Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Sán Chay (Cao Lan)
Showing posts with label ₪ Dân tộc Sán Chay (Cao Lan). Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Sán Chay (Cao Lan). Show all posts

Thursday, April 6, 2017

Các lễ, tết trong năm của người Sán Chay, Thái Nguyên (Hoàng Diễm Lê)

Cộng đồng dân tộc Sán Chay ở Thái Nguyên gồm có 2 nhóm địa phương: Cao Lan và Sán Chí. Về thành phần dân tộc tuy vẫn còn một số vấn đề đang được xem xét lại song theo công bố chính thức vào thàng 3/1979 của Tổng Cục Thống kê, Cao Lan và Sán Chí đều thuộc cùng một dân tộc. Đó là dân tộc Sán Chay.

Theo tập quán, ngày 30 Tết Nguyên đán, các gia đình trong bản chuẩn bị cỗ cúng bản. Cỗ cúng bản của họ không thể thiếu miến nấu thịt lợn, rau. Sáng mùng 1 Tết, họ dạy sớm để lấy nước rồng (sắn xui chờ lọn), cầu mạnh khỏe, may mắn và hạnh phúc. Trước khi lấy nước, họ thắp hương cầu thủy thần phù hộ dân làng có đủ nước để ăn uống, tắm giặt và sản xuất. Ngày mùng 2 Tết họ tổ chức cúng bản, các gia đình mang cỗ ra miếu tham gia cúng thâu lộn và lùng ý. Ngoài cỗ của các gia đình, mâm cỗ chung của bản gồm gà luộc (hay thủ lợn), cơm, rượu, tiền vàng và nhang. Theo thông lệ, người già, thầy cúng đến sớm và đặt lễ trước. Chủ tế thay mặt các thành viên trong bản khấn. Nội dung cầu khấn: Chúng con là dân bản… thành tâm chắp lễ khấn vái, mong thổ thần về chứng giám, hưởng lễ vật, phù hộ già, trẻ trong bản mạnh khỏe, muông thú không phá hoại mùa màng… Khấn xong, thầy cúng phải xin âm dương, nếu chưa được thì phải khấn lại, khi nào được mới thôi (một sấp, một ngửa là thổ thần đã đồng ý). Cúng xong, các thành viên cùng nhau thụ lộc ngay tại miếu. Họ thường giữ lại bánh chưng và một ít rau mang về nhà với hy vọng năm mới sẽ phát đạt, mạnh khỏe hơn.

Theo tập quán, khi chuyển hay lập bản mới, họ đều tổ chức cúng thâu lộn để xin phép lập miếu thờ mới. Vào dịp bản có gia đình làm nhà mới hoặt mới đến nhập cư cũng đều phải cúng trình báo thổ thần. Ngoài cúng đình, miếu, các bản Sán Chay còn làm lễ hạ điền, lễ mở cửa rừng (vào ngày 4 Tết), lễ giết sâu bọ (vào ngày 5/5), lễ cơm mới (vào tháng 9, tháng 10).

Xưa kia, lễ hội đám tăng (hội đèn) của người Sán Chay 3-5 năm được tổ chức một lần, với mục đích cầu thổ thần phù hộ cho dân bản mạnh khỏe, hạnh phúc và được mùa. Nhiều nơi, khi dân bản gặp khó khăn, mất mùa, thiên tai, dịch bệnh, họ cũng làm lễ đám tăng. Một số dòng họ (Lỹ, Sầm, Hoàng) thờ thần đèn (màng tăng) còn tổ chức đám tăng riêng.

Hoàng Diễm Lê

Saturday, March 18, 2017

Vài nét về dân tộc Sán Chỉ (Lan Anh)

Phụ nữ Sán chỉ

Dân tộc Sán Chỉ sống rải rác ở các tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Vốn là cư dân nông nghiệp, lại sống định canh, định cư theo từng bản làng và có tổ chức khá chặt chẽ nên dân tộc Sán Chỉ có tính cộng đồng cao. 

