Dân tộc Nùng ở Việt Nam có nhiều nhánh như: Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng Phản Sình, Nùng Chảo,Nùng Inh và Nùng Qui Rin…tuy nhiên cuộc sống và sinh hoạt của các nhóm dân tộc Nùng không có gì khác biệt, riêng trang phục có khác nhau đôi chút. Người Nùng ở Việt Nam đứng thứ 7/ 54 dân tộc anh em. Đời sống dân tộc Nùng đa dạng, phong phú và giàu bản sắc.Thường dân tộc Nùng tập trung sinh sống ở vùng núi phía Bắc một số khác ở tỉnh Đăk Lăk do người dân ở phía Bắc di cư vào.
Để dân tộc Nùng giữ gìn được ngôn ngữ, bản sắc văn hóa truyền thống lâu đời của họ thì Nhà nước cần có một cơ chế chính sách về kinh tế, bảo tồn nền văn hóa, trong đó có văn hóa tâm linh của dân tộc Nùng. Dưới đây xin giới thiệu một số nhóm dân tộc Nùng đặc trưng:Tộc người Nùng xuất hiện cách đây khoảng 300 năm, hầu hết người Nùng di cư từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang và có quan hệ với người Tày, người Choang dọc biên giới Việt - Trung. Theo số liệu điều tra thì người Nùng hiện có khoảng 1 triệu người sinh sống ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Đăk Lăk (do dân các tỉnh biên giới phía Bắc di cư vào những năm 1954 và sau chiến tranh Biên giới phái Bắc năm 1979). Một số nhóm người Nùng đặc trưng: Hiện có nhóm Nùng Giang, Nùng Inh, Nùng An và Nùng Phản Sình. Ngôn ngữ người Nùng cùng dòng ngôn ngữ của người Tày, Thái. Kinh tế: Người Nùng làm nương, rẫy, ruộng khe, ruộng bậc thang chủ yếu trồng ngô, lúa nương, lúa nước, mạch ba góc, đỗ tương. Cây công nghiệp có cây Hồi, Lai, Trẩu; do địa hình và khí hậu vùng núi nên người Nùng phát triển các loại cây ăn quả như: Hồng, Quít, Na. Nghề thủ công: hiện người Nùng vẫn duy trì nghề dệt thổ cẩm, nhuộm chàm, đan lát các loại: nón lá chít, cót, bồ, lồ (hình tròn và to bằng cái thúng của người Kinh đan bằng lạt giang) nghề rèn (dao, búa và cácloại nông cụ thô sơ), nghề làm giấy dó, làm hương, làm miến dong, đúc ngói âm dương…Nhà ở của người Nùng chủ yếu làm nhà sàn, nhà đất, nhà tường trình, nhà xây bằng bột đá đúc (to gấp đôi viên gạch) mái lợp gianh, lợp ngói âm dương, froximang. Các chòm nhà người Nùng đứng trong thung lũng, ven sườn núi, dọc theo khe nước gọi là bản, mỗi bản trên dưới chụcnóc nhà.Trang phục của một số nhóm người Nùng: Người Nùng Inh và Nùng An mặc áo chàm khuy vải tròn chéo từ cổ xuống nách phải, vạt dàiđến đầu gối, quần chân què, ống rộng, cạp rời, người Nùng Inh và Nùng An đeo tạp dề vải chàm thắt dây buộc ngang lưng (vì gùn), khi đeo tạp dề đàn bà dắt vạt áo vào thắt lưng cho gọn. Đàn ông cũng mặc quần áo chàm, áo khuy vải tròn, quần chân què ống rộng và dài đến cổ chân.Người Nùng Giang mặc áo vải xanh sĩ lâm cổ áo, tay áo viền vải đen, vạt áo che mông, khuy chéo từ cổ sang nách phải. Người Nùng Phản Sình mặc áo bà ba vải kẻ ô sặc sỡ. Đầu người Nùng Phản