Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Cơ Ho
Showing posts with label ₪ Dân tộc Cơ Ho. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Cơ Ho. Show all posts

Saturday, July 9, 2016

Trang phục người dân tộc Cơ Ho (Vi Văn Thành)

Trang phục phụ nữ Cơ Ho gồm: áo (áo kroh), váy, đồ trang sức, tấm choàng (xem ảnh 105), Do không còn nghề dệt vải và sáng gần người Mạ, nên y phục của phụ nữ Cơ Ho giống y phục cùa người Mạ chỉ có lên gọi khác nhau mà thôi.- Áo (áo kcroh) dệt bằng vải sợi bông màu trắng trên cài một số hoa văn.  Áo may kiểu có tròn, dài 81 cm, rộng 40 cm, trên dưới bằng nhau, vạt trước ngắn hơn vạt sau. Hoa vẫn trang trí chủ yếu là kiểu hoa văn của nguời Mạ, đó là hoa vân hình qua trám ở giữa cố hình cối giã gạo.
TRANG PHỤC TỘC NGƯỜI CƠ HO
Ngày nay phụ nữ dân tộc Cơ Ho ít sử dụng loạt áo này, thay vào đó họ mặc những loại áo như người Kinh.
      Váy (ùi bần) của phụ nữ Cơ Ho thuộc loại váy cuốn, dài l60 cm, rộng 95cm, màu xanh chàm, hai bên mép dệt hoa văn với các màu trắng, vàng, xanh. Hai mép váy thường để tua. Hoa văn trang trí chủ yếu trên váy là các đường kẻ song song, chấm trắng đường kẻ ngang, ô chấm, hình dây cột trâu, lá nón, hoa văn trên ống đựng tên, hình ché rượu cần, hình gốc cây tre làm chà gạc… Toàn bộ hoa văn trên váy của phụ nữ giới là hoa văn dội chứ không phải hoa văn thêu.
Khi mặc váy, họ thường bắt đầu quấn từ phía hông trái rồi quấn một vòng quanh thân, phần thừa gấp lại và gài vào bên hông phải. Loại váy này chỉ mặc trong các dịp cưới xin, lễ hội. Ngày thường họ mặc váy ít trang trí hoa văn.
- Chuỗi hạt (nhong ka long): Trong những năm gần đây, phụ nữ Cơ Ho sử dụng nhiều đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa tai… Ngoài những đồ trang sức bằng kim loại, phụ nữ Cơ Ho còn sử dụng đồ trang sức bằng nhựa. Đồ trang sức bằng nhựa thường là những hạt màu da cam, vàng, xanh được xâu lại thành chuỗi. Chuỗi hạt chủ yếu được nữ giới Cơ Ho sử dụng trong các ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc.


TRANG PHỤC NAM GIỚI CƠ HO
       Trang phục của nam giới người Cơ Ho ban đầu chỉ có khố, khăn quàng đầu và tấm choàng, thường cổ màu trắng và không có hoa văn.
- Tấm choàng (ùi nguếch) là một bộ phận của trang phục nam và nữ người Cơ Ho, thường dùng trong các dịp lễ tết, cúng thán hoặc những ngày tiết trời giá lạnh.
Tấm choàng có hình chữ nhật, dài 145cm, rộng 96cm nền 1 màu xanh chàm, mỗi tấm có 26 đường thêu chỉ màu trắng chạy theo chiều dọc. Hai mép dọc và hai mép ngang được trang trí hoa văn dệt với các màu trắng, xanh. Hai đầu tấm choàng có tua. Hoa văn trang tổ tiên tấm choàng là hình con mọt, mắt sâu. choé rượu cần, lá nón, hoa trên ống đựng tên…
      Khi sử dụng, tấm choàng được mở to quàng vào lưng dai đầu bắt chéo về phía trước, tấm choàng sẽ phu kín phần lưng và ngực của người sử dụng như một chiếc ấo ấm. Ban đêm nó còn dùng để đắp.

 Vi Văn Thành (sưu tầm)

Tết Nhô Lir Bông của người Cơ Ho (Ngọc Bé)

Người Cơ Ho là một trong các cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở phía Bắc tỉnh Đồng Nai. Theo số liệu thống kê năm 1999 người Cơ Ho có 720 nhân khẩu, xếp thứ 13 về dân số trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai. Bà con sống tập trung ở huyện Tân Phú (đông nhất là xóm Là Ủ, xã Phú Bình) và rải rác ở các huyện Long Khánh, Định Quán…

Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yàng) là thế lực phù hộ cho con người. Vị thần tối cao là Nđu, và còn có các vị thần như: thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ thường cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...).
Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Bên cạnh đó còn có lễ hội đâm trâu được tổ chức hàng năm. Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (Nho-sa-rơ-pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Vật đâm trâu là một loại giáo với hai bề lưỡi rất bén dùng đâm vào bên hông trái xuyên vào tim, già làng hoặc người cao tuổi sẽ là người đứng ra thực hiện nghi lễ đâm trâu này, xung quanh mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Sau đó, thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã tin theo những tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, người truyền đạo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.

 Ngọc Bé (sưu tầm)

Chuyện cổ tích: Chàng Cơ-Ho và Công Chúa Nai Tơ-Lúy (Trần Ninh)

Ngày ấy, trên những vùng núi Tây Nguyên bát ngát có những bộ tộc người sống thành những buôn làng.
Họ cùng nhau làm rẫy, làm ruộng, vào rừng săn bắn và xuống suối mò tôm cá. Đó là những con người hiền hòa, yêu ca hát hội hè, giỏi đan lát và dệt vải.
Nhưng rồi đến một ngày kia, có một ông vua dẫn quân lính đi từ vùng biển xá xôi đến vùng đất của dân tộc nọ để tìm ngà voi và sừng tê giác. Tên vua này vốn tham lam và tàn bạo. Nhìn thấy những bàn tay con gái khéo léo trỉa bắp, và dệt vải, những bàn tay con trai biết điều khiển voi và giương cây ná cứng, vua thấy trong lòng thèm khát.

Hắn ra lệnh cho quân lính bắt lấy những chàng trai mạnh nhất, những cô gái xinh đẹp nhất, đưa về làm nô lệ. Những buôn làng rủ nhau chạy trốn vào rừng sâu, hang đá. Nhưng cũng rất nhiều người bị giặc bắt, đành gạt nước mắt ra đi vĩnh viễn xa buôn làng thân yêu của mình.

Ở một buôn nọ có một chàng trai tên là Cơ-ho. Chàng đẹp trai, rất giỏi nghề săn bắn. Chàng có mái tóc gợn sóng và đáng đi kiêu hãnh. Đã biết bao nhiêu cô gái mơ ước được chàng yêu.

Hôm ấy, Cơ-ho đi săn trong rừng, vai vác một con hoẵng. Chàng chưa kịp hỏi xem có chuyện gì xảy ra với buôn làng, thì có một toán lính ập tới. Chúng chẳng để cho chàng nói năng gì, cứ hầm hầm trói chàng lại, đưa lên lưng ngựa rồi giải về kinh vua.

Vua thấy chàng trai khỏe đẹp thì lấy làm ưng ý lắm. Hắn bắt tất cả các nô lệ khác phải vào rừng, lên núi, nhưng riêng Cơ-ho được giữ lại để sai bảo việc trong nhà.

Nhà vua có một nàng công chúa rất xinh đẹp, tính tình dịu dàng khác hẳn anh vua cha. Tiếng nói của nàng mềm mại tha thiết. Mới gặp Cơ-ho nàng đã đem lòng yêu mến chàng. Nàng công chúa đó tên là Nai Tơ-luý. Cơ-ho cũng rất mê say nàng Nai Tơ-luý, vì chàng chưa gặp cô gái nào đẹp như thế bao giờ.

Nhà vua cưng con gái lắm, suốt ngày chỉ cho con ở trong cung cấm, chơi với bọn vũ nữ xinh đẹp. Từ hôm gặp Cơ-ho, nàng ngẩn ngơ buồn. Nàng rất muốn gặp Cơ-ho nhưng không dám làm trái ý vua cha. Một hôm, nàng xin vua cho nàng chạy ra chơi ngoài đồng cỏ, cho nàng trèo lên hái trái xoài trên cây xoài mọc bên bờ suối nhỏ. Nhưng nhà vua nghiêm khắc từ chối, vì vua sợ nhưng điều không hay xảy đến với nàng.

Nàng công chúa thèm ăn xoài chín quá. Có một lần vào buổi sáng khi tất cả còn đang ngủ say, nàng lẻn dậy, lẻn chạy ra ngoài đồng, lại lấy cớ rằng sợ, rủ Cơ-ho đi cùng. Hai người cùng chạy trên cánh đồng còn ướt đẫm sương.

Đến gốc cây xoài mọc bên bờ suối nhỏ, Nai Tơ-luý gọi:
- Ơ, Cơ-ho! Anh hãy trèo lên hái cho tôi trái xoài ngọt trên ngọn, trái xoài luôn nhận được những tia nắng và những giọt sương đầu tiên, cao ngang tầm cánh chim và nhìn được dòng sông để ra biển cả! Nhưng Cơ-ho không chịu trèo, chàng trả lời:
- Nàng Nai Tơ-luý! Tôi không biết trèo. Tôi chỉ hái được những trái xoài chua, những trái xoài mọc ra từ cành xoài bé nhỏ, rụt rè nhận những giọt sương và tia nắng muộn màng và chỉ nhìn xa không qua tầm cây lau cây lách!

Cuối cùng, nàng Nai Tơ-luý đành tự mình trèo lên cây xoài, và chàng Cơ-ho đứng dưới đất say mê ngắm nàng. Nàng Nai Tơ-luý thật là xinh đẹp, gương mặt nàng hồng hào rạng rỡ, như trái xoài chín, cổ tay nàng tròn trĩnh tự ngà voi! Bất ngờ nàng Nai Tơ-luý gọi:
Này anh Cơ-ho! Hãy nhặt dùm cho tôi trái xoài chín ngọt ngào này!

Nhưng Cơ-ho cứ mải ngắm nhìn nàng, chẳng để ý đến trái xoài nào cả. Rồi nàng công chúa tụt từ trên cành cao xuống đất. Nàng ngạc nhiên hỏi Cơ-ho:
- Trái xoài chín của tôi đâu rồi? Tôi đã gọi anh nhặt giùm tôi cơ mà!

Chàng Cơ-ho chẳng nói, cứ say mê ngắm nàng Nai Tơ-luý xinh đẹp. Công chúa thoạt đầu ngạc nhiên và cả hơi bực mình nữa, nhưng rồi nàng bẽn lẻn xấu hổ. Hai người vui chơi suốt ngày trên đồng cỏ và dưới gốc xoài, cho đến chiều tối mới rón rén trở về, chẳng ai biết cả. Nhưng không ngờ vì mải vui chơi, chàng Cơ-ho bỏ quên cái xà gạc của mình dưới gốc cây xoài. Về đến nhà chàng mới nhớ ra, nhưng trời tối quá không thể nào ra lấy lại được nữa.

Tối hôm ấy thấy vẻ khác lạ của hai người, vua liền gặng hỏi. Nhà vua lại càng ngạc nhiên khi không thấy Cơ-ho khoác xà gạc trên vai như mọi lần. Vua cứ gặng hỏi mãi, hết ngọt lại xẵng. Cuối cùng vì ngây thơ và thật thà quá, đôi trai gái đành thú nhận tất cả.

Nghe xong câu chuyện, vua đùng đùng nổi giận. Cả triều đình chưa bao giờ thấy như thế bao giờ. Vua cho điều đó là nhục nhã và xấu hổ, liền hạ lệnh cho quân lính trói hai người lại đem vào rừng sâu giết đi rồi đem hai quả tim về làm chứng. Hoàng hậu nước mắt chảy ròng ròng, cố khuyên chồng nguôi giận. Nhưng điều ấy chỉ làm cho nhà vua cáu tiết thêm. Vua sai lính giải hai người đi ngay đêm hôm đó.

Toán lính vừa đi khỏi, thì hoàng hậu nghĩ ra một kế, bà sai hai tên lính thân cận, dặn dò cẩn thận, rồi sai đắt hai con chó săn đuổi theo. Họ đuổi kịp toán lính, truyền lệnh của hoàng hậu thả đôi trai gái vào rừng, rồi giết hai con chó lấy tim đem về dâng vua. Nhà vua ngay đêm hôm ấy nhận được hai quả tim còn nóng hổi, mới bình tĩnh lại hối hận về việc làm nóng nảy của mình thì muộn rồi.

