Lễ hội “Cà tảm mạn” là lễ gọi hồn hay còn gọi là lễ dậy hồn. Đây là loại hình tín ngưỡng dân gian không thể thiếu trong đời sống tinh thần của dân tộc Kháng.
Họ cho rằng, con người có 2 phần, phần hồn và phần xác luôn luôn gắn kết, giao hòa không thể tách rời. Khi người ốm, phần hồn rời khỏi xác và lưu lạc nơi rừng thiêng, nước độc, bị các thần cây, thần núi giữ lại. Từ đó, người Kháng thường làm lễ gọi hồn lưu lạc về nhập vào xác thì người ốm sẽ khỏi bệnh.
Chuyện xưa kể rằng: trong bản dân tộc Kháng có chàng trai tên là Ọi, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh và chăm làm nhất bản. Sau mùa làm nương, chàng bị ốm, ngày nào chàng Ọi cũng ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc, người chàng càng ngày càng gầy gò, da vàng, chân tay run rẩy, không cầm nổi con dao, cái cuốc. Đã hơn 3 tuần trăng sáng, lúa chín vàng trên nương, chàng uống đủ thứ lá rừng làm thuốc mà vẫn không khỏi bệnh. Biết chàng không còn sống được lâu, cha chàng bèn thịt gà và mời tất cả mọi người đến ăn cùng. Mỗi người bón cho chàng một miếng xôi cùng thịt gà và nói rằng “Đây là hồn cơm, hồn thịt của người khoẻ đem đến, ăn vào sẽ thành thuốc”, sau đó mọi người buộc vào tay chàng một sợi chỉ coi đó là sợi dây buộc phần hồn lưu lạc nhập vào chàng. Cũng từ ngày hôm đó chàng ăn được nhiều cơm, da chàng hồng hào trở lại, chàng khoẻ dần và đi làm nương cùng cha mẹ. Từ câu chuyện trên, trong bản có người ốm đều được làm lễ gọi hồn về. Đến nay, tại các bản của đồng bào dân tộc Kháng thường có một Pa Ả (thầy cúng) chuyên làm việc cúng lễ cho dân bản. Pa Ả đại diện cho dân bản để tiếp xúc với các thần linh, truyền lời khẩn cầu của người sống và cũng là người có uy tín, được dân bản tin và làm theo.
Từ lâu, quan niệm tín ngưỡng dân gian của dân tộc Kháng cho rằng: con người có 30 vía, 40 hồn phía trước, 50 hồn phía sau, trong đó có một hồn chính ở trên đầu, khi chết, hồn chính biến thành ma lành phù hộ con cháu, hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu vòi ăn. Người ta còn tin nhiều loại ma khác như ma suối, ma bản... Trong bài cúng dậy hồn có câu:
“Ba mươi vía, bốn mươi hồn phía trước còn lạc trong rừng
Năm mươi hồn phía sau còn vương ở suối
Hồn ở đâu hồn hãy về nhà
Hồn chớ la cà rừng xanh, chớ quẩn quanh rừng rậm...”
Lễ vật cúng hồn gồm có xôi, thịt gà, rượu, bánh kẹo, hoa quả. Tất cả được bày trên bàn thờ. Thầy mo mặc áo cúng, đội mũ, tay cầm quạt. Bên cạnh thầy mo còn có 2 mo pí, mỗi lần thầy mo cúng, mo pí thổi theo cùng với giai điệu hành khúc để phù hoạ cho lời cúng của thầy thêm linh thiêng:
“Hồn ở đâu, hồn hãy về nhà
Về nhà mới có anh và chị
Về nhà có cha và mẹ bón xôi
Nếu còn lạc ở nương
Nếu còn vương ở ngoài ruộng
Đã có xôi kèm cá
Đã có gà kèm rượu...”.
Thầy mo kể hết các hồn của người thân, cùng bà con dân bản chờ đón hồn lưu lạc trở về cùng ăn cơm:
Hú... ba mươi vía, bốn mươi hồn đằng trước
Năm mươi hồn đằng sau
Cùng nhau về cho khoẻ
Từ nay hồn ở nhà
Ở cùng cha, cùng mẹ
Để sớm mai lên nương
Để sớm hôm xuống ruộng
Hồn về rồi hồn ơi!
Hú... hồn về rồi”. Thầy mo cầm con gà đưa lên đầu, lên trán, lên vai, lấy một miếng xôi cúng và ít thịt gà, chấm rượu xoa vào hai thái dương cho người ốm, buộc chỉ vào cổ tay cho người ốm và nói:
Đã có chỉ buộc tay
Có dây buộc hồn...
Đi xa biết đường về
Đã có thần che nắng
Đã có thần che mưa...”
Tất cả những người thân trong nhà và bà con dân bản đến dự lễ cúng hồn làm theo thầy mo, mỗi người cầm một sợi chỉ buộc vào tay người ốm, lấy xôi. thịt gà bón cho người ốm ăn và nói:
“Ăn thịt gà ngọt lưỡi
Ăn thịt lợn ngọt môi
Hồn ăn, hồn ở nhà...”.
Sau đó mọi người cùng ăn thịt, uống rượu tại mâm lễ để mừng đón hồn về nhà và trống chiêng cùng nổi lên, con trai, con gái từng đôi múa Hưn mạy, Tăng bu cho đến thâu đêm, suốt sáng.
Người được cúng hồn được giải toả tâm lý để chống chọi với bệnh tật, đồng thời, lễ cúng hồn còn răn dạy con cháu biết đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển kinh tế xóa đói nghèo.
Long Chính Đức (sưu tàm)