Người Sán Chỉ sống tập trung thành xóm nhỏ ở các vùng núi cao. Nhà sàn 4 mái vững chãi là kiểu dáng nhà ở đặc trưng của họ. Tuy nhiên, nhà ở của người Sán Chỉ cũng có thay đổi theo từng vùng miền. Ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn thì người Sán Chỉ ở nhà sàn còn ở Quảng Ninh thì họ ở nhà vách đất hoặc xây bằng gạch không nung. Ngày nay kinh tế, xã hội phát triển, nhà ở của người Sán Chỉ cũng đã thay đổi cả về chất liệu xây dựng và kiểu dáng. Nhà tranh được thay bằng nhà gạch xây theo kiểu hiện đại. Nhiều hộ gia đình người Sán Chỉ còn xây nhà cao tầng, mái bê tông kiên cố như của người Kinh.

Người Sán Chỉ làm ruộng là chính. Họ tiếp cận và vận dụng nền văn minh lúa nước từ rất lâu. Họ còn chăn nuôi và trồng trọt. Đây là nghề chính đem lại thu nhập chủ yếu cho từng gia đình người Sán Chỉ. Bên cạnh đó, họ có nghề thủ công như làm mộc, đan lát mây tre, rèn. Tuy nhiên, những sản phẩm này chỉ mang tính tự cung, tự cấp trong cộng đồng, chưa trở thành hàng hóa phổ biến. Nhiều nghề thủ công hiện vẫn được người Sán Chỉ giữ gìn và phát triển. Bà Đặng Thị Trinh, người Sán Chỉ ở Móng Cái, Quảng Ninh, cho biết: "Người Sán Chỉ nuôi lợn, đi rừng, trồng cây quế, keo, thông, sắn, ngô, lạc. Người Sán Chỉ không biết buôn bán chỉ biết trồng trọt chăn nuôi, nếu dùng không hết thì mang đi bán. Chỉ làm nhỏ thôi. Nuôi trâu mấy năm mới được bán. Người ta làm kinh tế hay buôn bán lớn mới nhiều tiền".

Trang phục của các cô gái

Trang phục của người Sán Chỉ do những bàn tay khéo léo của phụ nữ Sán Chỉ làm ra, đơn giản và không rực rỡ như trang phục của người Mông, người Dao, nhưng vẫn có những nét độc đáo riêng biệt. Mặc trang phục truyền thống của dân tộc, phụ nữ Sán Chỉ phải vấn tóc, đội khăn màu đen và kèm theo các đồ trang sức như: vòng cổ, vòng tay bằng bạc. Mỗi cô gái Sán Chỉ đều có từ 2 - 3 chiếc thắt lưng làm bằng lụa hoặc nhiễu với nhiều màu sắc khác nhau được các cô khéo léo kết hợp cho phù hợp với trang phục của mình trong những ngày lễ, tết. Trang phục nam của người Sán Chỉ mộc mạc, đơn giản hơn nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp khoẻ khoắn, mạnh mẽ với áo màu chàm, có hai túi rộng; quần dài, cạp chun, ống quần rộng để thuận lợi cho việc leo núi đồi. Bà Đặng Thị Trinh cho biết: "Người Sán Chỉ mặc váy, quấn đầu. Ngày xưa ông bà hay mặc quần áo dân tộc nhưng bây giờ thì mặc quần áo bình thường. Giờ thì đi hát hò hay lễ cưới, lễ hội mới mặc trang phục dân tộc".

Lễ cưới của người Sán chỉ

Người Sán Chỉ nổi tiếng yêu ca hát. Những câu dân ca được cộng đồng sáng tác và lưu truyền trên cơ sở nét văn hoá riêng có của dân tộc, những phong tục, tập quán và qua quá trình lao động. Hát dân ca của người Sán Chỉ gắn liền với tập tục hôn nhân, chúc thọ, mời rượu, đối đáp trao duyên và được trình diễn dưới nhiều hình thức, bối cảnh và không gian khác nhau.

