Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Tày
Showing posts with label ₪ Dân tộc Tày. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Tày. Show all posts

Wednesday, May 17, 2017

Nghệ An: Chuyện ít biết về tộc người Tày Poọng ở Tương Dương (Minh Phượng)

Một góc thủ phủ đồng bào Tày Poọng.

Người Tày Poọng ở bản Phồng (thuộc xã Tam Hợp, huyện miền núi Tương Dương, Nghệ An)
sống biệt lập bởi núi rừng hiểm trở bao quanh và chia cắt. Tuy ít người nhưng xung quanh bản làng người Tày Poọng này có vô vàn câu chuyện ly kỳ từ bao đời, nay còn để lại.
Lay lắt trong rừng sâu

Tộc người Tày Poọng hiện đang sống tập trung rải rác ở hai xã Tam Hợp và Tam Quang (thuộc huyện miền núi Tương Dương, Nghệ An). Do cuộc sống của con người phát triển với thời đại nên những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc này ở một số bản làng đang dần mai một. Nhưng riêng ở bản Phồng (thuộc xã Tam Hợp), đến giờ người Tày Poọng vẫn còn lưu giữ những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc mình mà hiếm tộc người nào còn lưu giữ được.
Từ trên đỉnh Trường Sơn nhìn xuống, bản Phồng thăm thẳm, heo hút và nằm lọt thỏm giữa thung lũng núi rừng trùng điệp. Những ngôi nhà gỗ thưa thớt mọc lên dọc dòng khe Cặt trông rất bình yên. Vì ở biệt lập với bên ngoài nên cuộc sống của bà con chủ yếu là tự cung, tự cấp. Để có cái ăn, ngày ngày bà con phải lên rừng đào củ mài, săn bắn, hái lượm, mò cua, bắt cá ở dưới các con khe, con suối. Người Tày Poọ̣ng nổi tiếng với tài bắt cá bằng tay không ở dưới nước. Vì thế, ngày đêm bên các dòng khe Cặt, khe Mằn, khe Càn Tà…, người dân thường xuyên đi bắt cá.
Buổi sáng ở bản Phồng, nhiều người Tày Poọng xách cá vừa đánh bắt dưới khe mang ra trung tâm xã Tam Hợp để bán lấy tiền, đổi thực phẩm khác. Ngoài tài giỏi nghề bắt cá dưới khe, đàn ông Tày Poọng cũng rất thạo nghề săn bắn. Tuy nhiên, gần đây, do cán độ địa phương tuyên truyền không được săn bắn động vật hoang trong rừng, vì như thế là vi phạm pháp luật, người dân bản Phồng không ai hành nghề này nữa mà chuyển sang săn mật ong rừng.
Chị Lo Thị Hải – một người dân bản địa – cho biết, mùa này đang là mùa săn mật ong. Vì thế, ngày nào bà con cũng kéo nhau vào rừng kiếm tổ ong vắt lấy mật. Chị Hải tiết lộ, mật ong rừng ở vùng núi này rất ngon, nhưng bây giờ đang dần khan hiếm, vì người dân nơi khác cũng ồ ạt vào khu vực này để săn bắt.
Một cán bộ xã Tam Hợp cho hay, người Tày Poọng không biết canh tác nông nghiệp như một số dân tộc khác. Họ sản xuất manh mún, công cụ thô sơ và chẳng hiểu gì về kỹ thuật. Do vậy, bản Phồng thường xuyên thiếu đói lương thực. Nhiều năm, đồng bào phải ăn ngô, ăn sắn với cá và mật ong kèm theo các loại hoa quả, rau củ trong rừng. Trước cuộc sống lay lắt của tộc người nhỏ bé này, năm 2007, Đảng và Nhà nước ta cho mở một con đường nối liền từ trung tâm xã Tam Hợp vào tới bản Phồng dài gần 5 cây số. Ngày mở đường vào bản, hầu hết bà con nơi đây bỏ rừng, bỏ nương rẫy để kéo nhau ra xem chiếc máy xúc đang ngoạm từng mảng đất, thúc từng gốc cây to đổ ràn rạt. Với người Tày Poọng ở bản Phồng, đây là lần đầu tiên họ được chứng kiến chiếc máy xúc hiện đại nhất trong lịch sử.
Ông Moong Hợi – nguyên Phó Bí thư Huyện ủy Tương Dương – tâm sự, có đường đi, khi ấy mới có cán bộ vào hướng dẫn bà con trồng lúa, chăm sóc và bảo vệ rừng. Đến nay, tuy cuộc sống có bớt phần khó khăn nhưng bản Phồng vẫn còn nghèo, nghèo nhất miền tây xứ Nghệ. Hiện tộc người Tày Poọng ở bản Phồng có chưa đầy 500 khẩu, với 115 hộ gia đình. Thường những ngày giáp hạt, hễ có tiếng người lạ hay đoàn cán bộ vào bản, thế nào người dân cũng chạy ra đầu ngõ lóng nga lóng ngóng trông chờ và hy vọng có quà cứu trợ. Vì cuộc sống của đồng bào quá đói nghèo và lạc hậu, nên hằng năm chính quyền địa phương cũng như một số tổ chức nhân đạo có ghé bản làng thăm và hỗ trợ lương thực.