Còn Cơ-ho và nàng Nai Tơ-luý, chạy mãi trong rừng, quần áo bị gai rừng xé nát hết cả. Nàng công chúa mệt lả, Cơ-ho phải cõng nàng trên lưng chạy sâu mãi vào rừng, rồi một hôm, đôi trai gái đã đi suốt cả những cánh rừng, đến một đồng cỏ rộng. Ở ven rừng có một dòng suối chảy. Cơ-ho bảo nàng Nai Tơ-luý:
- Chúng ta dừng lại ở đây thôi! Đất ở đây đẹp quá. Chúng ta sẽ dựng chòi, làm rẫy, trỉa bắp nuôi nhau.

Sáng hôm sau, chàng Cơ-ho lên rừng phát rẫy. Những cây to bị chàng chặt đổ ầm ầm. Đến xế chiều thì khoảng rừng ngổn ngang. Rất hài lòng, chàng về nhà chuyện trò với vợ dự tính công việc ngày mai. Hai vợ chồng định mấy hôm nữa nắng lên thì đốt rẫy.

Nhưng, sáng hôm sau ra rẫy, chàng Cơ-ho sửng sốt vô cùng: trước mắt chàng, khoảng trống hôm qua ngổn ngang cây cối, hôm nay lại xanh tươi như không hề được phá bao giờ, chàng Cơ-ho chẳng nói chẳng rằng, lại tiếp tục phát rẫy. Cho đến chiều tối thì khoảng rừng lại ngỏn ngang cây đổ. Chàng Cơ-ho mệt nhoài, trở về chòi mà trong lòng chưa hết ngạc nhiên và phân vân. Hôm sau, chàng ra rẫy thật sớm, từ lúc còn tối mờ đất. Đến nơi, chàng ngẩn người ra; không còn nghi ngờ gì nữa, khoảng rừng vẫn còn y nguyên. Chàng lại ra sức đẵn cây cho đến chiều tối. Rồi Cơ-ho khoác xà gạc thủng thẳng ra về. Nhưng đến giữa rừng, chàng quay trở lại, núp vào một gốc cây thật lớn rình xem.

Đến nữa đêm vẫn không thấy động tĩnh gì, Cơ-ho đã bắt đầu chợp ngủ, thì bỗng giật mình nghe tiếng lao xao như tiếng suối đổ. Trăng sáng vằng vặc. Cơ-ho nhìn ra khoảng trống, thấy một bầy khỉ rất đông đang nhảy múa. Dẫn đầu bầy khỉ là một con khỉ già rất to lớn có một bộ râu dài bạc trắng. Chúng nhảy múa chán, rồi đến chỗ Cơ-ho ngồi. Con khỉ già ngồi trên một hòn đá, xung quanh là bầy khỉ con. Con khỉ già lên tiếng:
- Hãy yên lặng! Tao sẽ cho chúng mày thấy phép lạ của ta.

Vừa nói, con khỉ già vừa lẩm bẩm cầu khẩn, một tay nó cầm một chiếc mồng, tay kia vỗ nhẹ vào núm mồng. Tức thì tất cả cây cối trên trảng trống lại trở thành rừng rậm như chưa từng được phát bao giờ.

Đến lúc đó thì Cơ-ho tức giận quá không thể nhìn được nữa. Chàng vụt đứng dậy khỏi chỗ núp, túm bộ râu con khỉ già cột chặt vào gốc cây và kề xà gạc vào cổ nó:
- Đồ phá hoại khốn kiếp! Ta đã phát rẫy này suốt ngày. Ta phải giết mày để trị tội!

Con khỉ già hoảng sợ. Nó lạy lục van xin:
Hãy tha chết cho tôi! Tôi sẽ đem đến cho anh sáu chiếc chiêng đồng tiếng vang xa bảy ngọn núi.

Cơ-ho lắc đầu:
Bọn ta ở một mình giữa rừng, có hội hè đâu mà cần chiêng đồng hở khỉ!

Khỉ bèn bảo Cơ-ho:
- Vậy thì tôi sẽ đem đến cho anh chiếc ché quý đựng rượu cần, bên ngoài có hình những thớt voi ngà dài đang uống nước và bầy nai đuổi nhau bên suối.

Cơ-ho vẫn kiên quyết lắc đầu:
Tất cả những thứ đó đều không quý bằng công của ta đã bỏ ra. Ngày mai, lửa nhà ta sẽ ăn bộ râu dài của mày và than hồng nhà ta sẽ ăn thịt mày.

Khỉ run lên như cầy sấy, nó kêu lên:
Hãy khoan đã hỡi chàng trai sắt đá kia! Tôi se tặng anh chiếc mồng quý của tôi. Có nó, anh sẽ có tất cả, chỉ cần anh cầu khẩn và vỗ vào chiếc mồng.

Cơ-ho cầm lấy chiếc mồng. Nó cũng chẳng khác gì chiếc mồng bình thường, nho nhỏ. Chàng nói lên ước muốn trước tiên của mình:
- Ta muốn khu rừng này biến thành một đám rẫy vừa một tầm tên bắn, như đám rẫy ta định làm hôm trước!

Rồi chàng vỗ nhẹ vào núm mồng. Tức thì những cây gỗ to đổ xuống rầm rầm, những cây nhỏ như bị ai vừa mới phát, nằm la liệt, cả khu rừng rậm lại biến thành khoảng trống. Thấy chiếc mồng linh nghiệm, chàng liền giữ lời hứa, thả con khỉ vào rừng.

Sáng hôm sau, Cơ-ho về đến cái chòi đơn sơ của mình ở đồng cô. Nàng Nai Tơ-luý chạy ra đón chồng ở cửa rừng:
- Sao anh về muộn thế? Cả đêm qua em chờ mỏi mắt!

Cho trả lời:
- Hôm qua, anh mải dọn cây ở rẫy dưới. Lúc dừng tay thì trời đã tối mất rồi, anh đành ngủ lại trong rừng, hôm nay mới về được. Em hãy xuống suối múc nước về thổi cơm ăn đi! Anh đói lắm rồi.

Trong lúc nàng Nai Tơ-luý gùi những quả bầu ra suối lấy nước, thì Cơ-ho trở về chòi. Chàng cầm chiếc mồng và cầu khẩn:
- Ta muốn có một dãy nhà sàn dài lợp bằng lá rơsôi, muốn ở trong nhà có chiêng đồng ché quý để thờ cúng tổ tiên, muốn có trống bịt da hươu và sao bầu để làm vui cửa vui nhà, muốn có đàn trâu ăn hết cỏ một vạt đồi và cặp voi ngà dài cuốn vòi bên bến nước!

Lập tức chàng được như ý, Cơ-ho liền cầm mồng và cầu khấn thêm:
- Ta muốn đồng cỏ rậm này biến thành buôn làng có những chàng trai giỏi phát rẫy và săn bắn, những cô gái thạo dệt vải và biết nuôi con!

Khắp đồng cỏ rộng, mọc lên những ngôi nhà sàn lớn nhỏ có những nhà kho ăm ắp lúa bắp, có những bếp lửa cháy rừng rực, có tiếng khèn và những ché rượu cần uống say ngả. Nàng Nai Tơ-luý vừa gùi nước ở dưới suối lên, ngạc nhiên ngỡ mình nằm mơ:

- Ôi sao kỳ lạ thế này! Cái chòi nhỏ của tôi đâu rồi? Đường về chòi của tôi lối nào? Tôi đi lạc vào đâu thế nhỉ?
Nàng Nai Tơ-luý cứ ngạc nhiên, phân vân mãi bên bờ suối, cho đến lúc chàng Cơ-ho chạy ra, dắt nàng về nhà mình và kể rõ sự tình. Từ đó, chàng Cơ-ho và nàng Nai Tơ-luý sống bên nhau, no ấm và hạnh phúc. Vì chàng tốt bụng và tài giỏi nên cả buôn làng tôn chàng làm chủ làng và ai ai cũng mến phục chàng. Buôn làng của Cơ-ho ngày càng giàu có. Những đàn trâu, đàn bò của họ, khi uống nước làm đục cả dòng suối chảy qua làng.

Dòng suối ấy chảy mãi về vùng xuôi, tìm đường ra biển cả, chạy qua kinh đô nhà vua nọ. Một hôm, những toán nô lệ của nhà vua về tâu với vua rằng dòng suối đục quá, không thể nào uống nước được nữa. Nhà vua ngẫm nghĩ.

Lạ thật! Kinh đô của ta ở đây đã ba đời, có bao giờ dòng suối đục đâu. Chắc hẳn có những buôn làng mới dựng ở phía trên ngọn nước, đã làm vẩn đục dòng suối của ta. Ta phải cho lính đi theo dòng suối triệt hạ ngay buôn làng mới, và bắt tên chủ làng về đây hỏi tội.

Những toán lính của vua hùng hổ kéo đi, xuyên qua những cánh rừng già gai góc. Cho đến một sáng kia, chúng đến buôn làng của Cơ-ho, chúng rất ngạc nhiên vì thấy đấy là một buôn làng giàu có, đông đúc lạ thường. Bọn chúng nghênh ngang đi vào làng, quát hỏi những đứa trẻ chăn dê:

Bọn nhỏ kia! Hãy nói cho chúng ta rõ, đây là buôn làng nào và ai làm chủ làng này?
Bọn chăn dê trả lời:
Buôn làng của chúng tôi là buôn làng Cơ-ho và chủ làng của chúng tôi là Cơ-ho. Chàng Cơ-ho đang ở trong nhà sàn dài rộng với nàng Nai Tơ-luý.

Bọn lính hung hăng đến nhà Cơ-ho. Chúng thấy chàng Cơ-ho đang cùng với vợ uống rượu cần bên bếp lửa. Chúng ập đến định đốt nhà và bắt chàng đi. Nhưng chúng chưa kịp ra tay, thì Cơ-ho đã cầm lấy chiếc mồng thần linh. Cả bọn lính đứa đang trèo lên sàn thì trượt chân ngã gãy cổ, gãy chân, đứa đang cầm đuốc đốt nhà thì va đầu vào cột bươu đầu sứt trán. Cả bọn đau đớn khóc lóc ầm ĩ, bán sống bán chết chạy về tâu với vua:
Chúng tôi đã đến buôn làng của Cơ-ho, gặp những dân Cơ-ho, đã thấy Cơ-ho uống rượu với nàng Nai Tơ-luý. Chúng tôi chưa kịp đốt nhà và bắt Cơ-ho thì đã gặp tai hoạ và phải trở về.

Nhà vua nhớ lại chuyện cũ, nổi giận đùng đùng:
- Thằng nô lệ khốn kiếp và đứa con gái quên cả dòng giống tổ tiên vẫn còn sống ư? Hãy cưỡi những voi trận ra khỏi những vòng dây xích, hãy xua ngựa chiến ra khỏi chuồng! Tất cả quân lính hãy theo ta đến giết chúng, lấy những quả tim để tế thần!

Cả đám lính lần này và nhà vua cũng hung hăng chẳng khác gì những toán lính đi trước. Nhưng rồi, chiếc mồng linh thiêng lại làm cho quân lính bươu đầu, gãy cổ, bỏ cả voi, ngựa, giáo, mác và chạy thoát thân. Nhà vua bị ngã ngựa, bị giải tới gặp chủ làng, nhà vua nhìn thấy Cơ-ho và nàng Nai Tơ-luý xinh đẹp đang uống rượu cần bên bếp lửa. Còn Cơ-ho vừa thấy nhà vua, liền sai người nhà đem những chiêng đồng quý nhất xếp ra trước sân cho nhà vua đặt chân, lại sai mở những ché rượu cần lâu năm nhất say ngả say nghiêng, lại sai đâm một con trâu mộng sừng thẳng như cánh ná và chân to như cột nhà Cơ-ho làm cho nhà vua hết lo sợ và trở thành thân tín. Đến hôm sau, Cơ-ho còn sai người nhà đem tặng nhà vua những voi ngà, chiêng đồng và ché cổ, trước khi nhà vua từ giã trở về.

Ít lâu sau, nhà vua phần vì già yếu, phần vì ân hận đã hổ thẹn vì những hành vi trước đây của mình nên mắc bệnh nặng mà qua đời. Cơ-ho còn dạy cho buôn làng cách làm ruộng nước và dùng trâu cày ruộng. Nên ai ai cũng giàu có, ấm no, và biết ơn chàng. Người ta lấy tên chàng đặt cho tên buôn bàng, tên đất và cho tên dân tộc mình.

