Biên Phòng - Đưa chúng tôi đến thăm bản người dân tộc Ngái, anh cán bộ văn hóa xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên phân trần rằng, bản thân anh cũng không rõ lắm về dân tộc này. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi hàng chục năm qua, giới nhân chủng học đã bàn cãi nát nước về dân tộc Ngái. Có người cho rằng, dân tộc Ngái chính là người Hoa,
hay một nhánh của người Hoa dựa trên những nét tương đồng về văn hóa cũng như phong tục.Một ngôi nhà của người dân tộc Ngái ở thôn Tam Thái.
Cho đến cuối những năm 70 của thế kỉ trước, qua những công trình nghiên cứu công phu của các nhà nghiên cứu đã định danh người dân tộc Ngái trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Đồng thời chỉ ra rằng, người dân tộc Ngái với người Hoa là 2 cộng đồng độc lập, khác biệt cả về ngôn ngữ, phương thức sản xuất…
Năm 1999, số dân của dân tộc Ngái là 4.841 người, gồm có các nhóm địa phương: Ngái Hắc Cá, Sín, Đản, Lê. Song tên gọi mà người Ngái ưa thích nhất là Sán Ngái, mang nghĩa là "người miền núi". Tên gọi ấy không chỉ mang hàm ý về địa hình nơi họ sinh sống, mà còn như lời khẳng định rằng, dân tộc mình là một trong những nhóm người có công khai phá, dựng xây nên các bản làng trên vùng cao của các địa phương có dân tộc Ngái trú chân. Cho tới năm 2009, bằng nhiều nguyên nhân khác nhau, dân số của cộng đồng này đã có sự sụt giảm đáng kể khi chỉ còn chưa đầy 1.500 người. Hiện diện ở Tam Thái có khoảng hơn 400 người, chiếm gần một nửa số người dân tộc Ngái ở Việt Nam. Nơi đây được ghi nhận là xóm người Ngái tập trung đông nhất, còn ở các địa phương khác, bà con sống xen kẽ với các dân tộc anh em xung quanh.
Cụ Hoa Huân năm nay đã 91 tuổi, nhưng cụ vẫn còn nhớ rất rõ cuộc di cư cùng gia đình từ Hà Cối, Quảng Ninh lên Thái Nguyên, khi đó cụ mới 11 tuổi. Thấm thoắt đã 80 năm! "Bố tôi sinh ra ở Trung Quốc, di cư sang Việt Nam. Tôi sinh ra ở Hà Cối. Năm tôi 11 tuổi thì bắt đầu đến Thái Nguyên. Không nhớ là đã đi bao nhiêu ngày, nhưng khi đến vùng đất này thì dừng lại, vì ở đây đất đai tươi tốt, lại có nhiều mỏ thép, dễ làm ăn" - Cụ Huân kể lại.
Núi Cái và núi Hột ở thôn Tam Thái đã đón những bước chân di cư từ biển về rừng ấy. Chúng tôi đến thăm nhà họ Trần, một trong ba dòng họ đầu tiên của người dân tộc Ngái đến khai phá và lập nghiệp ở đất này. Trao đổi với chúng tôi, anh Trần Văn Cường, chủ hộ, cho biết: Vào năm 1920, ba hộ người dân tộc Ngái thuộc ba dòng họ Thẩm, họ Trần và họ Lâm từ Hà Cối, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh về đây lập nghiệp, rồi kết hôn với người Sán Dìu và các tộc người khác để phát triển dần cho đến hôm nay.
Sự biến thiên của lịch sử cũng đã làm Tam Thái không còn giữ lại được không gian thôn bản đặc trưng của người dân tộc Ngái ngày nào. Xưa kia, ở đây hầu hết là nhà trình tường với hai dạng nhà chữ Điền và nhà chữ Môn, với các công trình phụ nằm dọc hai bên dành cho bếp, chuồng gia súc... nối tiếp nhau thành một vòng khép kín. Ở giữa là sân, giống như một cái giếng trời rộng và chỉ có một cửa ra vào. Vật liệu dùng để xây nhà là những viên gạch rất to, được làm từ đất trộn nhuyễn với rơm rồi đóng khuôn, phơi nỏ (khô).
Với kiểu kiến trúc đó cho thấy lối sống khép kín, độc lập của họ. Còn hiện hữu lúc này, dù không còn giữ được kiến trúc cũ, nhưng người dân tộc Ngái ở Tam Thái vẫn giữ kiểu nhà truyền thống là một tổ hợp gồm nhà chính để ở, nhà bếp và chuồng gia súc được xây dựng riêng biệt. Họ vẫn lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng hoặc ven biển, trên đảo. Cách bài trí trong nhà vẫn được người dân tộc Ngái gìn giữ theo lệ xưa với bàn thờ gia tiên, bàn thờ thổ công được đặt ngay trong gian chính ngôi nhà.
