Tổng số dân: 146.821 (2009)
Khu vực có số dân đáng kể: Miền bắc Việt Nam
Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Quảng Đông
Tôn giáo: Chủ yếu là Phật giáo đại thừa với Đạo giáo, một ít theo Kitô giáo
Người Sán Dìu là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Các tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy xẻ. Dân tộc này thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 126.237 người. Dân tộc Sán Dìu được tạo lập từ thời nhà Minh tại Quảng Đông, Trung Quốc, sau đó dần dần di chuyển đến Việt Nam. Mặc dù nói tiếng Quảng Đông và sử dụng chữ Hán, người Sán Dìu không được chính phủ Việt Nam phân loại là người Hoa.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở miền trung du các tỉnh Thái Nguyên,Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương (tổng cộng khoảng 97%). Một số di cư vàoTây Nguyên lập nghiệp, thành các làng hay sống rải rác tại các tỉnh thành khác.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Sán Dìu ở Việt Nam có dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Sán Dìu cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (44.131 người, chiếm 30,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Vĩnh Phúc (36.821 người, chiếm 25,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam),Bắc Giang (27.283 người), Quảng Ninh (17.946 người), Tuyên Quang (12.565 người), Hải Dương (1.872 người), Đồng Nai (850 người), Hà Nội (832 người), Lâm Đồng (662 người), Đắk Nông (617 người)[2]...
Các đặc điểm cơ bản
Tổ chức cộng đồng
Người Sán Dìu ở thành từng chòm xóm nhỏ.
Nhà cửa
Người Sán Dìu ở nhà đất. Nhà của dân tộc này không có những đặc trưng riêng. Có lẽ vì vậy mà người Sán Dìu đã tiếp thu mẫu nhà của người Kinh khá dễ dàng.
Trang phục
Trang phục của người Sán Dìu đã và đang đổi thay gần giống trang phục người Kinh. Phụ nữ Sán Dìu có tập quán ăn trầu và thường mang theo mình chiếc túi vải đựng trầu hình múi bưởi có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ, và kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp.
Cưới xin
Trong nhà, người chồng (cha) là chủ gia đình, con theo họ cha, con trai được thừa hưởng gia tài. Cha mẹ quyết định việc cưới gả cho con. Con trai con gái phải được xem số, so tuổi trước khi nên duyên vợ chồng.
Kinh tế
Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, có phần nương, soi, bãi. Thêm vào đó còn có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát v.v
Từ lâu đời, người Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt (không cần bánh lăn) dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ.
Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng. Ngoài ra họ còn hay uống rượu trong si
Ma chay
Người Sán Dìu địa tang có cải táng hay bốc mộ. Đến ngày Thanh Minh hàng năm thì tảo mộ. lễ tảo mộ thường là cá và cơm nếp (các loại cá trừ cá Rô phi). Ngoài ra có thể là thịt lơn, Gà luộc... Trong mỗi mộ phải có 1 bộ cờ dây (5 cờ) được làm từ giấy với đủ loại màu khác nhau. với những mộ của người là thầy cúng thì con hoặc cháu cắm thêm cờ tam giác.
Văn hóa
Thơ ca dân gian của người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (Soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc được họ ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co.
Bùi Tuấn (sưu tầm)