Người dân Tày Poọng ở bản Phồng vẫn chưa thoát nghèo đói.

Kỳ lạ tục tang ma
Chúng tôi có mặt ở bản Phồng đúng vào những ngày gia đình ông Lo Văn Bình gặp đại tang, 4 thành viên trong gia đình vừa mới bị hung thủ Vi Văn Mằn là hàng xóm sát hại. Qua đây, chúng tôi mới được nghe và chứng kiến nhiều tập tục truyền thống vô cùng kỳ lạ của người Tày Poọng. Bước chân vào nhà ông Lo Văn Bình (người sống sót duy nhất của gia đình bị thảm sát) không hề thấy bàn thờ, hương khói cho các nạn nhân vừa mới bị giết hại. Thấy tôi ngạc nhiên, một người dân bản giải thích: “Tập tục của người Tày Poọng ở bản Phồng là vậy đó, không mấy ai làm bàn thờ để bày biện hoa quả, hương khói như các vùng quê khác”.Ông Viêng Văn Thơ – một người con của bản – nói nhỏ vào tai tôi, đồng bào Tày Poọng cũng giống như bao đồng bào khác, rất sợ chết. Vì bà con cho rằng, chết là phải lìa bỏ cuộc sống trần gian, hối tiếc người thân và những gì đã làm ra gắn bó với mình. Vì thế, hôm đám tang vợ và con trai ông Bình, rất đông anh em, bản làng tới đưa đám. Riêng con dâu Lê Thị Yến và cháu trai 8 tháng tuổi được đưa về gia đình bên ngoại chôn cất theo tập tục của đồng bào Tày Poọng. Được biết, khi khiêng quan tài ra khỏi nhà, không ai trong họ tộc nhà ông Bình được khiêng, mà phải nhờ người ngoài dòng họ, vì người Tày Poọng ở đây quan niệm rằng, nếu người nhà khiêng quan tài sẽ bị “con ma” quay về bắt.
Tò mò muốn mục sở thị nấm mồ vừa chôn cất hai nạn nhân xấu số của nhà ông Bình, tôi nhờ một số người dân đưa ra khu vực nghĩa địa, ấy vậy mà không ai trong bản Phồng dám dẫn đi. Thấy tôi khẩn thiết được ra xem nghĩa địa, một thành viên trong nhà trưởng bản Viêng Văn Độ đã hướng dẫn tôi lối đi chứ cũng không dám cùng tôi đi tới nghĩa địa. Khi được hỏi vì sao lại sợ như thế, một số người nơi đây giải thích: Người Tày Poọng có quan niệm, mỗi khi trong nhà hay trong bản làng có người chết, chôn cất xong là thôi, không bao giờ có ai đến mộ người chết nữa. Ai đến đó coi như muốn sống với “thế giới của ma.”
Mặc dù không tin vào “ma” như bà con bản Phồng kể, nhưng khi bước chân vào bãi tha ma của người Tày Poọng ở bản Phồng, cách khá xa khu dân cư, tôi vẫn cứ rờn rợn. Không biết đâu là mồ chôn người chết, trước mắt là một bãi tha ma rộng lớn bằng phẳng, cây rừng mọc rậm rịt đến hoang lạnh. Trước khi vào nghĩa trang, chị Viêng Thị Hà – một người dân bản Phồng – có dặn, từ ngã ba đầu tiên của đường vào bản Phồng, rẽ trái theo con đường mòn hun hút cỏ lau và cây cối um tùm, cứ thế mà đi tới; nếu khi nào thấy hai bãi đất mới lấp, đó là khu vực nhà mồ mới chôn cất hai mẹ con bà Viêng Thị Chung và anh Lo Văn Thọ.
Sau khi chôn cất các nạn nhân, người dân bản Phồng liền trồng một số cây cối xung quanh mộ. Người bản Phồng quan niệm rằng, rừng cây xanh tốt là nhà, các cây leo quanh cây cổ thụ là rau, trầu cau và các loài hoa quả và muông thú là thực phẩm của người quá cố. Vì thế, trên đường đi vào lãnh địa bản Phồng, nếu không thạo người lạ dễ đi trên nhà mồ của người đã khuất.

Bãi tha ma của người Tạy Poọng.