Trần Ninh (sưu tầm)

Nhà sàn – Kiến trúc độc đáo của dân tộc Cơ Ho, Lâm Đồng (Lý Hải Ninh)

Nhà sàn của dân tộc Cơ Ho (Lâm Đồng).

Ngày nay những mô hình nhà sàn cao đã có nhiều chuyển biến sang nhà sàn thấp, đến nhà trệt và mái làm bằng tôn rất là phổ biến trong buôn làng của người Cơ Ho (Lâm Đồng).
Dân tộc Cơ Ho là một trong 3 dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng. Họ sống chủ chủ yếu bằng canh tác lúa nước ở những thung lũng sâu, có lối sống tín ngưỡng thờ đa thần giáo như thần sông, thần núi, thần cây…

Trước đây, nhà sàn truyền thống, cổ xưa nhất của người dân tộc Cơ Ho được làm từ các loại vật liệu: tre, nứa, lá. Cột và các thanh gác sàn bằng gỗ tròn, vách và cửa làm bằng phên. Sàn gác một lớp cây lồ ô để tròn, bên trên trải lồ ô đập giập, mái lợp lá mây hoặc cỏ tranh kết tấm.

Đến giai đoạn cận đại người dân tộc Cơ Ho đã sớm chuyển từ nhà sàn bằng phên, tre, lá sang kiểu nhà sàn ván. Nhà sàn của người dân tộc Cơ Ho ở giai đoạn này vẫn sử dụng chủ yếu các vật liệu bằng loại gỗ tròn bóc vỏ (để làm cột, lan can, cầu thang), ván vách được làm bằng gỗ xẻ chưa có sự bào chuốt, mái vẫn lợp bằng lá mây kết tấm. Nó khác nhiều so với nhà sàn hiện đại của người dân tộc Cơ Ho mà hiện nay vào các buôn làng chúng ta vẫn còn bắt gặp. Nhà sàn hiện đại thì cột chủ yếu được làm bằng gỗ xẻ: Cột vuông, vì kèo, lan can, cầu thang cũng được làm bằng gỗ xẻ có góc cạnh, ván thưng buồng đã được bào chuốt và đặc biệt mái nhà đã được lợp tôn thay cho lá mây hoặc cỏ tranh.

Bước vào nhà của người dân tộc Cơ Ho sẽ thấy sát bên vách phải nhà là buồng bố mẹ, bên vách trái là buồng con gái. Phần không gian ở giữa nhà là nơi bài trí chính. Chính giữa nhà (sát vách trong) là bàn thờ để cúng Giàng. Sát vách dưới bàn thờ là một giàn chóe tròn và cồng chiêng. Bên dưới sàn để một hàng chóe lớn. Tiếp theo là bộ Nhồng Ôi và Jroong Klừng. Hai vật này được làm trong dịp cúng lúa mới và lễ ăn trâu. Cây nêu rượu cần được đặt ở giữa nhà cạnh bếp tiếp khách. Cây nêu được làm và trang trí rất công phu. Màu đen họ dùng than củi, màu đỏ họ dùng máu trâu bôi vào để mời gọi thần linh. Trên cây nêu trang trí hình chiêng, hình cối giã gạo, hình chim, chân cây nêu trang trí hình mặt người.

Không gian phòng tiếp khách trong ngôi nhà Sàn của người dân tộc Cơ Ho

Buồng cha mẹ thường được bài trí khá đơn giản. Trước đây họ chỉ trải chiếu nằm trên sàn, thường chiếu được trải nằm xong lại cuộn tròn gác treo bên vách. Tấm đắp, quần áo thì có một giàn lửng bằng lồ ô để gác lên. Ná và ống tên treo trên vách ngay đầu nằm của người đàn ông. Bởi họ cho rằng nếu để ở chỗ khác thì sẽ mất thiêng, không săn được thú rừng.

Người dân tộc Cơ Ho theo mẫu hệ nên chỉ có con gái mới ở với bố mẹ, sau khi trưởng thành người con gái chọn một chàng trai ưng ý và tổ chức “bắt chồng”: Mang lễ vật sang nhà trai làm đám cưới và đưa chàng trai về nhà ở hẳn cùng bố mẹ mình. Buồng của con gái cũng được bài trí tương tự như buồng của cha mẹ, ngoài ra còn có thêm vài vật dụng như chiếc gùi hoa, gùi có nắp để các đồ dùng riêng tư của cô gái.

Bếp khách thường được đặt ở xế bên trái cửa ra vào gần với cây nêu rượu cần, nó được dùng để sưởi ấm cho khách và cả nhà. Bếp khách cũng là không gian để tiếp khách, sinh hoạt hội tụ những người trong gia đình sau một ngày lao động mệt nhọc. Bếp nấu ăn thường được bố trí lùi sâu vào phía bên phải hoặc bên trái nhà cách xa không gian thiêng. Bên trên có giàn bếp bằng tre để hong thịt, thức ăn, hạt giống và các vật dụng cần hun khói như gùi, rổ, rá, cán xà gạt... Khi còn sinh hoạt chung trong nhà dài thì người Cơ Ho đặt cả bếp khách lẫn bếp nấu chung trong nhà ở nhưng khi tiến lên nhà sàn ván với từng gia đình riêng lẻ thì bếp nấu đã được chuyển ra nhà bếp ở bên hông nhà lớn.

Hiện nay trong các buôn làng của đồng bào dân tộc bản địa ở Lâm Đồng nói chung và người dân tộc Cơ Ho nói riêng, những ngôi nhà sàn truyền thống không còn nhiều. Đặc biệt cách bài trí bên trong cũng đã thay đổi cùng với những vật dụng mới do ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa và sự du nhập của các tôn giáo. Vì vậy, chính quyền địa phương cần sớm có những giải pháp cụ thể, thích hợp để bảo tồn những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc trong thời hiện đại để vừa có thể gìn giữ được bản sắc.
Lý Hải Ninh (sưu tầm)

Nghi lễ đặt tên cho con của người Cơ Ho, Lâm Đồng (Hoàng Thúy Vinh)

Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo, là một thành tố văn hóa, tôn giáo quan trọng liên quan đến các nghi lễ vòng đời của dân tộc Cơ Ho ở Lâm Đồng.
Theo thống kê hiện nay, người Cơ Ho có khoảng hơn 150.000 người tập trung ở các huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Di Linh của Lâm Đồng. Người Cơ Ho hiện nay vẫn còn lưu giữ được nhiều phong tục truyền thống độc đáo trong đó có “Lễ đặt tên cho con”.

Theo quan niệm của người Cơ Ho, việc làm lễ đặt tên cho con là một trong những nghi lễ rất quan trọng và cần thiết vì đứa trẻ sinh ra cần phải được các Yàng (thần linh) che chở phù hộ trong suốt cuộc đời. Bởi vậy, cứ sau khi sinh được 7 ngày là mọi người trong gia đình phải làm lễ đặt tên cho em bé.Và trong 7 ngày ở cữ của người mẹ, người Cơ Ho cho cắm một cành cây có gai dài khoảng chừng 1m bên ngoài vách nhà nơi gần bếp lửa – chỗ nằm của hai mẹ con vừa để ngăn ma, quỷ và vừa để báo hiệu trong nhà có người mới sinh không cho khách và người lạ vào nhà.
Để chuẩn bị cho nghi lễ đặt tên con, trước đó người cha và mọi người trong gia đình đã phải bỏ thời gian để đan một chiếc gùi hoa nhỏ xinh, cùng với bộ khung dệt vải hoặc rổ xúc cá nếu bà mẹ sinh con gái. Cũng có khi là một cái xà gạt (dao có cán đi rừng đặc trưng của người Tây Nguyên) và một cái ná (cung tên) nhỏ nếu đó là con trai.

Địa điểm tổ chức lễ, tại gian chính của nhà ngay trước bàn thờ. Lễ vật dâng cúng thần linh khá đơn giản không quá cầu kỳ, bao gồm: một chóe rượu cần, một con gà sống, một nhánh chuối, một quả trứng gà, một chén cơm và một chén đựng bộ lòng gà, một chén tiết gà (sau khi hiến sinh).

Bên cạnh đó, được bày thêm chiếc gùi, bộ khung dệt hoặc chiếc xà gạt, chiếc ná nhỏ đã được chuẩn bị từ trước (đây là những vật tượng trưng) để cầu mong thần linh ban cho con gái thì xinh đẹp, chăm chỉ, khéo tay; con trai thì được “dài chân, dài tay như con vượn, khỏe mạnh như con gấu, con hùm” để chinh phục núi rừng săn bắt thú, giỏi việc nương rẫy.

Người được mời tham gia buổi lễ gồm có ông cậu, già làng và bà mụ (bà đỡ), mẹ con mới sinh và bà con bên nội bên ngoại của em bé để làm chứng. Thường bố vợ là người đứng ra làm lễ cúng Yàng. Ông mặc áo, khố truyền thống, đầu đội khăn choàng, tay cầm một chiếc roi làm bằng mây rừng và lục lạc. Ngồi cạnh ông là người mẹ bế con và bà đỡ.

Trong lễ cúng, trước khi hiến sinh, người chủ cúng hai tay ôm con gà đưa lên ngang tầm mắt hướng thẳng lên bàn thờ và bắt đầu cầu khấn thần linh phù hộ cho đứa trẻ. Tất cả những người trong gia đình và họ hàng nội ngoại có mặt đều chắp tay và cầu nguyện cho đứa trẻ.

Ngay sau khi khấn xong, con gà được cắt tiết cho vào chén, còn lưỡi gà được moi ra, người cúng vừa khấn đọc tên đứa trẻ vừa cầm lưỡi gà nhúng vào rượu cần chọi lên bàn thờ từ 1 đến 3 lần cho đến khi lưỡi gà dính vào bàn thờ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tên của đứa trẻ cũng đã được thần linh chấp nhận. Sau đó, người ta lấy máu gà trong chén chấm lên trán đứa trẻ xin thần linh ban cho nó luôn mạnh khỏe và tới đây nghi lễ cũng được kết thúc.

Người Cơ Ho theo chế độ mẫu hệ nên con cái thường được đặt theo họ mẹ. Họ thường chọn tên của những người giỏi giang có tiếng tăm trong dòng họ, buôn làng để đặt tên cho con cháu. Họ cũng kiêng không lấy tên các thần linh để đặt cho con vì họ tin rằng những tên này sẽ mang đến tai họa, điềm dữ cho đứa trẻ trong suốt cuộc đời.

Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo của người Cơ Ho nói riêng và một số tộc người sống ở vùng Tây Nguyên nói chung. Đây cũng là một trong những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy.

Hoàng Thúy Vinh (sưu tầm)

Đặc sắc trang phục dân tộc Cơ Ho (Hoàng Minh Thắng)

Trải qua rất nhiều biến thiên của lịch sử, bộ trang phục truyền thống của dân tộc Cơ Ho vẫn còn bảo lưu được nhiều sắc thái văn hóa truyền thống...
Người Cơ Ho ngày xưa ăn mặc rất đơn giản: tất cả đều cởi trần, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khi vải còn khó tìm, họ đã dùng vỏ cây rừng ngâm cho hết nhựa, gấp đôi lại khoét cổ và ống tay khâu lại bằng dây mây để làm áo chống rét.

Người đàn ông đóng một chiếc khố dài từ 1,5 đến 2m, rộng và có hoa văn theo dải dọc, quấn vòng quanh bụng, luồn qua háng, để cho hai đầu khố qua phía trước và phía sau mông. Trong khi đó, phụ nữ thì mặc váy hở quấn quanh người một vòng và dắt cạp. Váy của họ thường màu đen bố cục hình dải màu trắng viền dọc tấm vải. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài.

Trong các buổi lễ cúng bái, người Cơ Ho thường diện trang sức là chuỗi cườm đeo ở cổ. Riêng thiếu nữ chưa chồng thêm vòng đồng đeo ở cổ tay cổ chân đến 25 chiếc, đến khi lấy chồng thì tháo bớt ra. Đàn ông khi đã có vợ vòng đồng thường xuyên đeo ở cổ tay. Ngoài ra, người Cơ Ho cổ còn cà răng căng tai, nhuộm răng.

