Dân tộc Ơ Đu (theo tiếng Thái nghĩa là “thương lắm”), còn có tên gọi khác là Tày Hạt, là một trong những dân tộc ít người nhất của Việt Nam và Lào.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người dân tộc Ơ Đu ở Việt Nam có dân số 376 người, có mặt tại 11 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người dân tộc Ơ Đu cư trú tập trung tại các tỉnh: Nghệ An (340 người, chiếm 90,4% tổng số người Ơ Đu tại Việt Nam) Sài Gòn (12 người), Hà Nội (7 người), Lâm Đồng (4 người), Đồng Nai (4 người).
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 194 người Ơ Đu sống tại tỉnh Xiêng Khoảng (Xieng Khouang).
Tiếng dân tộc Ơ Đu thuộc ngữ chi Khơ Mú của ngữ tộc Môn-Khmer. Nhưng hiện nay người dân tộc Ơ Đu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người, còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Họ sử dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú hoặc biết thêm tiếng Việt. Bản sắc văn hóa của người dân tộc Ơ Đu mờ nhạt vì chịu ảnh hưởng của người Thái và người Khơ Mú. Trong lần tổng điều tra dân số toàn quốc năm 1989, nhiều người Ơ Đu tự khai là người Thái hay người Khơ Mú.
Xưa kia người dân tộc Ơ Đu cư trú suốt hai bên bờ sông Nậm Mộ, Nậm Nơn, nhưng do nhiều biến cố lịch sử, họ phải dời đi nơi khác hoặc ở lẫn vào các dân tộc khác. Hiện nay họ sống rải rác trong nhiều bản vùng sâu vùng xa thuộc huyện Tương Dương, tập trung ở hai bản Kim Hòa, Xốp Pột (xã Kim Đa) và một số cư trú lẻ tẻ ở các bản các xã kế cận, thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Người dân tộc Ơ Du có nguồn gốc là dân tộc của Vương Quốc Bồn Man từ các thế kỷ “1369 – 1478”.
Bản đồ Trấn Ninh năm 1893.
Bồn Man là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng (Xieng Khouang), một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng Nghệ An đến Quảng Bình).
Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như Đại Việt, Lan Xang, Ayutthaya và sau cùng là Pháp.
Khi nằm dưới sự bán cai trị của Đại Việt vùng đất này có tên là Trấn Ninh, thuộc xứ Nghệ An.
Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan của Bồn Man là một nhóm dân tộc Thái-Lào theo Phật giáo, di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến (Ai Lao) Lào. Khoảng cuối thế kỷ 13 đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở cánh đồng Chum (trên cao nguyên Xiêng Khoảng). Tiểu quốc Bồn Man của Tai Phuan này được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh – Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú.
Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang (Lão Qua) cũng của người Thái-Lào, phía đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man (Muang Phuan) được hợp nhất vào Lan Xang (Lão Qua) dưới thời vua Fa Ngum.
Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm (Lư Cầm) cai trị, với thủ đô là Xieng Khouang (hay Xieeng Khoảng, tức Muang Khoun ngày nay), nhưng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì thủ phủ ở Sầm Nưa (ngày nay là thị xã Sầm Nưa của Lào), dân số ước chừng 9 vạn hộ. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ đã phải cống nạp thuế cho Lan Xang.
Bản đồ vị trí của Lan Xang.Bản đồ vị trí của Lan Xang.
Từ thời vua Piloko thế kỷ thứ 7, hoàng tử Chet Chuang con trai Piloko, đã được gửi đến cai trị Xiêng Khoảng. Sau đó Mường Puan hoặc Xieng Khuoang được thành lập bởi hoàng tử Chet Chuang, khoảng năm 698. Từ đó Xieng Khuoang Mường Puan trở thành một quốc gia bộ lạc tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia nối tiếp nhau của người Thái-Lào: Chiengsen, Sukhothai và sau đó là Lan Xang của Fagnum (Phà Ngừm). Đến thời Phà Ngừm, ông chinh phục được các vương quốc Lào cổ trong đó có cả Xieng Khouang, nhập vào Lan Xang. Riêng Mường Puan (Bồn Man), Fagnum thu nạp được là nhờ có việc liên kết, vào năm 1349, với hoàng tử Khio Kamyor, con của tù trưởng Xieng Khouang lúc đó là Chao Kamphong, chống lại cha mình.
Tên của các vị tù trưởng (vua) của Bồn Man, cai trị Xiêng Khoảng sau Chet Chuang, cho đến trước thời nước Lan Xang ra đời bên cạnh Bồn Man, là:
Chetchuan, Chetchod, Chetchue, Chetchan, Chetyod Yohkam, Chao Pra Yeehin, Chao Pra Kue, Chao Kamlun, Chao Kampeng, Chao Kamkhod, Chao Kamrong, Chao Kamchaek, Chao Kamphan, Chao Ruea, Chao Rueang (chỉ như là nhiếp chính), Chao Kampin (con trai của Kamphan), Chao Kamton, Chao Kamtodsak, Chao Kamkuon, Chao Kamluon, Chao Kamnah, Chao Kamtao, Chao Kamkao, Chao Kamphong.