Lấy được vợ, nợ cả đời
Vào tới bản Phồng, gặp một thanh niên khoảng chừng 20 tuổi, tôi hỏi thăm và tìm hiểu về sự việc nhà ông Lo Văn Bình, lập tức chàng thanh niên này nói: “Nhà ông ấy thì em biết, nhưng sự việc thì không rõ vì em cũng chỉ là người nơi khác đến đây ở rể”. Lân la câu chuyện mới biết, chàng trai này có tên là Vang Phi Thơ (quê ở một bản làng khác cũng thuộc xã Tam Hợp). Từ lâu, chàng trai này đem lòng yêu mến cô gái con của một gia đình người Tày Poọng ở bản Phồng. Để cưới được vợ, có khi cả đời này anh chàng cũng không trả hết nợ, vì tục cưới hỏi của người Tày Poọng vô cùng tốn kém. Chưa có tiền rước vợ về bản nhà, Vang Phi Thơ phải đến nhà cô gái Tày Poọng này ở rể một thời gian, khi nào có đủ điều kiện mới tổ chức đưa người bạn đời về nhà mình.
Một số người dân cho biết, muốn cưới được con gái ở đây thì phải đáp ứng đủ điều kiện do nhà gái đặt ra. Lễ ăn hỏi phải tổ chức ba lần. Còn khi tổ chức lễ cưới, nhà trai phải chuẩn bị lễ vật là hai con lợn, ba trăm con cá mát, làm thịt xong ủ chua bỏ vào trong ba cái sọt; sáu con gà, một chiếc váy, một cái áo, một chiếc khăn trùm đầu, một đôi khăn thắt lưng, một đôi chiếu, hai vòng tay được làm bằng bạc, một bình vôi, một vò rượu siêu, một bộ chân chài, mười lăm bát cơm, ba ống nứa gạo nếp, củi đuốc kèm theo một số vật dụng khác… để nộp cho nhà gái.
Một số người dân than thở, tục cưới hỏi của đồng bào Tày Poọng trở thành gánh nặng cho người đàn ông, vì tất cả lễ vật, chi phí nhà trai phải đứng ra gách vác, nhà gái không phải lo bất cứ thứ gì. Vì đám cưới của tộc người Tày Poọng vô cùng tốn kém nên lâu nay ở bản Phồng không ít chàng trai nhà nghèo, không có điều kiện cưới vợ, đã phải đi ở rể từ 3-5 năm mới được rước vợ về nhà.
Có một tập tục kỳ lạ rất giống với người Đan Lai và đi ngược lại với khoa học mà cho đến bây giờ người Tày Poọng vẫn chưa từ bỏ. Đó là mỗi khi các bà mẹ vừa sinh con, thế nào hài nhi cũng được đưa ra bờ suối để tắm (tiếng bản địa gọi là “uồm”). Quan niệm của đồng bào Tày Poọng là để rèn luyện cho đứa trẻ thích nghi với môi trường thiên nhiên, để khi lớn lên đứa trẻ có thể khỏe mạnh, đủ sức đánh đuổi thú rừng, chống chọi với khí hậu hà khắc nơi rừng thiêng nước độc.
 Minh Phượng

Đặc sắc Tết Tày (Vân Phạm)

Người Tày vui lễ hội Lồng Tồng

Khi những cánh hoa đào, hoa mai hé nở báo hiệu mùa Xuân về cũng là lúc đồng bào các dân tộc khắp dải biên giới phía Bắc đang nhộn nhịp chuẩn bị đón Tết Nguyên đán.
Cũng như các dân tộc anh em khác, đối với người Tày, Tết Nguyên đán là lễ Tết quan trọng nhất trong năm. Mặc dù, giờ đây cuộc sống đã ít nhiều thay đổi nhưng bản sắc văn hóa và hồn cốt dân tộc của đồng bào Tày vẫn được gìn giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Tỏ lòng thành kính với tổ tiên
Từ xa xưa, người Tày đã rất coi trọng Tết cổ truyền. Thông thường thì ngay sau rằm tháng 7 âm lịch, đồng bào đã lo tích trữ, chuẩn bị cho Tết như vỗ lợn, thiến gà, nấu rượu, tích củi. Bởi họ quan niệm rằng, sau một năm làm lụng vất vả, Tết là lúc tạm gác lại mọi tất bật, lo toan để ăn uống, vui chơi, thăm hỏi nhau. Không khí Tết rộn ràng từ những ngày cuối năm, người ta sửa sang nhà cửa, trang trí cành đào, cành mận, câu đối Tết trên bàn thờ tổ tiên và mổ lợn, thịt gà, làm bánh chưng, chè lam, khẩu sli, thúc théc, mâm ngũ quả, vàng mã cho đêm Giao thừa.

Để đón Tết, cả gia đình người Tày cùng tập trung quét dọn, trang trí lại nhà cửa và bàn thờ tổ tiên. Theo quan niệm của người Tày, ngày Tết trong nhà phải sạch sẽ thì cả năm gặp nhiều may mắn. Khi nhà cửa được dọn dẹp xong họ bắt đầu thịt lợn, thịt gà, thịt vịt, đồ xôi, làm bánh… Mọi công việc đều được làm nhanh chóng để phục vụ cho lễ cúng tiễn đưa năm cũ, đón năm mới và mời tổ tiên về cùng ăn Tết.