Theo tục truyền thống, các cô gái Cơ Ho phải biết dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai. Tuy nhiên, nghề dệt vải nơi đây chỉ dừng lại ở mức không chuyên và chỉ làm trong thời gian rảnh rỗi.

Nguyên liệu dệt vải chủ yếu là sợi bông do đồng bào tự trồng, các loại cây phụ liệu được lấy từ núi rừng, ruộng rẫy. Màu nhuộm vải được bà con lấy từ các loại củ, quả, lá cây trong rừng như: Củ nghệ chế ra màu vàng, hạt quả cari còn gọi là quả nho để chế màu cam, vỏ và thân cây lốt tạo màu đỏ, lá cây drửm tạo màu xanh đậm, xanh dương, còn màu đỏ thì lấy từ loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi nhúng sợi vào.

Để màu nhuộm được bền, bao giờ trong dung dịch nước nhuộm sợi, bà con cùng hòa thêm bột vỏ sò và tro củ chuối. Khi dệt, người phụ nữ ngồi duỗi thẳng chân trên sàn, hai chân đạp và giữ chặt một thanh chủ của khung dệt (gọi là đưng- pong) và một thanh chủ khác được dùng dây móc vào lưng người dệt để cố định và kéo căng khung sợi. Các thanh khác tùy theo chức năng của chúng mà luồn rất khéo vào giữa giàn sợi...

Trên những tấm vải thổ cẩm của dân tộc Cơ Ho, nét độc đáo nhất chính là những họa tiết, hoa văn sinh động được người dệt gửi gắm bằng tất cả tâm hồn, tình cảm cũng như sự cảm nhận về thế giới tự nhiên, con người của mình.

Đó có thể là các loại hoa văn hình kỷ hà, người, các loài muông thú và các vật dụng quen thuộc, gần gũi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của bà con như: cầu thang nhà sàn, cổ nỏ, tua cây nêu, cán xà gạt, con thuyền, mắt chim công, đường ranh, lá đùng đình, cây chông, vầng trăng, con bọ chè, cườm chim cu

Hoàng Minh Thắng (sưu tầm).

Lễ hội của dân tộc Cơ Ho (Văn Đài)

Ngưi Cơ Ho là mt trong các cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở phía Bắc tỉnh Đồng Nai. Theo số liệu thống kê năm 1999 ngưi Cơ Ho có 720 nhân khẩu, xếp thứ 13 về dân số trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai. Bà con sống tập trung ở huyện Tân Phú (đông nhất là xóm Là Ủ, xã Phú Bình) và rải rác ở các huyện Long Khánh, Định Quán…

     Ngưi Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yàng) là thế lực phù hộ cho con người. Vị thần tối cao là Nđu, và còn có các vị thần như: thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ thường cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...).
Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, ngưi Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Bên cạnh đó còn có lễ hội đâm trâu đưc tổ chc hàng năm. Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (Nho-sa-rơ-pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Vật đâm trâu là một loại giáo với hai bề lưỡi rất bén dùng đâm vào bên hông trái xuyên vào tim, già làng hoặc người cao tuổi sẽ là người đứng ra thực hiện nghi lễ đâm trâu này, xung quanh mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Sau đó, thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...

Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã tin theo những tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, người truyền đạo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo     

Dân tộc Cơ Ho (Văn Đài)

Lễ dâng trâu tế thần của tộc người Cơ Ho, Bình Thuận
22 Tháng Giêng 2015
(Cinet – DTV) – Cứ 17 năm, người Cơ Ho, xã Đông Giang huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận) lại tổ chức lễ dâng trâu tế thần một lần, để tạ ơn thần mặt trời, thần lúa mẹ, tổ tiên… chi tiết»
Nhà sàn – Kiến trúc độc đáo của người Cơ Ho, Lâm Đồng

09 Tháng Bảy 2014
(Cinet – DTV) – Ngày nay những mô hình nhà sàn cao đã có nhiều chuyển biến sang nhà sàn thấp, đến nhà trệt và mái làm bằng tôn rất là phổ biến trong buôn làng của người Cơ Ho (Lâm Đồng). chi tiết»

Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho, Lâm Đồng
28 Tháng Tư 2014
(Cinet – DTV) - Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho (Lâm Đồng) là một trong những nghi lễ quan trọng nhất nhằm cúng tạ ơn Yàng sau những mùa thu hoạch, mừng vui của cả buôn làng… chi tiết»
Độc đáo Lễ cúng thần Lửa của người Cơ Ho

10 Tháng Giêng 2014
(Cinet – DTV) - Cũng như trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, lửa đã thắp sáng tâm linh của người Cơ Ho bằng những giá trị thiêng liêng của nó. Chính vì vậy, trong những dịp buôn làng mở hội, họ đều tổ chức lễ cúng gọi thần Lửa với những nghi thức đặc biệt thiêng liêng... chi tiết»
Nghi lễ đặt tên cho con của người Cơ Ho, Lâm Đồng

04 Tháng Bảy 2013
(Cinet – DTV) - Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo, là một thành tố văn hóa, tôn giáo quan trọng liên quan đến các nghi lễ vòng đời của dân tộc Cơ Ho ở Lâm Đồng.

Văn Đài (sưu tầm)

Tục "bắt" chồng lúc nửa đêm của người K'Ho (Minh Thái)

Đối với các cô gái người K'Ho ở Lâm Đồng chỉ cần ưng "cái bụng" anh chàng nào là nhờ họ hàng đến nhà trai chạm ngõ. Nếu chàng trai đồng ý, ngay trong đêm đó nhà gái sẽ nhanh chóng "bắt" chàng trai về cho con gái mình làm chồng. Tục "bắt" chồng được cộng đồng người K'Ho tuân thủ một cách vô thức và được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

"Bắt" chồng khi mùa xuân gõ cửa
Khi cái lạnh sâu cùng những cơn gió hanh của mùa đông tràn về cũng là lúc khắp các thôn bản của đồng bào K'Ho ở Tây Nguyên rộn rã bước vào mùa cưới - mùa bắt chồng. Với người K'Ho, mùa xuân gõ cửa cũng đồng nghĩa với niềm vui nhân đôi ùa tới từng bản làng, ngõ xóm. Anh K'Bảo, bí thư đoàn xã Tân Nghĩa, huyện Di Linh (Lâm Đồng) cho biết: "Cuộc "bắt" chồng của người K'Ho thường bắt đầu từ tháng giêng đến tháng tư hàng năm, trai gái ở các buôn làng Tây Nguyên bước vào mùa cưới vốn là mùa của những đôi uyên ương hạnh phúc. Thời điểm trên đồng nghĩa với mùa màng vừa xong, cánh đồng lúa đã khô cuống rạ, những trái cà-phê cuối cùng đã nằm yên vị ở góc nhà. Cũng nhân dịp này, các cô gái chàng trai có thời gian dành cho nhau những cuộc hẹn hò".

Thiếu nữ K'Ho thường "bắt" chồng vào những đêm mùa xuân.

Theo tục lệ người K'Ho, con gái là người làm chủ gia đình, còn con trai trở thành "con dâu" nhà người ta. Vì vậy, người K'Ho thường quý trọng con gái hơn con trai. Bước vào cái tuổi cặp kê con gái bắt đầu đi "bắt" chồng. Ông K'Ghiếp, nguyên già làng người K'Ho ở thôn Đồng Đò, (huyện Di Linh) nhớ lại: "Ngày trước trai gái không được tán tỉnh nhau, chỉ cần thấy ưng “cái bụng" anh chàng nào thì nhờ người biết cách ăn nói đến nhà trai hỏi xem họ có đồng ý lấy mình không? Việc hỏi chồng bắt buộc phải tiến hành vào ban đêm vì trong lúc này gia đình của nhà trai ở nhà đầy đủ nên dễ tiếp chuyện. Đi "bắt" chồng vào ban đêm cũng vì danh dự của cô gái, bởi lẽ nếu nhà trai không đồng ý thì cũng đỡ xấu hổ với những người trong buôn làng".
Cũng theo già làng K'Ghiếp, thủ tục "bắt" chồng của người K'Ho trước đây rất rườm rà với những hũ rượu cần lỉnh khỉnh, những chiếc khăn thổ cẩm đủ màu sắc do các cô gái tự tay dệt, 1-2 con trâu, một con lợn béo, một vòng đeo tay và một dây nhòng bằng đồng hoặc bạc. Sau đó, cô gái sẽ chọn một "đêm thiêng", cùng khoảng 10 người trong thân tộc lặng lẽ mang lễ sang nhà chàng trai. Thế nhưng hầu như 10 đám "bắt" chồng đều được cả 10. Bởi ngày đó, người con trai K'Ho không đòi hỏi quá nhiều tiền thách cưới. Dẫu tuân thủ chế độ mẫu hệ nhưng sau lễ cưới, người con gái vẫn phải ở lại làm dâu độ mười ngày trong khi chờ đợi lễ rước rể về cư trú vĩnh viễn bên gia đình mình.
Tục bắt chồng của người K'Ho thường diễn ra vào mùa xuân, và sau lễ hội mừng lúa mới (tháng giêng âm lịch). Vì đây, là khoảng thời gian nông nhàn nên rất nhiều cô gái "da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa" có nhiều cơ hội đi kiếm chồng. Dù đã có hai mặt con nhưng chị K'Miếu, (26 tuổi) ở thôn Đồng Đò, huyện Di Linh vẫn e thẹn, ngại ngùng kể với chúng tôi về cái đêm cả dòng họ kéo về nhà chị để chuẩn bị đến nhà trai làm lễ dạm hỏi. "Khi ông trời bắt đầu khuất sau núi, mọi người tất bật xếp những hũ rượu cần, khăn thổ cẩm và tiền để sang nhà trai thì mình lại lóng ngóng trong trang phục truyền thống ngồi đợi ở góc phòng. Mặc dù trong cái bụng đã thấu hiểu là "nó" thương mình, nhà nó chắc sẽ không từ chối lễ hỏi đơn sơ, nhưng K'Miếu vẫn hồi hộp lắm. Lần đầu tiên và cũng là duy nhất trong đời con gái, K'Miếu đi... "bắt" chồng".

Các thiếu nữ K'Ho bên điệu múa truyền thống của dân tộc mình.

“Cuộc đấu trí” trong lúc dạm hỏi
Theo tục lệ của người K'Ho ở Lâm Đồng, phụ nữ luôn là trụ cột chính trong gia đình gần như quyết định mọi vấn đề hệ trọng. Và ngay cả trong hôn nhân, họ cũng sẽ là người chủ động đi "bắt" chồng về nhà ăn ở với mình. 

Việc nhà trai từ chối cầu hôn này sẽ làm tổn thương danh dự của phía nhà gái, buộc nhà trai phải bồi thường danh dự bằng tiền hoặc sản vật trị giá từ 500.000 - 1.000.000 đồng. Nhà gái chỉ cầm vòng tay và nhòng về, toàn bộ số tiền trên sẽ dành cho mai mối. Khoảng một tuần sau, nhà gái cùng mai mối lại đến nhà trai đặt vấn đề "bắt" chồng cho con. Những lý lẽ thuyết phục nhất sẽ tiếp tục được hai bên đưa ra để đấu trí. Nếu nhà gái vẫn thua, nhà trai chưa chịu cho “bắt” chồng thì nhà trai lại phải nộp tiền bồi thường danh dự, trả lại vòng tay và nhòng về cho nhà gái.
Trong luật tục của người K'Ho, đối với con trai đang trong thời gian có người con gái săn hỏi "bắt" về làm chồng sẽ không được để ý đến người con gái khác. Và cũng không cho phép bất cứ người con gái nào đến đặt vấn đề “bắt” người con trai này về làm chồng. Một cô gái ở thôn Đồng Đò, xã Tân Nghĩa huyện Di Linh tiết lộ thêm: "Ở địa phương có nhiều đám hỏi kéo dài đến hai, ba tháng mà vẫn chưa thành công. Có nhiều cô vì chưa thể "bắt" được chồng "bắt" buộc phải đi tìm người con trai khác". Song, sau những lần bị “bắt” chồng không thành gia đình nhà trai tuy không bị mất con nhưng cũng thiệt hại nặng nề về tiền bạc và thời gian.
Ngày nay, tục cưới xin và "bắt" chồng của thiếu nữ K'Ho ít nhiều đã thay đổi theo thời gian, những nghi thức rườm rà gây bất lợi cho cả hai bên gia đình vẫn chưa được xóa bỏ. Nếu như trước kia, khi nhà gái đến xin "bắt" chồng, nhà trai thường thách cưới là trâu, bò heo... thì ngày nay họ sẽ thách cưới bằng tiền và vàng. Và hai bên gia đình sẽ giao ước vào mùa xuân tức mùa màng đã xong thì tổ chức đám cưới linh đình. Anh K'Bảo tâm sự: "Bây giờ, muốn “bắt” được chồng nhà gái phải có ít nhất hai cây vàng, trong khi đó còn chưa kể những lễ vật phụ khi mang sang nhà trai. Ngoài việc bố mẹ chồng được thách cưới, anh, em, chú, bác của chàng trai cũng có quyền yêu cầu nhà gái phải tặng cho mình vật phẩm để tỏ sự hiếu thảo".
Chính vì những thủ tục rườm rà nên nhiều cô gái K'Ho khi "bắt" được chồng về nhà thì chuồng trâu đã hết, bồ lúa, kho cà phê cũng cạn kiệt. Thậm chí, có gia đình phải đi vay nợ nhiều nơi để đáp ứng sự đòi hỏi của nhà trai. Tuy nhiên, những nghi thức "bắt" chồng xuất phát từ khởi thủy vốn đã được thời gian chứng minh là nét văn hóa đặc trưng của tộc người này thì ngày nay lại càng được người K'Ho ở Lâm Đồng vẫn tuân thủ, gìn giữ và trở thành luật tục, bất di bất dịch.