Nguyên do một phần đất Bồn Man đã xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông, được vua Nhân Tông nhập vào nước Đại Việt, thành châu Quy Hợp xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Lư Cầm đời đời làm Phụ đạo.
Năm 1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với Lão Qua đem binh quấy nhiễu (châu Quy Hợp) khu vực phía tây xứ Nghệ của Đại Việt.Hoàng đế Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lệ đánh Ai Lao. Quân Lê đi chia làm 5 đạo từ Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa, đánh bại quân Bồn Man và Lão Qua, đồng thời đánh đuổi tới lưu vực sông Mê Kông giáp với Miến Điện ngày nay.
Tranh vẽ Vua Lê Thánh Tông.Tranh vẽ Vua Lê Thánh Tông.
Theo Việt Nam sử lược thì: Sau khi Cầm Công bị giết, vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập lãnh thổ Bồn Man vào Đại Việt, đặt tên là Phủ Trấn Ninh và giao cho một người họ hàng của Cầm Công là (Lư) Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt các quan cai trị (Quy Hợp) như trước. Vùng đất này đặt thành phủ Trấn Ninh, gồm 7 huyện là:
1. Cảnh Thuần
2. Châu Lang
3. Kim Sơn
4. Minh Quảng
5. Quang Vinh
6. Thanh Vị
7. Trung Thuận.
Phần lãnh thổ Bồn Man thuộc về Việt Nam từ năm 1479 (ít phụ thuộc Lão Qua [Lan Xang] hơn), nhưng dưới hình thức tự trị (bán độc lập), cho thổ quan là người họ Cầm cai quản, mà không cử lưu quan sang cai trị. Về mặt hành chính, lãnh thổ Bồn Man được Đại Việt xem là thuộc xứ Nghệ An của Đại Việt.
Năm 1707, khi nhà nước Lan Xang phân rã thành 3 tiểu quốc nhỏ: Viên Chăn (Vạn Tượng), Nam Chưởng (Luông Pra Băng) và Chăm Pa sắc, thì Muang Phuan (Trấn Ninh) cũng thành một tiểu quốc độc lập với 3 tiểu quốc kia của người Lào (Ai Lao).
Vào khoảng thời gian 1763-1770, trong thời Lê trung hưng, Trấn Ninh (với cả Sầm Châu và Trình Quang) bị Lê Duy Mật chiếm đóng (bắt giam tù trưởng Trấn Ninh là (Lư) Cầm Hương), chống lại nhà Lê-Trịnh. Trịnh Sâm điều quân sang đánh dẹp Lê Duy Mật, lập lại trấn Ninh và giao cho cháu Cầm Hương là Lư Cầm Uẩn làm tù trưởng. Đến cuối thế kỷ 18 (thập niên 1770), vương quốc Xiêm đã hình thành và lớn mạnh, thì Muang Phuan (Trấn Ninh), trở thành một chư hầu của Xiêm, nhưng vẫn triều cống Đại Việt.
Tranh vẽ Vua Quang Trung.Tranh vẽ Vua Quang Trung.
Thời nhà Tây Sơn Việt Nam, các tù trưởng Trấn Ninh, theo Xiêm và Vạn Tượng (Viêng Chăn) chống lại nhà Tây Sơn. Năm 1791, Trần Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng Thiệu Kiểu, Thiệu Đế của Trấn Ninh.
Thời nhà Nguyễn, Gia Long đem đất Trấn Ninh cắt về cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ (Anouvong). Nhưng khi Chiêu Xanh, tù trưởng Trấn Ninh khi ấy chết, A Nỗ không lập con Chiêu Xanh là Chiêu Nội (Chao Noi) lên, nên Chiêu Nội thù A Nỗ, đồng thời Chiêu Nội chạy sang phủ Trà Lân xứ Nghệ và xin nội thuộc lại Đại Nam (nhà Nguyễn). Đến khi A Nỗ chống lại nước Xiêm, bị vua Xiêm là Rama III sai Chao Phraya Bodin Decha đánh cho thua chạy sang Nghệ An, qua Trấn Ninh bị Chiêu Nội bắt nộp cho Xiêm năm 1828. Chiêu Nội bị Minh Mạng khép tội chết vì hành động này.
Sau khi giết Chiêu Nội, nhà Nguyễn cử quan Việt sang cai trị Trấn Ninh. Năm 1823, nhà Nguyễn đặt thêm huyện Liêm. Phủ Trấn Ninh từ đấy bao gồm 7 huyện:
1. Liên,
2. Khâm
3. Quảng
4. Khang
5. Cát
6. Xôi
7. Mộc
8. Liêm (vốn là mán Mường Hiểm)
Tháng 3/1832, nổ ra cuộc khởi nghĩa của hơn 200 binh lính Trấn Ninh, do Trần Tứ và Đỗ Bắc lãnh đạo, nổi dậy chống nhà Nguyễn và liên kết với cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương. Những năm 1833-1834, trong chiến tranh Việt-Xiêm, người Thái tấn công Đại Nam (một trong các hướng là qua ngả Trấn Ninh), đất Trấn Ninh bị người Thái lấn dần. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm 1893, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh Houaphan (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao).