Tết của người Tày, công việc quan trọng nhất là thờ cúng tổ tiên và cúng theo từng mâm nhỏ. Bàn thờ tổ tiên (bậc cao nhất) được treo ở góc tường thẳng cửa voóng chính, còn 3 mâm thờ nhỏ hơn đặt dưới ban thờ tổ tiên (là bậc thấp hơn). Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Tày còn thờ vua bếp, thổ công; đây là những vị thần cai quản và trông giữ nơi họ sinh sống nên tất cả các gia đình đều làm lễ thờ trong mấy ngày Tết với mong muốn các vị thần sẽ che chở, bảo vệ cho gia đình. Nếu gia đình nào có cha mẹ mới mất thì phải làm thêm một mâm thứ 4. Trên tất cả các mâm cúng đều được đặt bằng lá chuối gồm có rượu, xôi trắng đồ trứng kiến gói lá dong, thịt lợn, thịt gà và cá suối đồ nõn chuối; ngoài ra, còn có món bánh đặc trưng không thể thiếu trong mâm cỗ cúng là bánh chưng và bánh gio (còn gọi là bánh chì).

Thông thường thì từ khoảng 15 tháng Chạp, các gia đình người Tày sẽ đi xem rồi chọn ngày phù hợp để mổ lợn sau đó mời anh em trong gia đình và trong bản đến cùng chung vui một bữa. Ngày mổ lợn, người chủ nhà sẽ thắp hương lên bàn thờ báo với tổ tiên. Lẫn trong khói hương nghi ngút là lời khấn rì rầm: “Nhờ công lao của tổ tiên phù hộ, gia đình con cháu nuôi được lợn béo hôm nay mổ lợn cúng tổ tiên, mời tổ tiên về ăn Tết phù hộ cho con cháu sang năm mới nuôi được lợn to, trâu bò mạnh khỏe, con cháu mạnh khỏe. Người và gia súc không bị bệnh dịch, trồng cây gì cây ấy lên xanh tốt, làm ăn may mắn, mùa màng bội thu...”.

Khấn xong, gia chủ lấy giấy tiền âm (giấy bản đục lỗ là tiền xu của người âm) hứng để tiền dính tiết lợn và lấy một bát tiết lợn đặt lên bàn thờ trình với tổ tiên. Mọi người đến chơi ăn thịt lợn Tết, vừa ăn uống vừa hát Lướn đối đáp với nhau. người già hát với người già để mời rượu hoặc ca ngợi chúc nhau những lời tốt đẹp. Thanh niên nam nữ hát đối đáp tỏ tình với nhau để tìm người yêu. Bữa cơm Tết thường kéo dài từ trưa hôm trước đến ngày hôm sau. Sau bữa cơm thịt lợn Tết ấy, các dụng cụ lao động sẽ được rửa sạch mang cất gọn vào một góc bếp.

Lấy nước đầu năm
Ngày 30 Tết, gia đình người Tày nào cũng bắt đầu gói bánh chưng. Bánh chưng của người Tày có hai loại, đen và trắng. Bánh đen được làm bắng gạo nếp giã với than cây coong mạ. Vào tháng 9 tháng 10 âm lịch, người ta chặt cành coong mạ để cho khô, đốt lấy than đến Tết mang ra cho gạo vào giã cùng, gạo phủ lên một lớp bột than đen lấy gạo ấy gói bánh được gọi là bánh đen. Gạo nếp gói bánh là loại gạo hạt to, tròn đều, sàng xẩy sạch, không vo hay ngâm nước mà gói khô. Nhân bánh làm bằng thịt lợn thái miếng trộn với hạt thảo quả giã nhỏ, bánh để lâu không bị thiu. Khi vớt bánh buộc vào nhau treo lên dàn không ngâm nước lã. Bánh có thể ăn đến Rằm tháng Giêng. Do thịt ướp với thảo quả nên dù bánh có để lâu ăn cũng không bị đau bụng.

Chiều 30 Tết, nhà nào cũng quét dọn bàn thờ, tỉa chân hương, mổ một con gà thiến làm mâm cơm cúng tổ tiên. Bàn thờ được trang trí hai bên hai cây mía buộc lá kết vào nhau bằng từng khoanh giấy đỏ, một cánh hoa đào nhỏ, một đĩa quả ngọt, chai rượu. Sau Giao thừa, bánh chín thì mang lên bàn thờ đặt hai bên, mỗi bên ba chiếc.

Đêm 30 Tết mọi người trong gia đình đều thức đón thời khắc Giao thừa, chờ gà gáy, người ta quan niệm ai thức trước gà sẽ thông minh sáng dạ nhanh nhẹn, biết tính toán làm ăn no đủ. Do đó ai cũng muốn đón những điều tốt lành ngay từ giờ phút bắt đầu của năm mới. Khi bước sang thời khắc năm mới sau giao thừa, người Tày có tục lệ đi lấy nước mới ở mỏ nước đầu làng hoặc sông, suối, ý nói là bước khởi thủy năm mới tài lộc sẽ vào như nước, mọi sự trôi chảy, thuận hòa quanh năm. Khi đi lấy nước, họ thường mang theo 3 nén hương đến cắm bên cạnh máng và nói lời cảm tạ thần nước.