Sự phong phú về câu hát dân ca của người Sán Chỉ gắn liền với tài ứng khẩu và đặt lời mới của người hát. Ông Lâm Minh, người Sán Chỉ ở Móng Cái, Quảng Ninh, cho biết: "Hát dân ca như thế này các cụ ngày xưa biết nhiều hơn. Ngày trước bố mẹ tôi biết. Tối mọi người trong xóm tới giao lưu hát, có khi hát tới sáng nên cũng biết hát. Từ tầm 30 tuổi trở lên cũng không hát được nhiều vì không nhớ lời và không có giọng để hát. Anh em ở xa đến nhà tìm hiểu, hát từ tối đến sáng, hát cả đêm không ngủ. Hôm sau mới ngủ".

Lời ca, tiếng hát với đồng bào Sán Chỉ chính là một món ăn tinh thần không thể thiếu, có tác dụng khích lệ, động viên, giúp con người xích lại gần nhau, yêu quê hương, làng bản của mình hơn.

Lan Anh

Tuyên Quang: Lễ hội Khai nhạc của dân tộc Cao Lan ( Nông Minh Điềm)

Tuyên Quang: Lễ hội Khai nhạc của dân tộc Cao Lan

Hàng năm vào mồng 2 Tết Nguyên đán, bà con dân tộc Cao Lan xã Thành Long (Hàm Yên) tổ chức Lễ hội Khai nhạc. Các tiết mục trong lễ hội thể hiện những nét văn hoá truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc Cao Lan.

Lễ hội Khai nhạc nằm trong nghi lễ trả nợ (đám tang, đám chay) của 4 dòng họ của dân tộc Cao Lan: Hoàng, Lương, Lý, Hà. Từ sáng sớm các con cháu tổ chức lễ rước kiệu tổ tiên, tổ tông, thần linh từ nhà ra đồng (ngoài đồng dựng sẵn cái rạp đã lập đàn), sau đó thầy (thầy mo) đánh ba hồi trống bắt đầu lễ Khai nhạc. Lễ Khai nhạc kết thúc thì nghi lễ trả nợ cũng hoàn thành. Thầy làm phép khai binh khiển tướng, cấp lễ hội này cho tổ tiên, tổ tông, thần linh. Coi như con cháu đã trả nợ xong công ơn của các bậc đã phù hộ cuộc sống của họ được bình yên, hạnh phúc trong nhiều năm qua. Nghi lễ trả nợ không phải lúc nào cũng có mà chỉ khi có nợ với tổ tiên, tổ tông, thần linh. Tức là đời ông, bà, cha, mẹ trước kia nuôi con, cháu khó, trâu bò, lợn gà khó, mùa màng thất thu... đã khấn các vị phù hộ. Sau khi được phù hộ, việc trong nhà ngoài ngõ thuận buồm xuôi gió là đến lúc họ phải làm lễ trả nợ. Đời bố không trả được thì đến đời con, đời cháu, tuyệt đối không được để quá 3 đời. Các đồ cúng tế trong nghi lễ là trâu (họ Hoàng), bò (họ Lương), lợn (họ Lý, Hà).


Lễ Khai nhạc gồm 10 điệu múa: Tập thể, Khai đao mở đường, Mời thần an toạ, Bồ câu xoè cánh, Khỉ giã gạo, Xúc tép, Dâng hương, Dâng trà, Dâng rượu, Khai đèn và 24 câu xướng. Hát xướng là hình thức phụ họa (hát đệm) để chuyển bài, qua đó tăng thêm tính hấp dẫn, nghiêm trang của lễ hội. 10 điệu múa trong lễ Khai nhạc thể hiện sự biết ơn tổ tiên, tổ tông, thần linh đã mang lại những điều may mắn cho con, cháu, người nhà khoẻ mạnh, trâu bò không bị ốm, mùa màng tốt tươi. Hiện nay, các tiết mục múa trong phần lễ Khai nhạc của nghi lễ trả nợ được các nghệ nhân dân tộc Cao Lan lưu giữ và thể hiện dưới hình thức sân khấu hoá. Các tiết mục này đều dùng công cụ chủ đạo là trống cái - thầy đánh trống, các đồng nhi (tồng nhi - diễn viên múa) múa theo tiếng trống. Diễn viên múa không phân biệt lứa tuổi, nam - nữ. Người đánh trống giữ vai trò chủ đạo, xuyên suốt trong bài múa, điệu múa. Mỗi một hồi trống gắn với một động tác khác nhau. Sau mỗi điệu múa người đánh trống sẽ hát xen vào 2 câu xướng - coi như là nhạc dạo để các đồng nhi chuẩn bị cho điệu múa tiếp theo.


