Hát then ( còn gọi là Lẩu then) là thể loại ca nhạc tín ngưỡng lâu đời của người Nùng. Nghi lễ hát then không chỉ thể hiện đời sống tâm linh phong phú, mà còn là sinh hoạt văn hoá văn nghệ độc đáo.
Theo tập tục từ xa xưa, mỗi khi trong cuộc sống gặp hiện tượng lạ không thể lý giải được đồng bào dân tộc Nùng thường tổ chức lễ cầu cúng, cầu mong cho gia đình được bình yên, may mắn, khỏe mạnh, làm ăn thuận lợi.
Để thực hiện nghi lễ này, đồng bào đều tìm đến bà then để được nghe bà then đàn hát. Bà then theo quan niệm xưa được ví như bà tiên trên trời với cây đàn tính trên tay gẩy những khúc nhạc, cất lên những lời ca theo mây theo gió vang đến tận trời xanh. Nhờ lời ca tiếng hát của mình, Bà Then đưa những nguyện ước đó đến với các đấng thần linh…để biến những lời cầu mong đó thành hiện thực. Theo thời gian, những nghi lễ hát then giống như buổi sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, trấn an tinh thần cho dân chúng.Thông thường các nghi lễ diễn ra trong 2 ngày đêm với nhiều nội dung như: Lễ cúng tổ tiên; lễ dọn đường cho các quan. Nghi lễ hát then bắt đầu cuộc hành trình lên mời Ngọc Hoàng và các sư phụ Then đã về với tiên tổ cùng về làm lễ "Lẩu then" với các phần lễ cúng mời, cúng dâng rượu, cúng trừ ma, cúng giải hạn, cúng cầu an rồi dần phát triển thêm các lễ cúng tổ tiên, cúng sinh nhật, cúng cầu an, cúng nhà mới...Trong các nghi lễ đó, hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin đáng thần linh giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ. Trong các nghi lễ đó, âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt với nhiều bài bản, làn điệu phù hợp với từng phần nghi lễ. Ông Hoàng Văn Páo, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian tỉnh Lạng Sơn, cho biết: Khi hát then bao giờ cũng có cây đàn Tính và cây quạt. Ban đầu nó chỉ mang yếu tố tâm tâm linh, cầu cúng để chữa bệnh. Nhưng sau đó vào năm 1956 thì hát then không chỉ phục vụ cho hoạt động tâm linh nữa, mà nó phát triển thành loại hình văn nghệ cộng đồng. Giờ đây có then cổ và then hiện đại. Hát then dựa trên nguyên lý chung, nghi lễ cuộc nào thì họ sáng tạo lối hát then theo cuộc đó.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, hát then đã trở thành loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian kể chuyện tín ngưỡng bằng âm nhạc vừa mang yếu tố tâm linh vừa mang yếu tố văn hoá nghệ thuật. Nghệ thuật hát then là sự tổng hoà nhiều môn nghệ thuật và phong tục như hát, múa, đàn... Ở khía cạnh tôn giáo đồng bào tin rằng: nghi lễ then và hát then có khả năng chữa bệnh, đen lại sự bình an, niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống. Ở khía cạnh nghệ thuật, hát then gắn liền với hình ảnh cây đàn Tính trở thành bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc.
Nghệ nhân truyền giảng hát then cho thế hệ sau.
Sau âm nhạc, câu chuyện của then là tình ca bất hủ của đồng bào phản ánh mọi mặt từ đời sống vật chất tới đời sống tinh thần, từ lịch sử đến tập tục sinh hoạt. Hiện nay, nghệ thuật hát then đã lan rộng ra khắp cộng đồng, trở thành tài sản âm nhạc quý báu trong kho tàng văn hoá nghệ thuật các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên mỗi dòng then ở mỗi vùng then lại có những làn điệu hát khác nhau, nhưng tựu chung đều chung âm hưởng then với giai điệu, lối hát tình tứ, lôi cuốn người nghe
Đi thăm mỗi bản làng các dân tộc Nùng ở tỉnh Lạng Sơn đều có thể bắt gặp, nghe những làn điệu hát then truyền thống. Hoà trong vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc, tiếng đàn Tính, những câu hát then của đồng bào như dìu dặt, hoà quện trong tiếng gió, tiếng xào xạc của lá rừng...Những làn điệu then càng tạo thêm vẻ yên bình, nét đẹp văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc nơi đây.
Tô Tuấn