Mâm cỗ cúng tổ tiên trong ngày Tết của người Tày

Bốn, năm giờ sáng ngày mồng 1 Tết, chủ nhà nấu một nồi chè (thường là gạo nếp trắng và đường) đặt lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó đun một nồi nước hoa đào để mọi người trong gia đình rửa mặt, xúc miệng. Mọi người trong nhà mặc quần áo mới (áo Tết). Bữa ăn đầu tiên năm mới vào sáng mồng 1 Tết là ăn cháo chè, hoặc bánh trôi. Kiêng ăn thịt lợn hoặc mổ gà vào sáng mồng 1 Tết. Theo quan niệm ăn cháo chè hay bánh ngọt có màu trắng là thanh tịnh ngọt ngào đón năm mới với cầu mong mọi điều tốt lành. Sau đó cho trâu bò ăn bánh chưng, trâu bò ăn Tết.

Ăn bữa sáng xong mọi người đi chơi tết, trước hết là con cháu đến nhà ông bà rồi sau đó mới đến chơi các nhà trong bản. Người Tày quan niệm, đi chơi tết cũng là đi mời ông bà, anh em trong họ, trong bản đến nhà mình ăn bữa cơm đầu năm mới. Thanh niên, nam nữ tụ tập nhau đi chơi Tết, tham gia các hoạt động vui chơi như đánh yến, ném còn, đánh sảng, bắn nỏ, kéo co. Sau đó, họ kéo nhau đến chơi ở các gia đình bạn bè uống rượu và hát lướn trong suốt mấy ngày Tết. Gia đình có người đến chơi Tết rất vui họ mời khách uống rượu ăn bánh chưng và thức ăn là thịt lợn, thịt gà từ mổ từ hôm trước.

Nhiều phong tục mang đậm nét nhân văn
Ngày mồng hai là ngày ăn Tết, cũng là ngày đãi khách đầu năm của người Tày. Từ lúc gà gáy mọi người lớn trong gia đình đều thức dậy mổ gà. Khi làm thịt gà, rửa chân và đầu gà mang đến trước bàn thờ hai tay ôm gà ngay ngắn lễ bàn thờ ba lễ khấn tổ tiên rồi cắt tiết. Lấy giấy tiền hứng tiết đặt lên bàn thờ, tiết gà cũng đặt lên bàn thờ mời tổ tiên về ăn mừng ngày đầu năm. Cúng tổ tiên xong, cỗ Tết được bày ra: Cỗ Tết phải đủ 12 món tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Mâm cỗ được sắp xếp theo thứ tự: Ông bà, cha mẹ, chú bác ngồi mâm gần bàn thờ - nơi trang trọng nhất, sau đó đến các con cháu.

Người Tày rất trọng lễ nghi, thế nên phải đợi đến khi ông bà, cha mẹ uống rượu ăn một miếng thịt thì tất cả con cháu, và khách mời mới bắt đầu ăn. Trong bữa cơm tết con cháu lần lượt cúi chúc ông bà, cha mẹ, người trên. Mỗi lần như vậy, ông bà hoặc người bậc trên uống một chén rượu và chúc lại con cháu những lời tốt đẹp động viên con cháu ngày đầu xuân năm mới. Sau bữa cơm đó, mọi người lại tiếp tục đi thăm thân và chúc Tết. Chiều mồng 3 hóa vàng, bẩm báo tổ tiên, kết thúc Tết Nguyên đán và chuẩn bị cho Lễ hội Lồng Tồng (thường được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng Giêng).

Trong suốt mấy ngày tết, người đàn ông trong gia đình phải nấu cơm, cho trâu, cho lợn ăn. Người phụ nữ chăm sóc con cháu, người già, không phải làm việc nhà. Trong ba ngày tết kiêng không được mang cây xanh, kể cả rau xanh vào nhà. Rau ăn trong  ba ngày tết phải hái từ hôm 30 tháng Chạp. Những phong tục tập quán ấy mang đậm nét nhân văn sâu sắc về đạo lý uống nước nhớ nguồn, tình thân yêu đoàn kết thương quý giúp đỡ lần nhau. Tôn thờ tổ tiên, kính trọng ông bà cha mẹ, yêu thương con trẻ, tôn trọng phụ nữ.

Giờ đây, dù cuộc sống có nhiều thay đổi song người Tày vẫn giữ được nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống riêng, đặc biệt trong dịp lễ Tết. Mỗi tục lệ, tập quán thể hiện một nét văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc anh em góp phần tô đậm bản sắc văn hóa dân tộc phong phú và đa dạng của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.