Hiện nay để lưu giữ nghi lễ truyền thống này hàng năm vào mồng 2 Tết Nguyên đán bà con dân tộc Cao Lan xã Thành Long lại mở hội Khai nhạc. Tại buổi lễ bà con chuẩn bị một mâm cỗ đơn giản vái thần Hoàng Làng, sau đó tập trung tại nhà già làng (thầy mo) mở hội. Lễ hội Khai nhạc thu hút đông đảo bà con trong xã tham gia, không kể dân tộc, dòng họ. Họ đến lễ hội vừa để vui xuân đón tết, vừa để học những điệu múa truyền thống của đồng bào dân tộc Cao Lan.

              Dù tuổi đã cao nhưng ông Dừn vẫn miệt mài sưu tập và sáng tác Sình ca

Nông Minh Điềm

Saturday, June 11, 2016

Hát ví của đồng bào dân tộc Cao lan (Vi Đức Hồi)

Hát Sình ca hay còn gọi là hát ví của đồng bào dân tộc Cao Lan, là lối hát đối đáp giữa thanh niên nam nữ, được sáng tác theo thể thơ tứ tuyệt, ghi chép bằng chữ Hán.
Theo truyền thuyết của người Cao Lan, tác giả của bài Sình ca là nàng Lưu Ba, cô gái đẹp đã đặt lời cho các điệu hát và nàng đã hát suốt 13 ngày đêm không ăn không ngủ rồi chết. Tiếng hát ấy không chỉ lưu lại đời đời, còn chứng tỏ sức sống tiềm tàng và tình yêu trong sáng, ngọt ngào, bình dị của người Cao Lan.

Những cuộc hát Sình ca đều có đề tài riêng. Thanh niên nam nữ mượn những cảnh đẹp của quê hương, đất nước, cảnh sinh hoạt hằng ngày, những câu chuyện cổ tích, thần thoại để gợi cảm và thông qua đó nói lên tình yêu và ước vọng xây dựng một cuộc sống vui tươi, hạnh phúc. Những đêm hát Sình ca là những đêm vui vẻ, sinh động xóa đi những mệt nhọc của những ngày lao động vất vả, có sức thu hút diệu kỳ với những chàng trai, cô gái. Từ những đêm hát đã nảy sinh những mối tình thật đẹp.
Hàng năm, từ mùng 4 tháng Giêng âm lịch cho đến hết tháng Giêng, thanh niên nam nữ đi hội, đi chơi làng, hát đối với nhau. Sình ca có nhiều dạng: Hát trong đám cưới, hát tháng Giêng (hát hội), hát chúc tụng các cụ... Đặc biệt, trong hát hội chỉ có thanh niên nam nữ mới được tham gia, vì đi hát là để tìm hiểu yêu đương.
Vào mùa lễ hội, tiếng hát Sình ca dập dìu suốt đêm thâu. Giai điệu Sình ca có lúc ngân cao, có khi trầm ấm. Mùa xuân về khi làng mở hội, làn điệu Sình ca bay bổng, âm vang núi đồi, hoà quyện vào trong gió, vào hương sắc mùa xuân làm lay động lòng người. Hát Sình ca ít khi có nhạc đệm, có nhiều chủ đề như: Làm khách, đường về, chúc tụng, chào mừng...
Qua câu hát, người con trai khéo léo ca ngợi vẻ đẹp của người con gái và bày tỏ tình yêu của mình. Đó chính là nét tinh tế của hát Sình ca Cao Lan. Hát Sình ca còn là để kể chuyện cổ, kể lại những tích xưa. Sình ca được hát trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng hát nhiều nhất vẫn là khi mỗi độ tết đến xuân về, nam thanh nữ tú đến với nhau để tìm hiểu yêu đương. Những thiếu nữ Cao Lan dịu dàng, e ấp trong bộ váy chàm mới đi trảy hội, đẹp như những bông hoa rừng đã tô điểm thêm cho bức tranh trong ngày hội thêm rực rỡ.
Trải qua nhiều năm tháng, ngày nay lớp thanh niên trẻ dân tộc Cao Lan không còn biết chữ Hán để đọc được những lời hát Sình ca cổ, nhưng những làn điều Sình ca thì vẫn được người già trong làng lưu truyền và phát triển từ đời này sang đời sau. Trong những lễ hội truyền thống của người Cao Lan hiện nay vẫn không thể thiếu làn điệu Sình ca.