Minh Thái (sưu tầm)

Vài Nét khái quát về dân tộc Cơ Ho (Lâm Thanh Hiền)

Tên tự gọi: Cơ Ho.
Nhóm địa phương: Srê, Nộp ,Cơ Dòn, Chil, Lạt (Lạch) .  ( theo danh mục thành phần của các dân tộc thiểu số việt nam công bố năm 1979).
Dân số: khoảng 128.723 người (tháng 4/1999)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Dân tộc Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.

*Tộc danh : tộc danh Cơ ho và mỗi tên gọi nhóm địa phương nói trên đều mang những ý nghĩa riêng xác định :
- Cơ ho có nghĩa là người ở trên núi;
- Srê:người làm ruộng ;
- Nộp : người sống quanh núi Nộp và suối Nộp,có tục trồng cau và ăn trầu;
- Cơ Dòn :là người sống quanh suối Cơ Dòn, một con suối lớn nằm ở phía Namhuyện Lâm Hà ngày nay ;
- Chil là người sống trên núi cao,nơi có rừng già chỉ biết làm nương rẫy ;
- Lạt hay Lạch là người cư trú ven suối Lạt,noiỷ có nhiều lau lách,với các loại cây đặc trưng là cây lạt giống như cây mía.
Dân tộc Cơ Ho là cư dân sinh sống lâu đời ở cao nguyên Lâm Đồng,dọc theo quốc lộ số 20 từ phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh đi thành phố Đà Lạt.
Tổ tiên người Cơ Ho cư trú xen lẫn với: Mnông, Mạ nên ảnh hưởng giao hòa. Có những nhóm người Cơ Ho chúng ta mới gặp, khó phân biệt với Mnông,Mạ ,đây cũng là nét đặc trưng của người Cơ Ho.
Truyền thuyết của người Nộp cho rằng , vốn xưa các nhóm Cơ Ho chỉ là một, về sau mới chia dần ra , trong đó , người Nộp được coi là mẹ , Cơ Dòn được coi là cha, còn Srê là con (?)
Ngày nay có nhiều nhóm địa phương trong cộng đồng dân tộc Cơ Ho.
+ Nhóm Cơ Ho Srê :  là nhóm có dân số đông nhất. Họ có mặt ở hầu hết các huyện của tỉnh Lâm Đồng, tập trung nhất là ở Di Linh, một số sinh sống ở vùng sông Lũy thuộc tỉnh Thuận Hải.
+ Nhóm Cơ Ho Chil : Trước đây, họ sống rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu sông Krông Knô ,Krông Bung ,Bắc và Tây- Bắc cao nguyên Lang Biang. Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam , cư trú vùng Bắc và Đông- Bắc thành phố Đà Lạt, gần với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng,  Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
+ Nhóm Cơ Ho Lạt: cư trú tập trung ở xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Người Lạt có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho khác.
+ Nhóm Cơ Ho Nộp: cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số 6 từ Di Linh đi Phan Thiết. Do có quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú .


+ Nhóm Cơ Ho Cơ Dòn :cư trú ở miền núi phía Đông- Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Ở người Cơ Ho , ý thức về tộc người Cơ Ho chung dường như mờ nhạt , trong khi ý thức về các nhóm địa phương lại rất đậm nét. Trong tiếng Cơ Ho , thuật ngữ chỉ người được gọi là chau hay chor . Trong ngôn ngữ thường nhật , rất ít khi nghe các nhóm địa phương của dân tộc dùng thuật ngữ Chau Cơ ho để chỉ về mình , trong khi thuật ngữ Chau/chor + tên nhóm địa phương: chau Srê, chau Nộp…lại phổ biến.
Tuy vậy các nhóm địa phương Cơ ho đều chung sống với nhau rất đoàn kết và tạo thành nhóm Cơ Ho thống nhất.
Những lưu ý chung đối với khách khi “ nhập gia” của người Cơ Ho:
Bàn thờ là chốn linh thiêng nhất đối với mỗi gia đình người Cơ Ho. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa.  Giờ đây khi đặt chân vào nhà người Cơ Ho , chúng ta phải quan sát kỹ mới nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào, thì mới mong khỏi thất lễ với gia đình chủ.
Trâu là con vật tổ của người Cơ ho nói riêng, các dân tộc vùng Tây Nguyên nói chung. Chính vi vậy người khách đến nhà không thể không biết điều này.
Người Cơ Ho đi theo đạo Thiên Chúa và Tin Lành  cho nên cấm kỵ nhất là nói xấu trước mặt họ về hai đạo này. Và cũng rất “dễ lấy lòng” họ nếu ai biết về hai đạo này.
Đến thăm gia đình làm nghề rèn ban cũng nên chú ý:  họ rất kỵ đàn bà goá, phụ nữ có thai lần đầu đi ngang qua nơi làm việc vì sợ hư hại sản phẩm giữa chừng.
Người Cơ ho rất yêu quý chó, họ không bao giờ ăn thịt chó. Chính vì thế khi đến nhà người Cơ ho chung ta cũng nên “cư xử nhã nhặn” với những “chú cún”.

ĐỜI SỐNG KINH TẾ:
Kinh tế của người Cơ Ho chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Trồng trọt và chăn nuôi:
Ngành kinh tế chủ đạo của người Cơ Ho là trồng trọt.
Làm rẫy:
Nương rẫy chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống kinh tế của người Cơ Ho Chil,  người Cơ Ho Srê thiên về làm ruộng .
Rẫy là những mảnh đất trồng trọt bằng hoặc dốc do chặt cây , đốt rừng mà có,công cụ làm đất thô sơ, không có điều kiện thâm canh và làm thủy lợi , không sử dụng vĩnh viễn và liên tục , có thời gian bỏ hóa, từ du canh, luân canh đến du cư.
Ở tất cả các vùng, các nhóm, nương rẫy được thống nhất gọi là mir , một thuật ngữ chỉ rẫy thấy tồn tại ở nhiều dân tộc nói ngôn ngữ Môn-khơme khác thuộc Tây Nguyên như Ba Na, Mạ, Mnông.
Rẫy bao gôm nhiều loại khác nhau, phân biệt dựa trên những tiêu chí khác nhau. Lấy chất lượng rừng làm tiêu chí , có 3 loại rẫy: rẫy rừng già, được gọi là mir pri đămhay mir gốt, rẫy rừng thứ sinh 10 năm trở lên , được gọi là mir nem , rẫy rừng thứ sinh 5-7 năm , được gọi là mir ngăm , rẫy rừng non 3-5 năm gọi là mir ép, mir gợi hay mir t’pố. Trong 4 loại rẫy trên , người cơ ho ưa thích loại rẫy rừng thứ sinh 10 năm trở lên hơn cả vì loại rẫy này ít cỏ , dễ phát lại cho năng suất cao và ổn định. Rẫy rừng già tuy đất tốt nhưng lúa dễ bị lốp , cây lại to, mất nhiều công phát . rẫy rừng non ít tro lại nhiều cỏ , cho năng suất cây trồng thấp . Lấy chất đất và địa hình làm tiêu chí , có 3 loại rẫy khác nhau :rẫy phù sa nằm ở chỗ đất bằng trong thung lũng ( mir tie knang), rẫy đất ba dan nằm trên sườn đồi (mir tie dớ ) và rẫy đất mùn xám nằm ven sông suối (mir m’ut). Ngoài ra, còn phải kể tới loại rẫy bằng trên các Cao nguyên gọi là mir kơ.
Công cụ làm rẫy bao gồm rìu (sung , roắt) dùng cho đàn ông hạ cây to, dao bao gồm 2 loại :dao cán thẳng có móc ở đầu (huế,mơ ra) dùng cho phụ nữ và trẻ em chặt cành nhỏ, dao cán cong hình đầu chim , lưỡi song song với cán ( tgah, xà gạc )dùng để hạ cây nhỏ hay chặt cành to, gậy chọc lỗ (chmul coi), cuốc con (chi que) nạo cỏ (cau hnhat), gùi nhỏ trỉa lúa (kheo), gùi lớn vận chuyển lúa(sà pấc).
Quy trình làm rẫy bao gồm:chọn rẫy (đeo mir), phát rẫy (muih mir), đốt rẫy ( su psi mir), dọn rẫy (rơ đao mir), trỉa lúa (tuých coi), làm hàng rào rẫy (lơ pơ ga mir), làm cỏ (lơ hnhawts), thu hoạch (cách coi) .