 Vân Phạm

Những nghi lễ chính trong năm của người Tày, Nùng (Hoàng Thị Khuyên)

Những nghi lễ chính của người Tày

Từ những yếu tố tín ngưỡng trên đã hình thành trong xã hội Tày, Nùng nhiều nghi lễ phong tục. Đó là:
- Tết Nguyên đán (từ 1-3 tháng giêng)
- Tết Thanh minh (3/3 âm lịch)
- Tết Đoan ngọ (5/5)

- Tết Thần Ruộng, Thần Trâu (6/6)
- Tết cúng tổ tiên và vong linh (14/7)
-Tết Trung thu (15/8)
- Tết cốm, cơm mói (tháng 9 và 10)
- Tết Đông chí – Bánh trôi (tháng 11 và 12)
Các nghi lễ này vừa tuân theo chu kỳ canh tác nông nghiệp – mùa vụ từ xuân tới hạ và đầu thu, vừa chịu những ảnh hưởng về quan niệm lễ tết của Trung Quốc, tuy nhiên trong đó vẫn biểu hiện rõ sắc thái của văn hóa bản địa Tày, Nùng.
Tết Nguyên đán (Chiêng, vần nèn, Kin chiêng) là mở đầu cho một năm, mở đầu cho thời vụ gieo trồng xuân – hè. Tết chỉ tập trung trong mấy ngày chính bắt đầu từ 30/12 đến mồng 2, mồng 3,(Âm lịch) nhưng nghi lễ này lại kéo dài trong cả tháng giêng. Do vậy mà có tục ngày 1-3 là tết lớn (Chiêng, Kin chiêng), còn ngày 30 /1 kết thúc tháng giêng là Tết nhò (Kin đắp nọi – ăn tết nhỏ).

Tết là nghi lễ mừng năm mới và để thờ cúng, tưởng nhớ tổ tiên. Nên việc chuẩn bị Tết cơ bản là sắm sửa bàn thờ và các lễ vật thờ cúng tổ tiên. Người Tày, Nùng quan niệm rằng tổ tiên trú ngụ ở Thiên đình, đến ngày Kin chiêng (ăn tết) thì con cháu mời tổ tiên về trần gian cùng ăn tết với con cháu. Người ta sắm sửa quần áo mói, sắm sủa lê vật, các món ăn ngon, các loại bánh: bánh chưng, bánh giò, ngũ vị, chè lam, khẩu si, sa cao, thúc … để cúng.
Ở người Nùng chiều tất niên người ta phải làm thịt một con vịt và phải ăn cho kỳ hết thịt vịt, vì loại thịt này là để tống tlễn những điều “xui xẻo”. Sau giao thừa, phụ nữ cùng ra giếng lấy nước mới đem về cúng tổ tiên, còn nam giới thì ra miếu cúng.
Ngày mồng Một tết, người Tày, Nùng kiêng đến nhà người khác, mà thường ở nhà mình nghỉ ngoi. Trưởng họ đi chúc tết con cháu trong họ, “chúc vui, phát tài, tháng giêng năm mói, làm gì cũng được, ước gì cũng thấy”. Họ kiêng sát sinh, không quét nhà. Mồng hai thịt gà để cúng tổ tiên, thổ công và thần cai quản gia súc. Sau đó đi chúc tết và vui chơi tói tận 15/1.
Ở người Nùng, ngày 15/1 là ngày hạ cây nêu “Slíphả khả va nêu” và cũng như ờ người Tày, đến ngày 30/1 lại tổ chức ngày Tết nhỏ (Kin đắp nọi).
Suốt từ mồng ba tết đến hết 30/1, bà con các dân tộc Tày, Nùng tiếp tục ăn tết và vui xuân với tục thăm hỏi nhau, thanh niên nam nữ tổ chức hát giao duyên (Sli, lượn) ở thôn bản, ở chợ phiên…, trong đó lớn nhất phải kể đến hội Lồng Tồng.

 Hoàng Thị Khuyên

VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI TÀY XUNG QUANH BẾP LỬA NHÀ SÀN (Dương Thị Lâm)

Dân Tày là tộc người chiếm đa số trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Họ cư trú tập trung thành những bản nhỏ ở ven các sườn núi, các thung lũng, hay các cánh đồng màu mỡ. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Từ  bao đời nay, Người Tày sinh sống trên ngôi nhà sàn truyền thống, cùng với trang phục, ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán cấu thành bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào, trong đó ngôi nhà sàn đã trở thành niềm tự hào của người Tày và họ đang cố gắng gìn giữ trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay.