Sình, Nùng Giang đội khăn len vải kẻ màu; người Nùng Inh, Nùng An đầu đội khăn vải chàm (phụ nữ Nùng Inh và Nùng An thường nhuộm răng đen).Phong tục tập quán của người Nùng: Về ẩm thực: Người Nùng thường chế biến các món ăn bằng bột gạo, bột ngô, điển hình có món khau nhục ( cắt lát miếng khoai lang hoặc khoai tàu cỡ bốn ngón tay ốp vào miếng thịt lợn nửa nạc nửa mỡ được tẩm ướp đầy đủ gia vị rồi đem hấp chín) món ăn này thường chế biến trong các đám cưới, đám ma…Người Nùng có nền văn hóa khá phong phú: trong các đám cưới người Nùng uống rượu bằng thìa hát sli giang, hà lều…(từng đôi nghiêng tai vào nhau và hát đối thành hai bè cao, bè trầm) cuộc vui kéo dài thâu đêm.Hôn nhân của người Nùng: cũng giống như dân tộc Tày, nam nữ tự do tìm hiểu nhưng việc cưới xin phải do cha mẹ quyết định (xem vía hai người có hợp hay không mới cho cưới). Sau đám cưới cô dâu về nhà cha mẹ đẻ ở cho đến khi sắp sinh nở mới về nhà chồng. Tang lễ: Người Nùng đón thầy tào cúng ma tiễn hồn người chết về cõi âm cắt đứt linh hồn người chết với người còn sống, hàng năm người Nùng không cúng giỗ để tưởng nhớ người đã khuất như các tộc người khác. Sau khi ông, bà cha, mẹ mất, con trai trưởng trong gia đình hàng năm sẽ được con cháu tổ chức sinh nhật, họ hàng người thân nhớ ngày sinh mà tự giác đến chứ gia đình không mời. Người đến dự sinh nhật thường tặng quà như: tiền mặt, mảnh vải (may quần, áo) và các đồ vật khác. Nhìn chung cuộc sống của dân tộc Nùng đến nay vẫn còn gặp không ít khó khăn, nhiều nơi cái đói nghèo vẫn đeo đẳng. Do địa hình rừng núi hiểm trở lại sinh sống ở vùng cao hẻo lánh, dân tộc Nùng chưa nhận được sự quan tâm của Nhà nước so với các khác. Sau chiến tranh Biên giới 1979 rất nhiều bản người Nùng ở Cao Băng, Lạng Sơn, Yuyeen Quang… đã bỏ quê hương di cư vào Nam sinh sống. Tục lệ tảo hôn vẫn còn xảy ra một số nơi. Nhiều trẻ em bỏ học do gia đình không có khả năng cung cấp cho ăn học, có xã tỉ lệ học sinh Nùng tốt nghiệp cấp III chỉ đếm trên đầu ngón tay (Hà Quảng, Cao Bằng). Thanh niên rủ nhau đi làm cửu vạn vận chuyển hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam và ngược lại hoặc đi bốc vác, phụ hồ (lao động thời vụ). Phần do thất học dẫn đến thất nghiệp và không có vốn để làm ăn buôn bán, quanh năm đồng bào Nùng chỉ bám vào mảnh nương, khe ruộng để mưu sinh nên cái nghèo đói mãi đeo đẳng.
Để góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng tầm văn hoá tri thức cho đồng bào Nùng, Nhà nước cần có chính sách hợp lý, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi, cơ sở hạ tầng, đường, điện… ưu tiên cho các vùng hẻo lánh trong đó có người Nùng. Có như vậy mới giữ gìn được bản sắc truyền thống của dân tộc Nùng ở Việt Nam, mới tạo được lòng tin của đồng bào Nùng cũng như đồng bào dân tộc Thiểu số khác đối với Đảng và Nhà nước ta.
Nông Gia Khánh