâu trắng. Đồng bào tính tuổi theo mùa rẫy.
Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng 6 cái, bộ cồng 5 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hoà giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng, cồng còn có khèn bầu, sáo… cũng được đồng bào ưa thích. Cuối mùa khô, đồng bào hay chơi thả diều.
Lý Hải Ninh (sưu tầm)