 Vi Đức Hồi (sưu tầm)

Tết của đồng bào Cao Lan ở Yên bái (Vi Đức Hồi)

Bữa cơm sum họp gia đình ngày tết của đồng bào dân tộc Cao Lan

Cứ mỗi độ xuân về, khi hoa mơ, hoa mận, hoa lê đua nở thì cũng là lúc bà con đồng bào dân tộc Cao Lan xốn xang tiễn đưa năm cũ, đón năm mới đến và tổ chức ăn tết cổ truyền.
Ở Yên Bái, dân tộc Cao Lan có khoảng trên 7.000 người, hiện nay sinh sống tập trung tại các xã Đại Đồng, Tân Hương,Vĩnh Kiên, Bạch Hà, Vũ Linh, Phúc An, Xuân Lai của huyện Yên Bình, Hòa Cuông, Minh Quán của huyện Trấn Yên và Yên Phú, Yên Hợp của huyện Văn Yên. Dân tộc Cao Lan thường ở nhà sàn 3 gian, 4 mái, các gian nhà được phân định chức năng sinh hoạt của từng gian.
Trong đó, gian giữa được dùng để đặt bàn thờ cúng tổ tiên, các gian còn lại dùng làm nơi ngủ, nghỉ và tiếp khách. Đời sống của đồng bào chủ yếu dựa vào nông - lâm nghiệp và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Với sự cần cù, sáng tạo trong lao động, đồng bào đã tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống. 
Cùng đó, bà con còn tích cực trao đổi mua, bán hàng nông sản, mở quán bán hàng tạp hóa, làm dịch vụ ăn uống nên đời sống, tinh thần của bà con được nâng lên rõ rệt, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy và gìn giữ.
Cũng như các dân tộc khác, tết cổ truyền là một trong những ngày lễ lớn, thể hiện sự trân trọng với tổ tiên và với các thần linh như: thần sông, thần núi, thần đá, thần cây… Đồng thời, đây cũng là dịp gia chủ cảm tạ các vật dụng trong gia đình và nông cụ sản xuất ngoài đồng đã giúp cho một năm sản xuất an toàn, bội thu.
Ngày tết là thời gian dành cho bà con đến thăm nhau, cùng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và tổ chức các trò chơi giải trí và chúc mừng những thành tựu đã đạt được trong năm cũ, ước nguyện điều tốt lành trong năm mới.
Tết thường được chuẩn bị tổ chức từ ngày 27 tháng Chạp cho đến hết rằm tháng Giêng âm lịch. Do đó, để có một cái tết trọn vẹn, an toàn, vui vẻ, những ngày trước tết, mọi người, mọi nhà đều tất bật với công việc chuẩn bị đồ ăn, nước uống, đặc biệt là các món đặc sản như: bánh chim gâu, bánh gai, bánh rán, bánh chè, bánh chưng…, một phần được dâng lên tổ tiên, một phần dùng để đãi khách quý trong dịp tết.
Cùng đó là việc dọn dẹp nhà cửa, quét sân, lau chùi các vật dụng, trong đó đặc biệt chú trọng đến những vật thờ cúng. Tất cả dụng cụ của gia đình như: cuốc, xẻng, dao, cày, bừa, chuồng, trại gia súc, gia cầm đều được dán giấy đỏ “niêm phong” thể hiện sự cảm tạ của gia chủ và là tín hiệu quy ước cho các vật dụng được "nghỉ ngơi" như con người.
Theo quan niệm của đồng bào Cao Lan, giấy đỏ biểu trưng cho sự sung túc, mùa màng bội thu và còn mang ý nghĩa tâm linh “xua đuổi” tà ma. Với đồng bào Cao Lan, khi giấy đỏ được dán lên những nơi quan trọng chính là niềm tin vào năm mới tiếp tục no ấm, hạnh phúc.