Tuy nhiên, người Tày cũng đang mất dần đi những nét văn hoá truyền thống đặc trưng trước đây, kể cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Nếu nền kinh tế trước đây của đồng bào chủ yếu là khép kín, tự cung, tự cấp, tính chất phác thật thà đã nhập vào bản than nó những yếu tố xã hội hoá và người Tày ngày càng thích ứng với các mối quan hệ làm ăn, trao đổi sản phẩm dịch vụ cũng như các mối quan hệ giao tiếp về văn hoá tinh thần. Những chàng trai, cô gái Tày ngày nay không thích mặc những bộ quần áo chàm dân tộc truyền thống, họ cũng không biết dệt vải nhuộm chàm, thêu thổ cẩm như trước đây nữa. Những ngôi nhà sàn truyền thốngđang dần được thay thế, cải tạo đề phù hợp với điều kiện sống mới, nên các giá trị văn hóa truyền thống được hình thành từ lâu đời trong phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền thống cũng đang dần bị mai một đi trong điều kiện nền kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước đang có những biến đổi sâu sắc, kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa dân tộc.
Vì vậy, việc bảo lưu gìn giữ những nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc là điều cần thiết. Trong khuôn khổ bàì viết này sẽ đề cập đến văn hóa ứng xử của người Tày xung quanh bếp lửa nhà sàn nhằm góp phần giới thiệu, quảng bá những nét đẹp văn hóa khu vực miền núi trong hoạt động du lịch.
1.Phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày.
Ngày nay, thói quen sinh sống trong nhà sàn của người dân miền núi vẫn không thay đổi, hầu như mọi hoạt động đều diễn ra ở đây: thờ cúng tổ tiên, tiếp khách, nấu nướng, ăn uống và đồng thời cũng là nơi thêu thùa, dệt vải, dệt chăn, dệt thổ cẩm… Ngay cả sân phơi cũng được bố trí trên sàn, nó là một phần của ngôi nhà và ở vị trí thấp hơn sàn nhà chính từ 1 đến 2 bậc lên xuống, nhằm cách biệt với không gian chính. Phía dưới nhà sàn thường để trống hoặc chỉ quây lại một phần nhỏ để nhốt gia súc, gia cầm.
Bước vào thăm một ngôi nhà của đồng bào Tày, Nùng, chúng ta thấy cửa nhà sàn có thể mở ở trước mặt (có nơi làm cửa ở đầu hồi), cửa chính đặt ở ngay cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi ra bếp hoặc ra sàn phơi. Một số nơi đồng bào trổ cửa ở phía sau hoặc phía trước ngôi nhà. Ðặc điểm ngôi nhà sàn là ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Những phiên nứa quanh nhà có thể chống lên như cửa sổ để đón gió mát.

Ngôi nhà sàn là một kiểu nhà tổng hợp, được sử dụng hợp lý và tối đa để phục vụ đời sống con người. Nhà sàn thường cao từ bảy đến tám mét, chiều sâu từ năm đến chín hàng cột. Trong nhà sàn gác có thể làm ở tất cả các gian và thường được sử dụng đặt bồ dậu, chum đựng các sản phẩm nông sản như lúa, ngô, khoai... Sàn là nơi tập trung sinh hoạt của gia đình. Gầm sàn là nơi để dụng cụ sản xuất như cuốc, xẻng, máy tuốt lúa. Có nơi đồng bào còn để nhốt gia súc, gia cầm (bây giờ nhiều nơi đã bỏ hẳn). Sân phơi thường làm bằng gỗ ván ở trước ngôi nhà, vừa để trẻ con chơi, vừa làm nơi phơi thóc, lúa, ngô khoai đồng thời cũng là chỗ để hóng mát hưởng trăng...

Ngôi nhà sàn thể hiện rõ phong tục tập quán, nền nếp trật tự trong gia đình người Tày, Nùng. Bố cục trong ngôi nhà sàn thường được chia ra làm hai phần theo chiều ngang hay chiều dọc ngôi nhà (tính từ cửa chính), nửa trên (phía gần bàn thờ) gần cửa chính là nơi diễn ra mọi sinh hoạt của nam giới, đồng thời là nơi tiếp khách. Nửa dưới phía sau bàn thờ dành cho phụ nữ. Có nơi bàn thờ đặt ở gần gian kề gian chính giữa, song cách bố trí các thành viên nam, nữ trong gia đình cũng tương tự như thế.

Trong nhà sàn thường có hai bếp, bếp chính và bếp phụ. Bếp thường đặt ngay sau bàn thờ, bếp chính dùng để nấu nướng hằng ngày, còn bếp phụ bên cạnh xây bằng gạch mộc, trát đất dùng để nấu rượu, nấu cám lợn. Những gian cuối cùng để đựng đồ dùng gia đình: chạn bát, thúng mẹt, chum nước ăn... Ở những nơi có điều kiện nước thuận lợi, dân bản thường dẫn mắc một hệ thống máng nước đơn giản bằng cây vầu để đưa nước từ khe suối, đồi về tận sàn nhà. Ðồng bào còn làm một thùng chứa nước bằng thân cây gỗ to, đục rỗng có thể chứa được từ một đến hai gánh nước, nước này dùng để rửa chân tay khi khách lên nhà chơi.

Tập quán của đồng bào Tày, Nùng thường bố trí buồng ngủ như sau: buồng con dâu cả ở gian đầu rồi đến buồng con dâu thứ hai, ba... Con gái nếu chưa lập gia đình sẽ ở buồng cuối, sau buồng các chị dâu. Giữa các buồng được ngăn cách với nhau bằng ván hoặc phên nứa. Tập quán còn quy định bố chồng, anh/ em chồng không được vào buồng con dâu, chị/ em dâu. Nếu có khách con gái, con dâu thường tiếp khách ở trong buồng của mình hoặc bếp. Không tiếp khách ở trên nhà và trước bàn thờ tổ tiên.