Sau khi người Xiêm giành được độc lập sau cuộc xâm lược của người Miến Điện, Vương triều Chakri đã được thành lập và nhanh chóng phục hồi, các vị vua Xiêm thực hiện các cuộc viễn chinh xâm lược chinh phục các nước xung quanh. Trong đó, người Xiêm đã thực hiện các chiến dịch lên vùng lãnh thổ phía Đông sông Mê Kông của Lào năm 1770, tấn công đất Bồn Man (1777–79, 1834–36 và 1875/76) và cưỡng bức dân cư ở đây di chuyển đến vùng lãnh thổ phía Bắc được kiểm soát bởi người Xiêm.
Bản đồ Xiêng Khoảng (Xieng Khouang)
Năm 1870, các cuộc xâm phạm của đám tàn quân Thái Bình Thiên Quốc (Trận Ho) đã tàn phá Luang Prabang, Xieng Khouang và phá hoại các đến thờ tại vùng Bồn Man.
Các điều khoản trong hiệp ước Pháp-Xiêm trong thập niên 1890 được đặt Xieng Khouang dưới sự cai trị như một phần thuộc địa của Đông Dương thuộc Pháp cho đến sau Thế chiến II.
Lãnh thổ của Bồn Man xưa thuộc khu vực phía tây của xứ Nghệ (tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), tức là tỉnh Xiêng Khoảng (Xieng Khouang) và một phần tỉnh Hủa Phăn, đến châu Quy Hợp (vùng biên giới tỉnh Khăm Muộn (Lào) với Hà Tĩnh và Quảng Bình Việt Nam ngày nay).
Xiêng Khoảng (Xieng Khouang) ở phía Tây Nghệ An, Hủa Phăn ở Tây Bắc Nghệ An. Theo Phan Huy Chú, phủ Lâm An xứ Nghệ vốn trước là phần đất của Bồn Man chư hầu của Ai Lao, đến năm 1448 niên hiệu Thái Hòa thứ 5, tù trưởng vùng này sang thần phục nhà Lê, Lê Nhân Tông cho nhập vào Đại Việt đổi tên thành Quy Hợp, địa giới nằm ở tận cùng phía tây xứ Nghệ. Năm 1828 Quy Hợp được đổi thuộc phủ Trấn Tĩnh.
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú:
“đến đời trấn quận (tức khi thành Trấn Ninh) nhà Lê lấy thêm được đất Hô Mường ở phía Bắc, tức là đất thuộc Lão Qua (Lan Xang) xưa cho gộp vào trấn Ninh (Hô Mường (Huameuang) vùng đất nay là tỉnh Hủa Phăn Lào). Phía Tây Trấn Ninh tiếp giáp với Ai Lao, (sửa sang nhà cửa, đóng ở Trình Quang) tức là lấy Trình Quang (Xiêng Khoảng) làm lỵ sở.”
Tranh vẽ Vua Minh Mạng (Mệnh).
Theo “Đại Việt địa dư toàn biên” của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu:
“Phủ Trấn Ninh, lĩnh 8 huyện ở phía tây tỉnh thành (Nghệ An) (chưa rõ bao dặm). Trước là đất Bồn Man. Đời Lê khoảng năm Hồng Đức, Thánh Tông sai Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lệ đánh phá Ai Lao, lấy đất đặt làm phủ này. Trước lĩnh 7 huyện là Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Vinh, Minh Quảng, Châu Lang, Trung Thuận. Đời Lê trở về trước, đều do thổ tù thế tập, đất rộng, dân đông, đứng đầu các mán…
Năm Minh Mệnh thứ 8 (1828),…, tù trưởng Trấn Ninh là Chiêu Nội biếu sổ nhân dân thổ địa, xin theo vào nước ta (Đại Nam), vua bèn cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sử,… Sau Chiêu Nội có tội bị giết. Triều đình (nhà Nguyễn) mới đặt lưu quan để cai trị. Năm Minh Mạng 13 (1833), lại đặt thêm huyện Liêm. Huyện Liêm (vốn là mán Mường Hiểm (nay thuộc huyện Viengthong, Hủa Phăn, nước Lào hiện đại) gồm 2 tổng, 3 bạn (bản)), huyện Khâm (tức Kham của Xiêng Khoảng hiện đại) (3 tổng, 3 bạn), huyện Quảng (trước tên là Khoáng có 2 tổng, 2 bạn), huyện Khang (2 tổng, 2 bạn), huyện Cát (2 tổng, 3 bạn), huyện Xôi (2 tổng, 2 bạn), huyện Mộc (nay thuộc Mường Mộc của Xiêng Khoảng hiện tại) (2 tổng, 2 bạn), huyện Liên (2 tổng, 2 bạn).”