Chọn rẫy:là công việc do người đàn ông đảm nhiệm , được tiến hành vào đầu tháng 12, sau khi thu hoạch xong. Người Cơ Ho Srê thường chọn đất gần nước, nơi rừng thứ sinh đã 8-10 năm tuổi trở lên, đất đồi có độ dốc tương đối vì trong vùng đó, hạ cây xong là cây có thể lăn ngay xuống hố không cần phải dọn rẫy. Bên cạnh đó, lúc lúa lên, làm cỏ dễ dàng, không phải khom lưng mệt nhọc. Sau khi chọn được đám đất ưng ý, người ta khẳng định quyền chiếm hữu bằng cách phát quang một khoảng rừng nhỏ rồi cắm trên đó một đoạn cây có 3 chạc phía trên .
Vào khoảng đầu tháng 2, người cơ ho bắt đầu phát rẫy. Phát rẫy là công đoạn vất vả và có nhiều điều phải kiêng cữ . Trước ngày đi phát rẫy, người đàn ông chủ nhà phải đoán điềm qua giấc mơ. Chẳng hạn, người cơ ho ở huyện bảo lâm mơ thấy tắm sông, nghịch cát, bế trẻ con hay không mơ gì thì là điềm tốt, sáng hôm sau có thể tiến hành phát rẫy. Nếu mơ thấy rụng răng, vỡ hàm, thối chân, thối tay, rụng tóc là điềm xấu, phải hoãn phát rẫy vào ngày khác. Trong suốt những ngày đi phát rẫy , nếu đi đường thấy con mang hay con cù lăn (một loại khỉ nhỏ, mắt to) chạy ngang qua trước mặt thì phải bỏ đám rẫy đang phát, chuyển sang chọn và phát đám rẫy khác. Việc phát rẫy tuân thủ sự phân công theo giới chặt chẽ : đàn ông dùng rìu và xà gạc chặt cây đằng trước, phụ nữ và trẻ em dùng dao có móc ở đầu phát bụi cây nhỏ và chặt cành ra khỏi cây to đã đổ phía sau. Rẫy được phát từ chỗ thấp lên chỗ cao để dễ lựa chiều cho cây dễ đổ. Với những cây quá to, người ta chỉ chặt sâu một đường quanh cây để cây khô chết dần.
Sau khi phát xong , người ta dọn một đường biên xung quanh để sau này đốt lửa khỏi cháy lan vào rừng. Thời gian phát rẫy thường kéo dài trên dưới một tháng , dưới trời nắng nóng nên rất vất vả và mệt nhọc.
Rẫy phát xong được phơi khô khoảng một tháng đến một tháng rưỡi thì đốt để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Việc châm  lửa đốt rẫy là do đàn ông đảm nhiệm , nhưng việc đốt rẫy nói chung lại đòi hỏi có sự tham gia của cả gia đình , thậm chí vài gia đình đổi công cho nhau vì lý do canh chừng lửa cháy lan ra rừng. xưa kia, lửa đốt nương rẫy thường là lửa tự nhiên :người ta lấy hai cục đá trắng (nụ sa ngau) đánh cho lửa truyền vào bùi nhùi làm từ đọt cây mây(go sung) phơi khô. Rẫy được đốt từ nhiều điểm xung quanh cho cháy vào giữa, tránh chỉ đốt xuôi theo chiều gió dễ gây cháy rừng . khi lửa đã bén rẫy, các thành viên trong gia đình hay trong nhóm gia đình chia nhau đi xung quanh để canh chừng lửa và dùng cành lá dập những chỗ lửa cháy lan ra ngoài.
Công việc dọn rẫy được tiến hành một ngày sau khi đốt rẫy . Người ta dọn những thân cây cháy dở thành một số đống rồi đốt lại . Những thân cây quá to , xét ra khó cháy hết, được vần ra xung quanh rẫy. những thân cây này sẽ nhanh chong bị mục nát dưới tác dụng của nhiệt độ và ẩm độ cao vùng nhiệt đới. Công đoạn dọn rẫy bao gồm việc dùng cành lá san tro trên mặt rẫy cho đều khắp. khoảng đầu tháng năm khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống , người cơ ho tiến hành trỉa rẫy. Việc gieo trỉa thường được làm tập thể giữa các hộ gia đình với nhau theo lối vần công, đổi công. cách thức gieo trỉa là chọc lỗ bỏ hạt . công cụ chọc lỗ là cây gậy cao 1,8-2m , làm từ cây le hay cây gỗ rừng . Nếu là gậy làm từ gỗ rừng thì đầu gậy được vót nhọn vào giữa, nếu là gậy chế từ cây le thì đầu gậy được đẽo vát móng lợn. Hạt giống ngô,lúa và bầu , bí được trộn lẫn và gieo chung trong mỗi hố. Giống các loại cây trồng còn lại được gieo riêng. Khi gieo trỉa , đàn ông dàn hàng ngang, hai tay hai gậy chọc lỗ đằng trước, phụ nữ dàn hàng ngang trỉa đằng sau. Hạt giống đựng trong ống nứa to cầm tay trái, hay trong gùi nhỏ đeo ngang hông. Khi gieo, tay trái cầm ống hạt giống hay lấy hạt giống trong gùi hay dùng các ngón tay phải đổ ra tay trái, tay trái bỏ hạt giống vào hố, sau đó tay phải dùng ống hạt giống khẽ lấp đất để chống nắng và chống chim ăn. Trên mỗi đám rẫy, các cây trồng được bố trí theo những nguyên tắc nhất định. thường thì lúa ,ngô,bấu,bí được gieo ở giữa, bao xung quanh là bo bo,sắn,ngoài cùng là thuốc lá, bông dệt vải và các loại cây ăn quả như : chuối, dứa ,mía. Đôi khi cây bông và câuy thuốc lá được gieo thành đám riêng ở mỗi góc rẫy. việc gieo trỉa được tiến hành ngang theo sườn rẫy, từ chỗ thấp lên chỗ cao. Trên rẫy, người Cơ ho đa canh nhiều loại cây khác nhau,trong đó lúa là cây trồng chính. Riêng ở người Chil , cây trồng chính lại là ngô, thứ đến mới là lúa.
Sau khi trỉa xong vài ngày, để chống thú rừng và gia súc phá hoại, người Cơ ho tiến hành làm hành rào rẫy để chống phá thú rừng và gia súc phá hoại. Cùng với việc làm rào, trên mỗi đám rẫy người Cơ ho làm một nhà rẫy để tiện nghỉ ngơi và bảo vệ rẫy khi sắp dến mùa thu hoạch. Tiếp theo là làm cỏ rẫy. Dụng cụ làm cỏ là chiếc nạo giống con dao cong cắm vào chuôi bằng gỗ.
Thu hoạch là công việc cuối cùng của chu kỳ canh tác rẫy. Ngô được thu hoạch sớm vào đầu tháng 9,lúa được thu hoạch sau, bắt đầu từ cuối tháng 10,kết thúc vào giữa tháng 11.
Mỗi gia đình Cơ ho xưa đều chọn rẫy và làm rẫy trong khu vực thuộc ranh giới của làng mình. Ranh giới của mỗi làng là một đường khép kín , được xác định bởi các cột mốc giới tự nhiên như ngọn núi, dòng sông hay quả đồi. người làng này muốn qua làng khác phát rẫy phải xin phép và được sự đồng ý của làng sở tại, kèm theo việc nộp cho làng sở tại một ché rượu , một con gà, gọi là khạ sa p’ri. Mỗi làng đều có một khu rừng đầu nguồn nằm ở phía trên cao , nơi cấm mọi hành vi phá rừng làm rẫy,tiếng Cơ ho gọi là bri pơ can yang pang mú , hiểu nôm na là rừng thiêng, rừng thuộc về ông bà.
Tập quán trước kia là làm nương rẫy theo chu kỳ khép kín, trồng 2 năm bỏ hóa 10 năm hay 15 năm rồi trồng lại.
Đất đai canh tác thuộc quyền sở hữu của làng, việc bố trí thêm đất canh tác cho những hộ bị thiếu đất là thuộc quyền của làng. Chủ làng vừa là chủ đất vừa là chủ rừng.
Địa hình của nơi người Cơ Ho Srê ở Tà Nung sinh sống có dạng lòng chảo, chung quanh là núi đồi, giữa là đất bằng, ruộng, suối... Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm rẫy theo mô hình: định canh luân khoảnh.  Bình quân một cặp vợ chồng canh tác từ 0,5-1 ha.  Một mẫu thu hoạch từ 800 đến 1.000 kg/ha (tương ứng gần 100 gùi).
Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác.Tuy nhiên,ở một vài điểm cư trú tập trung của người Chil,do tình trạng đất rừng bị cằn cỗi dần hoặc trở lên hiếm vì nhiều làng phải sống chung một chỗ nên họ đã tạo ra một loại rẫy khác,canh tác cố định,làm đất bằng cuốc hoặc cày và có bón phân. Người ta tạo ra loại rẫy này bằng cách chọn 1 rẫy cũ, đào hết gốc cây còn lại từ lúc phát làm rẫy,sau đó đốt cây và làm sạch cỏ. Sau đó cũng  làm những công đoạn như làm một rẫy bình thường.
Người Cơ Ho làm rẫy được làm theo chu kỳ một năm, mỗi chu kỳ bắt đầu từ việc chọn rẫy, chọc lỗ tra hạt, cho đến khi thu hoạch. Nhóm Chil để chọc lỗ tra hạt còn dùng một dụng cụ riêng là:P’hal. P’hal có cán dài bằng gỗ, lưỡi dẹp bằng sắt khoảng 28cm và rộng khoảng 3-4cm, được dùng trong trường hợp một người vừa chọc lỗ vừa tra hạt. ở vùng người Srê, công cụ làm đất đặc trưng là chiếc cày (ngal) bằng gỗ, đế bằng , lưỡi gỗ(sau này là lưỡi sắt) và cái bừa răng gỗ(sơkam). .
Rẫy của người Cơ Ho là đa canh. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu nhưng  trên đoạn rẫy người ta cũng tận dụng đất và còn trồng lẫn cả ngô,sắn,bầu,bí,mướp,đậu…

Làm ruộng:
Ngoài nương rẫy , người Cơ ho còn làm ruộng nước.
Ruộng nước là loại đất trồng trọt được be bờ giữ nước , lại được tưới tiêu nhân tạo ,tùy theo địa hình ở vùng chân núi ,thung lũng hoặc đồng bằng bởi các hệ thống thủy lợi to nhỏ khác nhau.
Người Cơ Ho Srê tự gọi mình là cau Kơho Srê (người Cơ Ho làm ruộng nước,từ “Srê” trong tiếng Cơ Ho có nghĩa là “ruộng”) và người Srê thì sinh sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng nước. các truyền thuyết và chuyện kể của nhóm này cho thấy  họ làm ruộng là do học hỏi người Chăm.có hai nguyên nhân dẫn đến ruộng nước phát triển ở người Srê . thứ nhát là do sớm tiếp xúc với người Chăm , thứ hai , quan trọng hơn, do vùng cư trú có nhiều thung lũng , sẵn nước và tương đối bằng phẳng. Nói đến ruộng của người Cơ Ho Srê ta thấy họ có 2 loại ruộng. Sự phân biệt này dựa vào địa thế của ruộng đó là srê lơngơn nằm ở địa hình thấp, gần sông suối luôn luôn  có nước;  srê đang nằm ở vị trí cao hơn, có nước khi nào mưa hoặc khi nào có nước lớn tháo vào.phương pháp làm ruộng nước của người Srê chịu ảnh hưởng nhiều của phương pháp làm ruộng nước của người Chăm , thể hiện ở kỹ thuật sạ thẳng chứ không làm mạ cấy , ở việc dùng cày bừa đôi bằng sức kéo của trâu ,bò…
Cũng như với nương rẫy , do tín ngưỡng thờ thần lúa , sợ bẩn đất , thần lúa giận mà làm mất mùa , người Srê không dùng phân chuồng bón ruộng mặc dù vậy độ phì nhiêu của ruộng ít suy giảm do chất mùn trên cao xung quanh trôi xuống mỗi mùa mưa đến , cũng như do tập quán dùng phân xanh vùi xuống mặt ruộng sau lần làm ruộng thứ nhất. do được gieo thẳng, lúa mọc dày , người Srê chỉ nhổ cỏ qua loa bằng tay chứ không viện đến các công cụ làm cỏ . khác với lúa rẫy, trên lúa ruộng, người Srê cắt lúa bằng chiếc liềm , là nông cụ gốc Chăm , gióng con dao bẻ cong, chuôi gỗ.lúa được cắt xong , không lượm , được ôm lên bờ rải thành đám tròn rồi cho trâu dẫm xung quanh . thông thường mỗi đống lúa được sử dụng đàn trâu 4 hoặc 6 con . thời gian để trâu quần sạch một đám lúa từ 3-4 giờ đồng hồ. để giữ cho thóc sạch , người ta chọn chỗ đất cao, cứng ,bằng phẳng, khô ráo và lót phên nứa ở dưới rồi rải lúa lên , sau đó mới cho trâu quần. khi trâu quần xong, thóc được rũ khỏi rơm và cho vào những chiếc nong to, được làm sạch và phơi trên những tấm phên lớn đan từ lồ ô hay nứa.
Do đất thâm canh và định canh , khác với đất rẫy du canh , ruộng nước trở thành tài sản trao đổi có giá trị. Diện tích lớn nhỏ của một đám ruộng được tính bằng số gùi lúa giống gieo trên đám ruộng đó. Người Srê có câu sre đun spo pdam rpu (ruộng một gùi lúa giống bán năm trâu). Ruộng nước cũng là tài sản thừa kế quan trọng cho con cái khi lấy vợ , lấy chồng hoặc tách ra ở riêng.
Trong truyền thống , hai nhóm Lạt và Chil có lẽ là những nhóm ít làm hoặc không làm ruộng nước, nhất là nhóm Chil , một nhóm có thói quen chỉ du canh du cư trên núi cao.
Thời xa x­ưa, kỹ thuật canh tác chủ yếu là canh tác đao canh thủy nậu :là hình thức trồng lúa nước trên những mảnh đất luôn luôn ngập nước ở chân núi, trong các khe thung lũng hẹp, cũng như tại các vùng lầy trũng thuộc châu thổ đồng bằng còn đang định hình.
 chọn vùng sình lầy để trồng lúa, suốt lúa bằng tay. Dần dần, các dụng cụ được cải tiến: cày gỗ, cuốc, chuyển lên cày sắt, dùng sức kéo của trâu .Đặc biệt có nhóm Chil,Nộp là biết sử dụng trâu quần ruộng trũng cho đất tơi ra để gieo hạt, ngoài ra họ còn biết dùng sức trâu kéo có con lăn gạt san mặt ruộng và gặt lúa bằng liềm.