Phụ nữ dân tộc Cao Lan may áo mới cho mùa hội xuân.

Tuy ngày hội xuân vui nhộn đến mấy nhưng tối đến, người nào về nhà nấy để thắp hương lên bàn thờ tổ tiên và sum họp bên mâm cơm của gia đình. Qua những lời chúc tụng, điệu hát dân ca và các trò đua tài, đấu võ trong dịp tết, mọi người thấy đã quý nhau rồi lại càng quý nhau hơn, đó là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào dân tộc Cao Lan dịp tết đến xuân về.

Vi Đức Hồi (sưu tầm)

Người Dân tộc Cao Lan ở Bắc giang (Vi Đức Hồi)


Cao Lan là một trong hai nhóm của dân tộc Sán Chay (Cao Lan – Sán Chí). Trước đây các học giả người Pháp coi người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Dao. Người Cao Lan còn được gọi là người Trại. Cho đến nay, người Cao Lan ở Bắc Giang vẫn tự nhận mình là người dân tộc Cao Lan, có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái.

Theo số liệu thống kê năm 2014, nhóm dân tộc Cao Lan – Sán Chí ở Bắc Giang có khoảng trên 25 nghìn người, sống tập trung ở 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế.
Cũng như các dân tộc thiểu số khác sinh sống ở vùng núi thấp, người dân tộc Cao Lan lấy việc trồng trọt lúa nước và  cây lương thực khác trên đất dốc là hoạt động kinh tế chủ đạo, ngoài ra họ cũng tận dụng những khoảnh đất bằng phẳng để trồng lúa nước. Tất cả hoạt động khác như chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi buôn bán hay săn bắt hái lượm đều là những hoạt động kinh tế phụ mang tính chất bổ trợ cho trồng trọt. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, người dân tộc Cao Lan sử dụng các nông cụ như cày, bừa, cào, cuốc bàn, dao quắm và hái.
Một loại áo đặc sắc của phụ nữ người Cao Lan là pù dằn dinh, áo có màu chàm thậm. Dưới gấu áo đáp liền nhau những miếng vải trắng, hình vuông. Áo không cúc, khi mặc đồng bào thắt thắt lưng bên ngoài. Trang phục nam giới có nhiều nét giống trang phục nam hai dân tộc Tày, Nùng. Áo nam màu chàm, quần gần giống quần bà ba của người Kinh.
Xưa kia, người dân tộc Cao Lan thường ở nhà sàn. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, những ngôi nhà sàn của đồng bào đã nhường chỗ cho những ngôi nhà đất. Do vậy, hiện nay những ngôi nhà sàn ở Bắc Giang còn lại rất ít.