Nhưng cũng theo Nguyễn Văn Siêu:
“vùng đất tỉnh Hủa Phăn ngày nay lại thuộc hai phủ Trấn Biên tỉnh Nghệ An và phủ Trấn Man của tỉnh Thanh Hóa thời Nguyễn. Phần phía Nam của Hủa Phăn ngày nay là phủ Trấn Biên, nằm ở phần tây bắc tỉnh Nghệ An nhà Nguyễn, trước thuộc đất xứ Mang Hổ nước Ai Lao, gồm 4 huyện: Xa Hổ, Xầm Tộ (nay là Xamtay, hay còn gọi là Xầm Tơ tỉnh Hủa Phăn) vốn là Hổ Phân Xầm Tộ, Mang Lan (Mường Lan) vốn là Hổ Phân Mang Lan, Mang Soạn vốn là Hổ Phân Mang Soạn. Phần phía Bắc Hủa Phăn là phủ Trấn Man thuộc Thanh Hóa thời nhà Nguyễn, được chuyển từ phủ Trấn Biên tỉnh Nghệ An sang năm Minh Mạng thứ 9 (1829), gồm 3 huyện: Trình Cố (tức Xiềng Kho, hay Xiengkhor của Hủa Phăn, trước đó có tên là châu Trình Cụ, cuối thời Lê được nhập thêm châu Mã Nam (Nam sông Mã) từ xứ Hưng Hóa (Sơn La ngày nay) vào), Xầm Nưa hay Sam Neua (châu Xầm Nưa nhà Lê), Man Duy (tức châu Sơn Thôi nhà Lê hay mường Man Xôi đầu nhà Nguyễn, nay là Mường Xon tỉnh Hủa Phăn).”
oOo
Tộc Ơ Đu sinh sống bằng nương rẫy. Lúa là nguồn lương thực chính, bắp, sắn, kê là lương thực phụ. Hái lượm và săn bắn vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Người Ơ Đu nuôi bò với số lượng không đáng kể nhằm lấy sức kéo. Gà, heo, nuôi thường để sử dụng vào mục đích nghi lễ, cúng bái và cải thiện bữa ăn, nhất là dịp có khách.
Nghề phụ gia đình hầu như chỉ có đan lát đồ gia dụng, gần đây đã có một số gia đình có khung dệt vải.
Họ còn bảo lưu một số nét văn hóa… như kiểu nhà đầu quay vào núi hay đồi được gọi là dinh luông tặng mà khi dựng cột phải theo một thứ tự nhất định.
Tộc Ơ Đu sống trong gia đình nhỏ, trong hôn nhân có tục ở rể, sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình. Cũng giống như người Đan Lai (thuộc dân tộc Thổ), người Ơ Đu có tục đẻ ngồi tại góc nhà.
Xưa kia người Ơ Đu không có tên họ, nay lấy tên họ giống của người Lào hoặc Thái, chẳng hạn như các họ Lò Khăm, Lò May, Lò Văn.
Trang phục không có đặc tính tộc Ơ Đu mà chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của cư dân Việt – Mường và Thái.
Tộc Ơ Đu có lịch tính năm riêng, bắt đầu bằng tiếng sấm đầu xuân, cũng là thời điểm bắt đầu cho năm mới. Họ quan niệm người có hồn, khi chết, hồn biến thành ma, ma nhà chi phối mọi hoạt động của người sống trong nhà.
Cho đến nay, chỉ có 1 người tốt nghiệp đại học (từ năm 1981): đó là anh Lô Kim Trọng ở bản Kim Hòa, xã Kim Đa, Tương Dương, Nghệ An, làm hiệu trưởng trường trung học cơ sở Kim Đa từ năm 1999.
Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của tộc Ơ Đu chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ. Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.
Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, heo ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.
Người Ơ Ðu có có các trò chơi: đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan. Họ sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; và rất quen thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.
Lễ mừng tiếng sấm đầu năm của người Ơ Đu.
Nét Văn Hóa Và Tín Ngưỡng Độc Đáo Của Người Ơ Đu
Miền tây xứ Nghệ chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó có tộc người Ơ Đu. Tộc người Ơ Đu (hay còn gọi là Phrom Ơ Đu) ở Tương Dương (Nghệ An) là một trong số 5 tộc người có dân số ít nhất Việt Nam hiện nay. Người Ơ Đu từng có lịch sử đáng tự hào, có cát cứ địa lý riêng, có nền văn hóa riêng, có phong tục tín ngưỡng độc đáo không xen lẫn với bất cứ tộc người nào.Trên huyện miền núi rẻo cao Tương Dương, bản Văng Môn, xã Nga My là nơi có tộc người Ơ Đu sinh sống.Đường vào bản lên dốc xuống đèo, tựa hồ như phải vươn tay ra vén lên lớp màn mây dày đặc thì mới đi qua được.
Bản Văng Môn nằm nép dưới những sườn đồi phủ xanh cây keo và cây trầm gió. Không như người Mông cư trú làng bản theo hình vành khăn, không giống người Khơ Mú cư trú theo hình tổ chim, người Ơ Đu ở Tương Dương Nghệ An bố trí cư trú dân bản theo hình mặt tập. Qua bao thăng trầm của thời gian và lịch sử, tộc người Ơ Đu hiện lưu lại tại đây chỉ còn trên 80 hộ, vào khoảng 700 người sinh sống.