Đặc biệt có nhóm: Srê,Lạt đã biết làm ruộng nước,có trình độ kỹ thuật canh tác tương đối cao với các hệ thống mương ,phai dẫn nước tưới tiêu cho đồng ruộng hợp lý, hiệu quả. Ở những nhóm Cơ Ho làm ruộng nước họ không gieo mạ , hạt giống được gieo trực tiếp xuống chân ruộng , giống người Việt ở một số vùng Nam Bộ trước đây. Sau này một số nhóm đã thuần thục được rẫy , chuyển thành ruộng khô trồng lúa được nhiều năm.
Cuốc, cày , bừa… là công cụ lao động chủ yếu , có vị trí gần như là dộc tôn trong việc làm đất, vì người ta có tục coi con trâu là vật tế thần, không dùng để cày bừa. người ta còn nói rằng : “ sau ngày giải phóng , hiện tượng đồng bào đứng khóc thương con trâu (hay bò) hiền lành phải lao động cực khổ, vất vả là phổ biến”. do đó vận động làm thay đổi quan niệm đó không phải là dễ.
Những kinh nghiệm xem thời tiết qua kỳ sinh trưởng của động vật được truyền lại từ thời kỳ làm rẫy, cách xem sao, kỹ thuật làm đất (cày ải, phơi ải), làm thủy lợi   tưới tiêu thuận tiện, ngâm giống trước khi sạ, dùng phân bón,… đã chứng tỏ sự thành thục của họ trong việc trồng lúa nước ở một trình độ nhất định.
Chăn nuôi:
Hoạt động chăn nuôi đã có từ lâu ở người Cơ Ho.
Song song với ngành trồng trọt, người Cơ Ho còn chăn nuôi trâu, lợn, chó, dê, gà, vịt và sau này bò. Trâu là gia súc đứng đầu bảng trước đây,đóng vai trò quan trọng, trâu không chỉ để giết thịt trong những lễ hiến sinh, mà còn là sức kéo và vật định giá trong buôn bán, là tiêu chí phản ánh sự giàu có và uy thế của làng. Xưa kia do đất rộng , người thưa , rừng còn nhiều , nên đàn trâu ở người Cơ ho có điều kiện phát triển. theo như kể lại , mỗi gia đình thường có đàn trau vài dăm con trở lên. Những nhà giàu có đàn trâu tới vài chục con. Thường thì trong làng có bao nhiêu nhà dài sẽ có bấy nhiêu đàn trâu. Theo tập quán , trâu được nuôi thả rông. Mỗi làng có một bãi chăn thả trâu công cộng nằm ở ngoài làng gọi là srê h’pố . Bãi chăn thả này thường nằm ở chỗ thấp trũng nhiều cỏ và xung quanh là rừng rậm. Đường ra vào bãi chăn thả được làm cổng và rào rậu cẩn thận để trâu không ra được. Toàn bộ trâu trong làng được mang ra bãi chăn thả. ở đó , chúng tự kiếm ăn, tự sinh sản. cứ sau một số ngày nhất định , các gia đình mang muối cho trâu ăn để chúng không tự bỏ đi. Số lượng trâu trong mỗi đàn được theo dõi và nhớ rõ bằng cách đeo vào cổ trâu một loại mõ có dáng hình và kiểu dáng riêng.
 Sau trâu, lợn là vật nuôi quan trọng thứ hai.ợn được nuôi phổ biến ở mọi gia đình , theo phương thức thả rông quanh nhà.. nó cũng thường dùng làm vật tế cúng trong các lễ thức gia đình hay cộng đồng . ngoài ra, lợn còn được dùng vào mục đích trao đổi theo phương thức vật trao đổi vật.
 Trong khi đó bò được nuôi chỉ nhằm cung cấp thịt cho những bữa ăn và tiệc tùng thường nhật. Họ thả rông tất cả trong một thời gian dài, mãi sau này do nhu cầu bảo vệ và sử dụng phân bón, người Cơ Ho mới  biết xây cất chuồng trại.
Loài gia cầm duy nhất được nuôi ở người Cơ ho là gà . Gà được nuôi ở mọi gia đình . số lượng từ vài con đến vài chục con. Ban ngày gà tự kiếm ăn trong làng, tối chúng ngủ dưới gầm sàn hay trên các cành cây. Gà được nuôi để cúng tế, lấy trứng hay làm quà biếu mà ít khi được đem bán hay trao đổi.
Ngoài ra họ cũng nuôi chó. Số lượng chó lên đến dăm bảy con /nhà. Theo tập quán người cơ ho không ăn thịt chó ,không phải vì kiêng kỵ mà vì họ coi chó là bạn thân thiết của người, một quan niệm phổ biên ở nhiều cư dân nói ngôn ngữ Môn-Khơme dọc Trường Sơn Tây Nguyên.
Tóm lại , trong truyền thống , chăn nuôi ở người cơ ho đã được chú trọng. vật nuôi đã khá phong phú bao gồm trâu, lợn,dê,gà,chó. Không thấy ở người cơ ho tập quán chăn nuôi ngựa và voi như ở người Mnông và Êđê cận cư. Phương thức chăn nuôi chủ yếu vẫn là thả rông, nửa chăm sóc. Mục đích chăn nuôi chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh như cúng lễ, ma chay, cưới xin mà ít phục vụ nhu cầu cải thiện bữa ăn , cũng như chưa trở thành sản phẩm mang tính hàng hóa.
    
Một số nghề thủ công:
Tất cả các nhóm Cơ Ho đều có nghề thủ công cung cấp những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu của dân làng, sản phẩm dư thừa được đưa ra trao đổi ở các chợ, thị trấn trong vùng. Đáng chú ý nhất là các nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát đồ mây, tre, cói; rèn nông cụ và vũ khí truyền thống là nghề thủ công của người Cơ Ho. Một số nơi còn có nghề làm đồ gốm, dùng trong gia đình và trao đổi.

Nghề rèn :
Nghề này có hầu hết ở các làng và do người đàn ông đảm nhiệm.
Theo truyền thuyết, người Cơ Ho Lạch giải thích, người Cơ Ho Chil là thợ rèn giỏi, bởi vì bà Ka Tông chỉ truyền cho họ một nghề đó. Nhưng đó chỉ là sự giải thích sau này của các nghệ nhân dân gian Cơ Ho Lạch, chứ thực ra, chúng ta vẫn còn nghe được những truyền thuyết về lửa sắt được lấy ra từ Brah Ting (làng dưới đất) và nghề rèn của các nhóm cư dân Cơ Ho. Thợ rèn không mang tính chuyên nghiệp. Người ta bắt đầu công việc vào lúc gần phát rẫy để sửa sang dụng cụ. Thợ rèn gồm có 3 người. Thợ cả đập, một thợ phụ kéo bễ và một mài công cụ. Nguyên liệu gồm  sắt. Trước kia họ thường trao đổi với người Raglai, Chu Ru để đổi lấy sắt, sau này lấy từ phế liệu cơ khí. Sản phẩm tự tạo gồm có xà gạc, dao nhỏ, rìu...
Họ tiến hành như sau: nguyên liệu được đem ghè, cắt đập nhỏ, tạo dáng công cụ rồi vùi vào trong lò  than được làm đỏ bởi 2 ống do một người làm. Sản phẩm chưa hình thành được nung đỏ và đập, cắt cho đến khi hoàn thành công cụ, nhúng vào nước cho cứng lại và mài sắc. Họ cũng có những sự kiêng như:không cho đàn bà goá, phụ nữ có thai lần đầu đi ngang qua nơi làm việc vì sợ hư hại sản phẩm giữa chừng. thù lao cho người thợ rèn thường được trả bằng hiện vật như:rượu ,gà hay cũng có khi được đổi bằng công lao đọng trên nương rẫy hay ở nhà. Nhìn chung người thợ rèn được dân làng kính trọng và quý mến do công việc được coi là tốt đẹp mà ông ta đã làm cho mọi người.

Đan lát:
Nghề đan lát tre mây cũng do người đàn ông đảm nhận. nó là tiêu chí bắt buộc của thanh niên khi đến tuổi trưởng thành,... Công cụ trau vót gồm có dao nhỏ, xà gạc. Sản phẩm là các vật dụng , từ vách nhà, kho  lúa, kho ngô đến các đồ  dùng, các loại bẫy chim, cá, thú. Nghề đan lát trở thành chuẩn mực đánh giá  người con trai cũng như nghề dệt vải để đánh giá người con gái Thái vậy.
Đan lát ở người Cơ Ho Lạch được phân công khá rõ ràng: đàn ông đan gùi, nong, nia, đồ đựng thóc gạo, phụ nữ đan cói. Các sản phẩm cói như chiếu (bêl), mũ (đ­uôn), túi đựng thức ăn (plơ) được trao đổi và buôn bán khắp nơi. Người phụ nữ Cơ Ho Lạch được truyền dạy nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Xá pớ (gùi đi nương) Nơm bắt mối
Nghề dệt vải:
Là công việc của phụ nữ.
Về cơ bản , nghề dệt vải dừng ở mức độ không chuyên và chỉ làm trong thời gian rảnh rỗi. Đấy cũng là một nghề mang tính phân công lao động theo giới tính và là điều kiện bắt buộc khi các cô gái chuẩn bị thành lập  gia đình. Nguyên liệu là bông kéo sợi. Cây bông được trồng, thu hái và chế biến. Nơi trồng là đất vườn hay ven suối.
Công đoạn :Xử lý bông:
 Người ta thu hái bông, đem về phơi nắng cho cánh bung ra hết. Để bông tơi, sạch, người ta tách hột, tiếp đến dùng đũa xe bông thành từng lọn nhỏ. Lọn bông kéo ra một đầu nối vào trục xa quay để kéo sợi (lambong). Nó giống như công cụ kéo sợi của người Việt. Kéo xong sợi, người ta đem bỏ vào ngâm trong nồi có nếp đã nấu nhừ, mục đích làm cho sợi dệt được chắc, không đứt giữa chừng. Sợi ngâm xong được lấy ra phơi khô, sau đó được quấn vào cây quay để quấn lại thành cuộn chỉ lớn.

Thu hoạch bông.
Công đoạn :Nhuộm sợi:
 Đa số những màu sắc để nhuộm vải đều được người Cơ Ho sáng tạo từ các chất liệu tự nhiên như: Lấy lá cây tơrung đem giã nát để được màu xanh. Ngâm trong ché khoảng một tuần, sau đó trộn nát để thêm hai ngày rồi lấy xát . Nước lá đông lại thành cục nhỏ, keo khô. Lúc nhuộm lấy chất keo đó bỏ vào chén, đổ nước vào phải hoà tan và ngâm sợi trong hai ngày. Màu xanh dương ngâm với lá nước chát (chàm be); màu đỏ lấy loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi nhúng sợi vào. Màu vàng lấy củ nghệ dại không giống với nghệ thường ăn, đem giã nát ngâm chung với sợi.
Công đoạn : dệt:

Khung dệt của người Cơ Ho cũng có nhiều nét giống như người Mạ: hai ngón chân cái bám vào thanh giữ đầu khung, hai chân duỗi thẳng song song cuối khung dệt cố định được là nhờ đường dây nối vòng qua lưng.  Hoa văn được dệt theo ý thích của mỗi người: có nhiều hoa văn mô tả động, thực vật hay sản phẩm sáng tạo của con người. Có những loại hoa văn tiêu biểu hơn cả như:Hoa văn chấm trắng tượng trưng hình con sâu, chấm xanh tượng trưng quả dưa hấu hay tổng hợp nhiều màu vàng, xanh, đỏ thẫm, trắng để tạo nên hoa văn tượng trưng hình con công. Hoa văn có nhiều loại như mắt chim (mat sêm), con cào cào (srah), hầm chông (srông), cán xà gạc (ngkơr wiêh), bướm (tơplơp)…

Trao đổi,buôn bán:
Người Cơ Ho Lạch tuy là cư dân nông nghiệp quen sống theo kiểu tự cung tự cấp là chính nhưng họ cũng  sớm chấp nhận một nghề phụ khá mới mẻ như: buôn bán, và coi đó là một nguồn thu nhập quan trọng, bù vào khoản thiếu hụt lớn do kinh tế sản xuất và chiếm đoạt không đáp ứng được. Vì có quan hệ đặc biệt với cư dân buôn bán khác như­ Chăm, Chu Ru, người Cơ Ho Lạch  được quyền "lư­u thông phân phối" ở vùng cao nguyên Lang Biang, nhất là khi vương quốc Chămpa bị tan rã. Vì nhu cầu mua muối và sắt của các dân cư trong vùng đòi hỏi cấp bách, việc buôn bán của người Cơ Ho Lạch kéo dài về phía đông từ Đơn Dư­ơng xuống Phan Rang, Nha Trang và mở rộng sang phía tây bắc, tận Campuchia. Mùa khô, khi công việc đồng áng rảnh rỗi, họ tổ chức thành từng nhóm hai ba chục người, có khi cả gia đình với chiếc gùi trên vai. Một chuyến buôn có thể kéo dài từ 15 – 20 ngày, xuống biển họ mang những sản phẩm của cao nguyên: gạc nai, ngà voi, dây mây, nghệ, hạt ngo (thông), có khi lùa thêm trâu, ngựa để chuyên chở về với muối, sắt và đồ trang sức thích mắt. Với muối, sắt, họ có thể đổi với bà con cư dân lân cận gạo, vải, dụng cụ sản xuất và đổi với người Khmer chiêng ché.
Người Cơ Ho Lạch luôn tâm niệm khi đi buôn rằng: "làm đất phải cuốc hết ngày, đi buôn phải giao du khắp chốn" và họ thu được nhiều “túi khôn” của thiên hạ. Chính vì vậy, người Cơ Ho Lạch đã có một thời được các cư dân láng giềng khen tặng về sự thông minh.
Người Cơ Ho Chil và người Cơ Ho Srê dùng thóc lúa, sản phẩm chăn, dệt, chăn nuôi để trao đổi lấy sắt, muối, áo quần. Người Cơ Ho ChiL có khi thông qua người Lạch để trao đổi, nhưng đôi khi họ cũng trao đổi bằng những chuyến buôn xa.