                                                                                                        Vi Đức Hồi (sưu tầm)

Những tục lệ độc đáo trong đám cưới người Cao Lan (Vi Đức Hồi)

Đám cưới dân tộc Cao lan tỉnh Bắc giang

Dân tộc Cao Lan là một trong 2 nhóm ngành của dân tộc Sán Chay. Người dân tộc Cao Lan ở Bắc Giang đều tự nhân mình là một tộc người thuộc dân tộc Cao Lan, tiếng dân tộc gọi là hờn bản. Nguồn gốc của người Cao Lan ở Bắc Giang là từ Quảng Đông, Quảng Tây, Dương Châu, Quế Châu Trung Quốc.
Người dân tộc Cao Lan ở Bắc Giang tập trung chủ yếu ở 4 huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế cũng như dân tộc Cao Lan ở các huyện khác thì người dân tộc cao lan ở Sơn Động đã và đang gìn giữ được truyền thống văn hóa vốn có như hát sình ca, các nghi lễ trong các phong tục tập quán ma chay cưới hỏi. Trong đó đám cưới của người dân tộc Cao Lan được tổ chức khá đôc đáo mang nhiều ý nghĩa.
Nói tới đám cưới của người dân tộc Cao Lan thì thành phần vô cùng quan trong và không thể thiếu là thầy tào còn được gọi là thầy cúng và Tráng Mòi còn được gọi là thầy mai mối.
Đám cưới của người dân tộc Cao Lan được diễn ra trong 2 ngày một đêm với rất nhiều thủ tục và nghi lễ khác nhau như lễ đặt trầu, lễ dạm ngõ, lễ đặt ghánh và cuối cùng là lễ rước dâu.
Cũng giống như phong tục của các dân tộc khác thì lễ cúng gia tiên này là lễ không thể thiếu trong mỗi gia đình đặc biệt là dịp cưới xin. Để tiến hành lễ cúng gia tiên chu đáo thầy tào phải chuẩn bị các bài cúng khá tỷ mỷ công phu với những nội dung phù hợp như cúng xin tổ tiên phù hộ khi đón dâu cúng xin tổ tiên chở che cho đôi bạn trẻ, cho gia đình co thêm thành viên mới cho gia đình làm ăn phát đạt.
Trong ngày cưới một phần lễ cũng khá quan trọng và độc đáo được thầy tào thực hiện trước khi đến nhà gái đó là lễ mở đường với ý nghĩa là xua đuổi tà ma che chở cho đoàn đón dâu trên hành trình không bị ma quỷ quấy rầy cản trở. Theo phong tục của người Cao Lan thì phần lễ mà nhà trai phải mang tới nhà gái thường là 2 con gà trống, 2 con gà con đã được làm sẵn, 2 bánh dầy to được dán giấy đỏ có ngôi sao năm cánh gọi là ẹt sầy, 4m vải trắng, người Cao Lan gọi là “cẩm lây”. Ngoài ra còn có những phần lễ khác như cau, trầu, rượu, thuốc, bánh kẹo
Có thể nói sự đặc biệt trong lễ cưới của người dân tộc Cao Lan chính là nghi lễ chặn đường của nhà gái. Tức là khi đoàn đón dâu đến thì không được vào nhà luôn mà phải hát đối đáp với nhà gái những câu hát sình ca một lối hát dao duyên đặc trưng của người Cao Lan. Và rồi những câu hát Xình ca được nhà trai thể hiện đã thuyết phục được nhà gái mở đường cho vào đón dâu.
Trước sự chúc phúc của quan viên 2 họ thầy tào đã làm lễ xe duyên cho cô dâu và chú rể. Đó chính là một lễ tơ hồng, một nghi lễ không thể thiếu trong đám cưới của người dân tộc Cao Lan, bởi người dân tộc Cao Lan quan niệm khi kết tơ hồng cho đôi vợ chồng trẻ cũng giống như một sợi dây để kết nối họ để họ hạnh phục sống bên nhau tới đầu bạc răng long con cháu đầy đàn.
Có thể nói những nghi lễ, những phong tục của người dân tộc Cao Lan nói riêng và các dân tộc VN nói chung thật đáng để cho thế hệ chúng ta lưu truyền và gìn giữ góp phần văn hoá giúp dân tộc VN đựơc bay cao bay xa hơn nữa trong bầu trời văn hoá nhân loại.

 Vi Đức Hồi (sưu tầm)