Lịch sử đã khẳng định, người Ơ Đu có ngôn ngữ riêng. Những truyền thuyết của người Thái hay người Khơ Mú đều cho thấy vùng đất thượng nguồn Nậm Nơn hay còn gọi là ( Sông Lam) xưa đều là đất do người Ơ Đu khai phá. Những cái tên hang động, tên suối, ngọn núi còn mang đậm thanh âm của tiếng Ơ Đu. Ngôn ngữ Phrom Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me (dòng ngữ hệ Nam Á). Do những biến cố trong lịch sử, các thế hệ Phrom Ơ Đu còn lại bây giờ chỉ có một số rất ít ỏi, người nói được tiếng Ơ Đu thẩm chí còn đếm được trên đầu ngón tay .
Còn về cuộc sống cư dân thì cũng giống như nhiều dân tộc anh em khác, người Ơ Đu ở nhà sàn. Kiến trúc nhà ở của người Ơ Đu thường có 4 mái, lợp bằng nứa hoặc tranh cỏ, đầu nhà quay vào núi. Một ngôi nhà thường có 4 đến 8 cột, tương ứng với 1 hay 3 gian tùy điều kiện từng gia đình. Khi dựng, bao giờ người Ơ Đu cũng dựng cột chính (gọi là cột góc ma nhà ở) trước, sau đó mới đến các cột khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự.
Theo tục lệ của người Ơ Đu, khách đến nhà, đặc biệt là khách quý bao giờ họ cũng đem món “lám nhọoc” ra tiếp đãi khách. Món “lám nhọoc” đựng trong những ống nứa có hoa văn, bên trong chứa rau, cà, hoa chuối, lá môn trộn chung với cá, lòng cá và thịt heo, thịt chuột… Ngoài ra còn có rượu “lậu sả thô”. Rượu “lậu sả thô” là loại rượu làm bằng gạo nếp, đựng ủ lâu ngày cho lên men (người Thái gọi là rượu cần) trong hũ. Đối với người Ơ Đu, “lám nhọoc” mà đem ăn sống hoặc nướng qua trên bếp, ăn một miếng, nhấp một ngụm rượu “lậu sả thô” thì không còn gì sánh bằng!
Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Nhưng có thể nói nếp nương vẫn là loại lương thực chính. Mỗi vụ, mỗi gia đình thường trồng vài ( ha ) lúa nương. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ. Các công việc phát, đốt, gieo hạt được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 5 âm lịch, còn vụ thu hoạch là vào tháng 9, tháng 10. Trước khi vào vụ làm nương phát rẫy đầu mùa hay sau khi thu hoạch, người Ơ Đu cũng đều cúng Mẹ lúa, cúng thần rừng thay cho lời cảm tạ và cầu cho mưa thuận, cho gió hòa, cho gia đình mình được ấm êm, no đủ.
Ngoài lúa là giống cây trồng chính, dân tộc Ơ Đu còn trồng sắn và các loại bầu, bí, ngô, đỗ. Phương tiện vận chuyển duy nhất của họ là chiếc gùi. Gùi được đan bằng giang chắc chắn, trang trí hoa văn đẹp mắt. Khi sử dụng, người ta khéo léo kéo dây đeo bên trán, vậy là có thể thồ, vác được.
Những lúc không lên nương phát rẫy cũng là dịp để những thành viên trong gia đình người Ơ Đu trò chuyện quây quần bên nhau. Người ta hát cho nhau nghe, cùng nhau đan lát. Tiếng cười, tiếng nói giòn tan trong sáng và lung linh hơn cả cái nắng của tiết trời mùa hạ.
Có thể nói nghề đan lát là một trong những tập tục hiếm hoi mà người Ơ Đu vẫn còn lưu truyền và phát triển được cho đến ngày nay. Từ những cây giang, cây mây, bàn tay khéo léo của người Ơ Đu đã tạo nên những vật dụng mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc. Đó là chiếc thảm đan bằng nứa, chiếc nong phơi ngô, phơi thóc, gùi mây có dây đeo trán hay dụng cụ đánh bắt cá riêng biệt và rất nhiều loại khác. Một phần sản phẩm người Ơ Đu dành cho tiêu dùng, phần còn lại để trao đổi và phát triển kinh tế.
Trang phục truyền thống người Ơ Đu.
Ngoài những việc sinh hoạt đời thường ra người Ơ Đu là tộc người duy nhất có cuộc sống phụ thuộc vào sấm trời. Mọi việc trọng đại, lớn nhỏ trong gia đình, trong dòng họ và kể cả công việc chung của cộng đồng cũng đều được bắt đầu từ tiếng sấm. Sấm nghĩa là năm mới đến. Sấm nghĩa là một mùa gieo trồng mới bắt đầu. Sấm như năng lượng mà thượng đế ban tặng cho những người con Ơ Đu yêu dấu của ngài.
Người Ơ Đu tính thời gian trong năm bắt đầu từ ngày có tiếng sấm đầu tiên. Đây là tập tục cổ xưa của các dân tộc thiểu số sống bằng nghề trồng trọt.
Đối với tộc người Ơ Đu, lễ mừng tiếng sấm năm mới (còn gọi là lễ champhtrong) là lễ hội lớn nhất trong năm, thường kéo dài từ 3 đến 7 ngày, vào tháng 2 – tháng 3 âm lịch. Cho đến khi mọi công việc quan trọng trong bản xong xuôi thì lễ hội mới kết thúc. Vào những ngày này, bà con tổ chức rất long trọng, giết trâu, mổ lợn ăn uống linh đình.