Khai thác các nguồn lợi tự nhiên:
Săn bắt:
Những tháng đầu mùa mưa,  là thời gian thuận lợi nhất trong việc tìm thú rừng, bởi vì đây là thời gian đốt rẫy, thú đi ăn, đi tìm những lộc non mới nhú. Vũ khí đi săn gồm có: ná, lao phóng (hiện tại họ dùng súng, đèn pin). Người ta săn tất cả các con thú, chỉ kiêng không ăn con cù lần (đogle) và rắn hổ mang bành. Người Cơ Ho Srê thường dùng các loại bẫy sau:
+ Bẫy hầm (tàm tơrlong) người ta đào những hố thật sâu để dụ những con thú “hấp tấp” không ý thức được và rơi vào.
+ Bẫy gài cây lớn (kơtit),khi  thú  rừng đi và chẳng may đụng vướng cây, cây đổ đập chết thú.
+ Bẫy gài kiểu thòng lọng (dă): khi  thú vướng bẫy, lập tức cần bẫy bật lên, chân thú bị thắt nút và thú bị treo lơ lửng trên không.
Săn bắt tập thể là hoạt động khá nhộn nhịp và phong phú. Chỉ huy thường là những người thợ săn giỏi, chủ của bầy chó săn. Tốp đi săn chia thành hai nhóm:
. Nhóm săn đuổi cùng bầy chó dồn con thú chạy theo những tuyến rừng dự định. Trong tay cầm những lao nhọn, họ la hét, huýt chó, tiếng chó sủa vang động cả một góc rừng.
.  Nhóm thứ hai gồm những thợ săn dũng cảm và kinh nghiệm đón sẵn ở những nơi dự kiến thú sẽ sẽ chạy qua để tiêu diệt con thú. Cũng có thể họ dò tìm được đ­ường đi ăn của con thú, đào hầm sâu cắm chông (rộng 4 x 5m,  sâu 1,5-2m) dồn đuổi thú sập hầm để bắt.
 Những hình thức này dùng để săn các thú lớn như trâu rừng, gấu, hổ, nai,... Kết quả được chia công bằng cho mọi thành viên tham gia: những người có công như người chỉ huy, chủ bầy chó, người đâm thú đầu tiên bao giờ cũng được phần hơn. Riêng đầu thú dành cho người chủ chốt như­ biểu hiện kính trọng, bởi vì nó lại được dùng để chiêu đãi mọi người sau một chuyến đi săn thành công. Người  giết thú  lấy hàm dưới xâu lại thành chuỗi treo sát vách nơi cửa ra vào, khi được 100 cái hàm, người đi săn giết heo để cúng mừng (dul rơhiêng). Đây là vinh hạnh lớn nhất của người đi săn về  thành tích của họ. Sản phẩm đi săn phải cúng trước, sau đó mới chia.

Đánh bắt cá :
Đánh bắt cá được tiến hành ở các dòng suối vùng đầm nước (tơnau) bằng nhiều phương tiện khác nhau: đó (pàm), gậy chọc (chi chol), rổ xúc (đêr chŏ ka), vó (yŭ) và sau này có thêm lư­ới. Công việc này thường xuyên hơn săn bắt thú, phụ nữ và trẻ em đều tham gia được. Ngoài phương cách trên, người ta suốt cá bằng một thứ cây độc hay phương pháp bít đầu nguồn. Câu cá thường bằng một sợi dây không có lưỡi câu, mồi thường bắt con sâu nước - một loại thức thức ăn tôm cá rất thích.
Cá bắt về người dân thường chế biến các món như: ăn tươi, hay nướng, xào khô, riêng cá không được nấu với nấm vì sợ sét đánh.

Hái lượm :
Việc hái l­ượm này thường được "chuyên môn hóa" cho phụ nữ và trẻ em. Thức ăn rừng Lang Biang rất phong phú về rau (mơ biap, nsai mpàr, mbêr, chuối rừng, đọt mây, cà đắng và nhiều loại nấm...), cộng với rau v­ườn nên bữa ăn nào của người Cơ Ho cũng có món rau làm thức ăn chính. Họ chỉ kiêng không dám hái  trái xoài rừng sợ bị sét đánh và không ăn trái krit. Các sản phẩm hái lượm được nếu ít thì nấu ăn hết, còn nhiều thì họ phơi khô để dành.
Nghề khai thác rừng trước hết là gỗ, tre để xây dựng nhà ở, chuồng trại, đan lát và chế tác các dụng cụ gia dụng. Nhiều loại lâm sản như mây, ngo, một số cây thuốc được khai thác thành sản phẩm trao đổi buôn bán. Y học dân tộc của người Cơ Ho từ thời xa xư­a cũng khá phong phú, đang bị mai một dần.
Ngoài ra còn có một số nghề phụ khác như: nghề làm gốm phát triển mạnh ở nhóm Srê… Đàn ông Cơ Ho giỏi săn bắn thú rừng , nhưng hơn 10 năm qua vì bảo vệ rừng , động vật người Cơ Ho không bắn thú nữa.
                              
 VĂN HOÁ VẬT CHẤT:
 Nhà cửa:
          Nhà ở cổ truyền của người Cơ Ho là nhà sàn dài nhưng hiện nay nhà đất đang ngày càng phổ biến. Vật liệu xây dựng nhà là tranh, tre, gỗ và dây rừng…
          Nhà ở của người Cơ Ho có hai loại hình phổ biến là nhà sàn và nhà đất, với hai dạng khác nhau là nhà dài của gia đình lớn và nhà ngắn của gia đình nhỏ.
         - Nhà sàn dài của gia đình lớn: thường chỉ có hai hoặc ba gia đình nhỏ cùng chung sống. Kết cấu của bộ khung nhà được làm theo kiểu vì hai cột hoặc ba cột nhưng không có kèo. Hai mái đầu hồi khum tròn giống như mái nhà của nguời Thái Đen, chỉ khác là không có “khau cút”.
          Ngôi nhà được giới thiệu dưới đây là ở xã Đaploa, huyện Đahuoai tỉnh Lâm Đồng. Nhà này chỉ có hai gia đình nhỏ là gia đình của người mẹ và gia đình của người con gái sống với nhau. Nhà có ba cửa ra vào, cửa chính ở mặt trước nhà, hai cửa phụ ở hai đầu hồi của hai gia đình nhỏ. Phần mái trên của các cửa đều được làm vồng lên để đi lại dễ dàng hơn.
          Nhà có chín gian: ba gian về phía đầu hồi bên phải là của gia đình người mẹ (NM). Hai gian có gác xép (GX). Gian thứ ba đặt bếp (BM). Giáp vách tiền của cả ba gian này có một cái sạp nhỏ để nước (SN), phía dưới để củi (CĐ). Ba gian giữa dùng để tiếp khách của gia đình (GK). Giáp vách hậu là một dãy ché, ú đựng rượu cần (RC), trên vách của gian chính giữa có bàn thờ chung của hai gia đình (TN). Bàn thờ chỉ là một tấm ván nhỏ treo vào vách, xung quanh cắm một số lá cây, những chùm bùi nhùi vót từ ống tre ra. Ở khoảng giữa hai cột của vì cột thứ năm (tính từ trái sang phải) có một cột gọi là Dorongtơtộ buộc những chùm lá bị rơi khi lợp nhà. Cột này thường được dùng để buộc các ché rượu cần khi tiếp khách hoặc trong nhà có lễ thờ cúng thần linh (CBC). Ba gian bên trái dành cho gia đình người con gái (NC) cũng được bố trí giống như ba gian thuộc hồi bên phải.

         - Nhà đất dài của gia đình lớn:
           Nhà đất dài có quy mô nhỏ hơn nhà sàn dài, nhưng vẫn có hai gia đình nhỏ cùng sinh sống. Bộ khung nhà vẫn làm theo kiểu vì ba cột, hình thù của nó giống lối kết cấu cổ truyền.
         - Nhà sàn ngắn của gia đình nhỏ: Kết cấu bộ khung vẫn theo kiểu cổ truyền, vì hai cột nhưng có một số cột có hình thù đặc biệt hầu như ít gặp ở nhà các dân tộc khác. Vì thứ hai chỉ có một cột giữa. Hai cột ở vì thứ ba có hình thù khác với các cột còn lại.
         -Nhà đất ngắn của gia đình nhỏ:
          Có nhiều dạng nhà khác nhau từ kết cấu bộ khung, đến cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt đều xa dần với cái gốc cổ truyền. Trong nhà đã được chia thành các gian, phòng rõ rệt, không còn kho thóc ở giữa nhà. Tuy nhiên người ta vẫn còn làm sạp để nằm, bếp vẫn gần nơi dành cho chủ nhà…

          Từ hai dạng nhà dài và nhà ngắn đơn độc dần dần người ta đã tiến tới các tổ hợp hai nhà: nhà ở  và  nhà bếp. Có tất cả 4 dạng:
              Nhà ở là nhà sàn-nhà bếp là nhà đất
              Nhà ở là nhà đất- nhà bếp là nhà sàn
              Nhà ở và nhà bếp đều là nhà đất
              Nhà ở và nhà bếp đều là nhà sàn.

          Mọi sinh hoạt của gia đình như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách đều được diễn ra xung quanh bếp lửa.

 Trang phục
           Dệt là điều kiện bắt buộc đối với các cô gái chuẩn bị về nhà chồng. Vì khi về nhà chồng thì các cô gái phai mang theo của hồi môn là những sản phẩm mà mình đã dệt được như chăn, gối, trang phục tặng bố mẹ chồng... Nghề dệt vải rất phổ biến ở đồng bào dân tộc Cơ Ho.
           Trang phục truyền thống của người phụ nữ Cơ Ho gồm: áo, váy, đồ trang sức, và tấm choàng.
       - Áo được dệt bằng vải sợi bông màu trắng, phía  trên có cài một số hoa văn. Áo dài khoảng 80cm, rộng 40cm, viền cổ tròn, áo hình chữ nhật trên dưới bằng nhau, vạt trước ngắn hơn vạt sau. Hoa văn trang trí áo chủ yếu là hình quả trám, ở giữa là hình cối xay gạo.
        - Váy là loại váy cuốn dài khoảng 150cm, rộng 90cm, hình chữ nhật, màu xanh chàm, hai bên mép dệt hoa văn với các màu trắng, vàng, xanh, hai đầu váy thường để tua. Hoa văn trang trí chủ yếu là các đường kẻ song song, đường kẻ ngang, chấm trắng, lá nón, hoa văn trên ống đựng tên, ché rượu cần, gốc cây tre làm chà gạc... Toàn bộ hoa văn trên váy của nữ giới là hoa văn dệt chứ không phải hoa văn thêu.

          Khi mặc váy họ thường bắt đầu quấn từ phía hông trái rồi quấn một vòn