Với người anh em dân tộc Ngái, có thể nói, phong cách ẩm thực dưới góc nhìn văn hóa sẽ tiết lộ rất nhiều điều. Theo quan sát của chúng tôi, cách nấu cơm của người Ngái cũng không khác gì người Hà Nhì. Đây có lẽ là kiểu nấu cơm phổ biến của các dân tộc cư trú ở vùng Hoa Nam. Theo nhiều tài liệu dân tộc học, người Ngái ở Việt Nam có nguồn gốc từ người Hẹ hay Khách Gia ở Phúc Kiến, Quảng Đông di cư theo đường biển vào Quảng Ninh, Hải Phòng từ nhiều thế kỷ trước.
Theo phong cách ẩm thực Quảng Đông, một trong tám phong cách ẩm thực tiêu biểu Trung Quốc, thì thường nghiêng về các món chiên, rán và hầm. Phong cách ẩm thực của người Ngái cũng nghiêng mạnh về các món chiên, rán và hầm với nhiều dầu mỡ, mang đậm vị cay và ngọt.
Dẫu các bản làng dân tộc Ngái ở Tam Thái hay Lục Nam (Bắc Giang), Lục Hồn, Hà Cối (Quảng Ninh) đang ngày một neo người hơn do nhiều năm qua, dân số của dân tộc này không tăng, song các bản làng người Ngái vẫn khá khang trang, trù phú. Họ gieo trồng thời vụ theo mùa dựa vào kinh nghiệm truyền thống và những dấu hiệu thiên nhiên như tiếng chim, mùa hoa nở, lá cây rừng. Họ cũng rất sáng tạo trong việc đắp đập dẫn nước, làm hồ trữ nước cho mùa vụ. Họ cũng rất giỏi những nghề thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói... Tỷ lệ đói nghèo của dân tộc Ngái tại các địa phương thường chỉ trong khoảng 15 đến 20%.
Mặc dù ngày nay, người dân tộc Ngái không còn mặc trang phục truyền thống, nhưng theo lời cụ Hoa Huân thì trang phục của họ giống với người Hoa (Hán). Phụ nữ Ngái thường mặc áo 5 thân, cài khuy lệch về bên phải. Nam giới mặc áo màu chàm, có túi, quần lá tọa. Đồng bào cũng thường đan các loại mũ, nón làm từ mây tre, lá cọ để sử dụng lúc đi làm và che ô, quàng khăn vào những dịp quan trọng.
Coi trọng các hình thức phân chia gia đình, dòng họ cũng như các hình thái sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, người Ngái rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và các loại ''thần'', ''ma''... Các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên, thôn xóm nào cũng có đền, chùa. Đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của bà con, Trong các thôn xóm bao giờ cũng có một người trưởng tộc, có quyền quyết định, điều hành mọi việc lớn, nhỏ trong thôn.
Đồng bào Ngái chế biến món khâu nhục truyền thống.
Điều đáng mừng là, bà con ở Tam Thái vẫn còn sử dụng được tiếng dân tộc Ngái trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày cũng như trong các làn điệu dân ca, hát giao duyên, được gọi là Sường cô hay Xướng ca. Hình thức sinh hoạt văn hóa này khá lãng mạn, với những ca từ trong sáng, tình cảm và bao hàm nhiều nội dung răn dạy cách ứng xử, kinh nghiệm làm ăn.
Thậm chí, có thể ngẫu hứng sáng tác thêm lời mới cho Sường cô nên trai gái Ngái có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Kho tàng văn học dân gian cũng khá phong phú, nhiều trò chơi như múa sư tử, múa gậy, rồng rắn rất vui nhộn, song ngày nay, bà con ít sử dụng nên bị mai một nhiều.
Một giá trị văn hóa phi vật thể không thể không nhắc đến của người Ngái chính là lễ Kỳ Yên thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng sinh sôi, tươi tốt, mọi nhà, mọi người được bình an, vạn sự như ý… Lễ cúng độc đáo này được chuẩn bị khá cầu kì và đặc biệt không thể thiếu bức tranh Tam Thanh Ngọc đế (các vị thần linh), thanh la, tù và, dao...
Người chủ lễ mặc áo cà sa, đội mũ hòa thượng dẫn đầu một đoàn người từ 5 đến 10 thanh niên khỏe mạnh đi vòng quanh sân lễ theo hình bát quái, vừa đi vừa múa hát. Lời bài hát mang nội dung báo cáo với thần linh về kết quả sản xuất một năm qua của bà con dân tộc, cũng như mong cho một năm mới mọi nhà, mọi vật đều hưng thịnh. Nếu đến với Lục Nam vào những ngày đầu năm mới, bạn sẽ dễ dàng được chứng kiến lễ Kỳ Yên rộn ràng tiếng thanh la, tù và…
Chọn đất này làm quê hương đã qua ba thế kỷ, thế nhưng, mãi đến năm 1979, người dân tộc Ngái mới chính thức được công nhận là một dân tộc. Trên chặng đường thiên di của mình, trải qua nhiều biến cố lịch sử, có lúc, người dân tộc Ngái phải tự xóa nhòa mình vào nhiều cộng đồng dân tộc anh em. Thế nhưng, với những món ăn truyền thống mãi còn truyền đời, người dân tộc Ngái vẫn minh chứng cho sự hiện diện của mình trong đại gia đình 54 dân tộc anh em trên đất Việt.
Phạm Vân Anh (sưu tầm)