Nghi lễ đầu tiên trong ngày chămphtrong là phong sắc, phong tước cho các chức sắc trong bản như trưởng họ, già làng, các chức sắc trong giới thày mo và đổi tên cho những người đàn ông đã trưởng thành.
Những đứa trẻ sinh trong năm, đến ngày chăm phtrong được các thày mo đến nhà làm lễ nhập họ và chính thức đặt tên. Nếu chưa có sấm, đứa trẻ Ơ Đu vẫn chưa được thành người. Chỉ khi trời đất rền vang tiếng sấm đầu mùa, lúc này gia đình mới tổ chức lễ để đặt tên cho đứa trẻ. Tuổi của đứa bé cũng bắt đầu được tính từ đây.
Người Ơ Đu phụ thuộc vào tiếng sấm, từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi họ cũng phải chờ tiếng sấm. Chỉ khi có tiếng sấm vang lên thì linh hồn họ mới được coi là siêu thoát. Trong gia đình người Ơ Đu, khi người vợ hay người chồng không may qua đời, họ phải làm lễ chia của và khóc cho người chết. Ngoài mâm đồ cúng lễ, quan trọng nhất là phải có 1 đồng xu chia làm đôi. Một nửa người sống giữ lại còn nửa kia chôn theo người quá cố. Nếu vợ hay chồng của người quá cố muốn đi bước nữa, họ cũng phải chờ tới tiếng sấm đầu năm. Có sấm, mới bắt đầu lễ cúng, mới xin phép được người quá cố cho đi bước nữa.
Quan niệm về thế giới vĩnh hằng của dân tộc Ơ Đu cũng gần giống với dân tộc Thái. Ngoài các then như Then Luông, Then Vi, Then Bắc còn có thêm Then Na cai quản ruộng nương. Họ cho rằng những người bị hổ ăn thịt, bị chết hoặc mất tích trong rừng không phải do ma rừng bắt mà do Then Na bắt đi làm lính hầu trông coi nương rẫy. Theo người Ơ Đu, linh hồn con người trú ngụ ở 2 nơi, một là nơi chỏm tóc, hai là nơi thân xác. Vì vậy, người Ơ Đu tuyệt đối kiêng kỵ không xoa đầu trẻ con. Tục truyền làm như vậy hồn sẽ sợ và bay đi mất, đứa trẻ do đó mà gặp vận hạn, hay đau ốm.
Người Ơ Đu rất quan tâm chú trọng đến việc thờ cúng ma nhà. Dân gian truyền lại, ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ của người Ơ Đu đơn giản, treo cao sát mái nhà, ở đó có bát đựng trầu, đựng cau và treo lá bùa. Người Ơ Đu quan niệm khi trong nhà có việc chẳng lành như có người ốm đau, bệnh tật kéo dài chữa trị không khỏi, hỏa hoạn hay có người chết, vật nuôi chết hay thất lạc,…là do ma nhà hay hồn ở chỏm tóc phật ý mà làm hại. Lúc này, người ta mời thày mo đến cúng ma nhà, cúng hồn chỏm tóc với nhiều lễ lạt trâu, lợn, gà, quần áo, gạo, bạc nén, rượu cần… để hỏi xem ma nhà hay linh hồn phật ý về vấn đề gì, sau đó tiếp tục bày lễ xám hối và cầu xin ma nhà hay linh hồn tha thứ và đừng làm hại gia đình.
Phải nói rằng dân tộc Ơ Đu có một nền văn hóa và phong tục tín ngưỡng rất độc đáo.Sau bao biến động của lịch sử, ngày nay do dân số ít, phải sống xen kẽ cùng với người Khơ Mú và người Thái dẫn đến về mặt quan hệ xã hội và văn hóa của người Ơ Đu phải chịu nhiều ảnh hưởng và đứng trước nguy cơ mai một.
Người Ơ Đu đang xem chân gà ngày tết Chăm Phtrong tại nhà cộng đồng (ảnh CT).
Đi ăn Tết mừng tiếng sấm của đồng bào dân tộc ít người nhất Việt Nam
Tết Chăm Phtrong là một cái tết quan trọng bậc nhất của đồng bào Ơ Đu để mừng tiếng sấm đầu tiên trong năm mới.
Dân tộc ít người nhất Việt Nam
Người Ơ Đu là một trong những dân tộc ít người nhất của Việt Nam. Hiện nay, dân số của tộc người Ơ Đu chỉ khoảng hơn 600 người. Thời kỳ hưng thịnh đồng bào Ơ Đu sống độc lập, không xen kẽ với bất kỳ dân tộc nào. Thời điểm này người Ơ Đu rất ít giao du với các dân tộc bên ngoài, họ chủ yếu chỉ qua giao du với người Thái, Khơ Mú khi có nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa.
Trải qua thời gian và biến động lịch sử số lượng ngưởi Ơ Đu giảm dần về số lượng. Rồi dần dần người Ơ Đu sống xen kẽ với đồng bào dân tộc Thái, Khơ Mú nên phong tục người Ơ Đu bị mai một dần và bị ảnh hưởng nhiều từ phong tục của hai dân tộc trên.
Khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công các dân tộc được tự do nên người Ơ Đu đã chuyển về sống tập trung tại 2 bản Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Chỉ có một số ít sống rải rác tại các bản Tạ Xiêng, xã Kim Tiến; bản Xiêng Hương, xã Xá Lượng, huyện Tương Dương, Nghệ An. Tuy nhiên, do biến cố lịch sử cùng với việc di chuyển nhiều nên đến thời điểm này không còn người Ơ Đu nào nhớ được ngôn ngữ và phong tục riêng của đồng bào mình. May mắn chỉ còn vài người già của đồng bào Ơ Đu còn nhớ được tập tục ăn tết Chăm Phtrong cúng lễ mừng tiếng sấm đầu tiên của năm. Cho đến nay gần đây là tục lễ duy nhất của người Ơ Đu còn sót lại.
Sự bình ổn nơi ở của đồng bào Ơ Đu chưa dừng lại, năm 2006 khi lòng hồ thủy điện Bản Vẽ khởi công xây dựng, hai bản Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa, huyện Tương Dương nơi có người Ơ Đu sinh sống tập trung nhiều nhất lại phải tiếp tục di dời đến bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương để sinh sống.
Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy, gần đây được sự quan tâm của chính quyền nên người Ơ Đu đã biết làm thêm lúa nước. Mỗi năm người Ơ Đu chỉ làm một mùa rẫy bắt đầu từ tháng 4 và thu hoạch vào tháng 10. Ngoài lúa người Ơ Đu còn trồng thêm sắn, ngô … Cho đến nay nghề hái lượm và săn bắn vẫn được người Ơ Đu xem là nguồn thực phẩm quan trong nhất trong đời sống hàng ngày. Những năm trở lại đây nhờ được hướng dẫn và hỗ trợ con giống nên việc chăn nuôi gia súc, gia cầm của người Ơ Đu phát triển khá nhanh.
Người Ơ Đu tổ chức chọi gà vui tết Chăm Phtrong (ảnh Xuân Hòa).
Tết Chăm Phtrong nét văn hóa riêng còn sót lại của người Ơ Đu
Tết Chăm Phtrong được xem như phong tục riêng hiếm hoi còn sót lại của đồng bào Ơ Đu. Khoảng những năm 50 (thế kỷ XX) về trước đồng bào Ơ Đu khắp nơi thường tụ họp về Xốp Pột (Kim Đa, Tương Dương, Nghệ An) để vui hội Chăm Phtrong. Vì theo suy nghĩ của người Ơ Đu nơi đây chính là nơi vua Ơ Đu đã từng đóng đô.
Những ngày cuối năm 2014, chúng tôi may mắn được dự tết Chăm Phtrong của người Ơ Đu tại bản Văng Môn, xã Nga Mi, huyện Tương Dương. Người Ơ Đu thường tổ chức tết Chăm Phtrong hàng năm trước tết Nguyên đán một tháng. Tết Chăm Phtrong là ngày người Ơ Đu làm lễ để cúng thần sấm đầu năm. Theo người Ơ Đu thì đây là thời điểm có ngày xuất hiện tiếng sấm đầu tiên trong năm.
Đây là tập tục cổ xưa của dân tộc Ơ Đu với mong muốn một năm mưa thuận gió hòa để thuận lợi cho việc trồng trọt, săn bắt. Đối với tộc người Ơ Đu, lễ mừng tiếng sấm năm mới là ngày Tết lớn nhất trong năm nên cả làng bản Ơ Đu tổ chức rất long trọng, giết trâu, mổ lợn ăn uống linh đình…
Trong những ngày tết Chăm Phtrong, trên bàn thờ gia đình đồng bào Ơ Đu được trang trí rất cầu kỳ và rực rỡ sắc màu. Trong mỗi gia đình bàn thờ ma nhà và bàn thờ thổ công được trang hoàng lộng lẫy, sặc sỡ với các loại giấy ngũ sắc. Tuy nhiên, trên bàn thờ người Ơ Đu vào những ngày tết không bao giờ có sự xuất hiện của màu đỏ. Bởi người Ơ Đu rất sợ lửa nên theo quan niệm của họ luôn kiêng kị với màu đỏ.
Mỗi khi vào tết Chăm Phtrong mỗi gia đình người Ơ Đu đều phải chuẩn bị một con gà trống thiến. Con gà trống này sẽ được làm thịt để làm lễ cúng và cặp chân gà được giữ cẩn thận để xem chân gà. Đôi chân gà này sau khi cúng tổ tiên, các gia đình sẽ mang đến nhà cộng đồng nhờ những thầy mo giỏi nhất bản làm lễ thăm chân gà.
Theo quan niệm của người Ơ Đu việc xem chân gà đầu năm là để xem một năm mới có được no ấm, hạnh phúc hay không? Bởi cũng theo người Ơ Đu thì sau tiếng sấm đầu tiên trong năm con vật cất tiếng kêu đầu tiên là con gà. Vì vậy, gà được xem là linh vật thần sấm gửi gắm thông điệp những ngày đầu năm.
Ngoài ra trong lễ cúng Tết Chăm Phtrong, mỗi gia đình người Ơ Đu đều phải thịt một con lợn để cúng tổ tiên. Tùy vào điều kiện gia đình mà mổ con lợn to hay nhỏ. Khi mổ lợn, các gia đình Ơ Đu đều phải mời dân làng tới dự và uống rượu để ăn tết cùng. Đây được xem là dịp gia chủ cảm ơn bà con, hàng xóm trong bản làng đã giúp đỡ gia đình một năm vừa qua. Trong những ngày Tết Chăm Phtrong người Ơ Đu còn tổ chức các trò chơi vui năm mới như đánh khăng, chọi gụ, chọi gà, đi kà kheo….
Thường lễ Tết Chăm Phtrong của người Ơ Đu kéo dài từ 5 đến 7 ngày, cho đến khi mọi thủ tục cúng lễ thần sấm trong bản làng hoàn tất ngày tết Chăm Phtrong mới kết thúc. Ngoài ăn Tết Chăm Phtrong người Ơ Đu còn tổ chức ăn Tết Nguyên Đán, tổ chức lễ rước hồn lúa và ăn cơm mới như các dân tộc khác.
Những ngôi nhà của người Ơ Đu.
Kiến trúc ngôi nhà của người Ơ Đu, Nghệ An
Những ngôi nhà quay mặt vào núi, dựng theo chiều thẳng đứng chỉ có ở tộc người Ơ Đu (Nghệ An).
Nhà ở của người Ơ Đu ở Nghệ An đã thay đổi ít nhiều so với truyền thống trước đây, nhưng vẫn giữ được những nét khác biệt với các dân tộc xung quanh. Những ngôi nhà quay mặt vào núi, dựng theo chiều thẳng đứng. Ngay danh từ “nhà ở”, theo tiếng Ơ Đu là “dinh luồng tẳng”, đã phản ánh đặc trưng kiến trúc ngôi nhà truyền thống của dân tộc này. “Dinh” là nhà, “luồng” là chiều, “tẳng” là đứng.
Trước đây, nhà của người Ơ Đu không đặt ngang mà dọc lên đỉnh núi. Đặt dọc thì cột ở dưới bao giờ cũng phải dài hơn. “Dinh luồng tẳng”, là nhà dựng thẳng theo chiều dọc lên núi. Bà con thường dựng nhà rất nhỏ, theo kiểu nhà có 4 mái. Trong nhà có 2 bếp, một bếp gần cửa ra vào thường để nấu cơm cúng trong ngày lễ tết, bếp ở phía cuối nhà là nơi nấu ăn hàng ngày của gia đình. Bà con bảo, dù nhà gỗ hay bê tông cốt thép gì thì cũng phải theo phong tục của người Ơ Đu, vẫn phải theo lối kiến trúc “dinh luồng tẳng”.
Người Ơ Đu có những lễ nghi kiêng kị trong nhà như quan hệ giữa con dâu với những người nam giới trong gia đình nhà chồng khá kín kẽ, nghiêm ngặt. Điều này là một trong những khác biệt giữa người Ơ Đu với người Khơ Mú: – “Họ kiêng, tôi là bố chồng chẳng hạn, ít ngồi với con dâu. Khi có con cái, lâu lâu mới ngồi. Anh cả trong nhà cũng ít ngồi với em dâu”.
Nhà sàn của người Ơ Đu thường lợp tranh, 4 mái.
Nếu bạn vào nhà người Ơ Đu, hãy để ý bếp lửa và nơi thờ ma nhà của họ. Nhà người Ơ Đu, giống nhà người Khơ Mú, có 2 bếp. Người Ơ Đu, người Khơ Mú ở Nghệ An thường có 2 bếp, 1 bếp dành cho phụ nữ, 1 bếp dành cho đàn ông. Họ còn có 1 bếp nữa là bếp kiêng. Thường thì gian thờ ma nhà của người Khơ Mú là gian trong cùng, trong đấy có 1 bếp. Bếp ấy, lúc nào làm nhà lớn, còn gọi là làm nhà nhảy, người ta mổ trâu mổ bò đưa qua đầu hồi lên bếp ấy nấu, chứ không đưa lên cầu thang chính. Người Ơ Đu cũng vậy.
Nhưng nơi thờ tổ tiên của người Ơ Đu không phải là bếp thứ 3 như người Khơ Mú, mà là một gác nhỏ trên vách nhà sàn. Bàn thờ để trên vách như người Thái, nhưng hình thức bàn thờ thì khác. Người Ơ Đu không có bài vị, chỉ thờ một đời bố. Bố còn thì con không có bàn thờ. Bố mất đi thì con có bàn thờ. Nếu bố còn, đến Tết, cúng tổ tiên, con mang một mâm cỗ đến nhà bố để góp lễ.
Người Ơ Đu quan niệm, khi chết, linh hồn người chết, tức là ma nhà, vẫn quanh quẩn bên người thân, ảnh hưởng đến hoạt động của mọi người trong nhà. Vì vậy, phải thờ cúng tổ tiên, cầu mong tổ tiên phù hộ những điều tốt lành nhất cho con cháu.
Lý Thị Ninh (sưu tầm)