Cho đến giờ nhiều nơi vẫn còn tập quán con dâu, con gái không ngồi ăn cơm cùng với bố chồng, anh/ em chồng. Bữa cơm gia đình phải được dọn hai mâm, âu cũng là nét văn hóa độc đáo riêng biệt của những chủ nhân ngôi nhà sàn. Nếu đến Lạng Sơn, du khách sẽ ghé thăm một vài làng Tày cổ ở Văn Lãng, Tràng Ðịnh theo tuyến đường 4A hoặc các làng Tày cổ ở Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn... có rất nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Ngày nay, do những loài cây quý hiếm không còn, nhiều nơi bà con cải tiến ngôi nhà sàn làm tầng dưới thấp hơn hoặc làm nhà bằng các cột xi-măng, sắt thép, nhưng vẫn giữ dáng dấp của ngôi nhà sàn truyền thống.
2.Bếp lửa nhà sàn và các mối quan hệ trong gia đình người Tày.
Bếp lửa nhà sàn của người Tày, ngoài việc là nơi sưởi ấm, nấu nướng, bếp núc của gia đình, bếp lửa còn là nơi phân chia vị trí, vai vế của các thành viên trong gia đình. Từ bếp lửa nhà sàn tỏa ra các mối quan hệ ứng xử tạo thành một hệ thống giao tiếp rất nhịp nhàng, chặt chẽ, thoải mái và được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành sinh hoạt văn hóa vô cùng phong phú, sinh động trong kho tàng văn hóa tộc người của mình.
Dưới một mái nhà sàn có thể chung sông ba hoặc bốn thế hệ ông, bà, cha mẹ, con, cháu. Trong giao tiêp ứng xử của gia đình, vai trò thứ bậc nổi lên rất rõ; thế hệ trứơc; thế hệ kế tiếp; thế hệ sau với các duy danh và các mối quan hệ chằng chịt khác nữa. Về cấu trúc gia đình của người Tày không khác gì những gia đình của người Kinh ở vùng đồng bằng hay thành phố. Tuy nhiên, phép cư xử của người Tày có sự khác biệt chính là ở xung quanh bếp lửa nhà sàn. Bếp lửa nhà sàn của người Tày được đặt ở phần giữa nhà hơi chếch tránh thẳng vào bàn thờ tổ tiên. Theo phong tục của người Tày, bếp lửa là cái mốc, là trung tâm của sự phân định các mối quan hệ trong gia đình. Từ bếp lửa toả ra các mối quan hệ, ứng xử có sắp đặt sẵn theo khuôn mẫu mà các thành viên trong gia đình phải tuân thủ.
Bếp lửa nhà sàn hình chữ nhật, chiều rộng khoảng 1 mét, chiều dài 1,5 mét, đủ để nhóm 2 hai bếp khi cần thiết. Xung quanh bếp được phân định rõ ràng theo bốn phía: Nà Tấư (phia dưới), tính từ của đi vào la vị trí của con dâu, con gái, cũng là nơi để ngồi nấu nướng, bếp núc. Nà Nưa (phía trên) luôn luôn được chải chiếu hoa lịch sự là vị trí dành cho chủ gia đình, đàn ông, con trai, khách quý là đàn ông. Hai bên gọi là Nà Khoang, gồm có Nà khoang đâng (phía trong) dành cho bà, mẹ và khách là đàn bà; Nà Khoang Noóc (phía ngoài) dành cho đàn ông ít tuổi, con rể. Con rể, đàn bà kể cả khách là đàn bà muốn đi vào trong nhà đều phải đi qua Nà Tấư. Vào một gia đình người Tày, gặp những lúc cả nhà ngồi quây quần bên bếp lửa, ta sẽ dễ dàng nhận ra từng thành viên trong gia đình, bởi vị trí ngồi của họ.
Bàn thờ tổ tiên cũng là ranh giới phân định vị trí của các thành viên trong gia đình trong việc ăn, ở và sinh hoạt. Bàn thờ tổ tiên được đặt đối diện với cửa ra vào, chia diện tích ngôi nhà làm hai hần bằng nhau. Phần phía dưới bao gồm cả Nà Khoang, Na tâư  là chỗ ngủ của phụ nữ và bếp núc, phần phía trên, từ Nà Nưa trở lên có cửa sổ thoáng mát (nhà sàn chỉ làm cửa sổ một phía) dành cho đàn ông và khách  quý ngủ, nghỉ. Con gái ở trong nhà có thế ngủ chỗ nào cũng được, nhưng con trai, đàn ông trong nhà không bao giờ ngủ ở phía dưới bàn thàn, ngược lại bà, me, các con dâu không ngủ ở phía trên bàn thờ. Đàn bà ở cữ không được ngồi bếp lửa trong vòng 40 ngày, không được quét nhà trước bàn thờ tổ tiên. Sự phân định và xếp đặt đã đưa nếp sống và hành vi ứng xử của các thành viên  vào nề nếp, hình thành đạo đức tốt đẹp của trong gia đình, tự mỗi thành viên trong gia đình phải thích ứng với nề nếp sinh hoạt đó. Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau rất khuôn phép,cũng từ những khuôn phép đó tạo thành hệ đạo đức chung của cả cộng đồng, rất ít có những hành vi vô đạo đức, hoặc nếu có, thì những nề nếp, khuôn phép đó làm cho nó tự triệt tiêu.
Cũng giông như những gia đình của người Việt, người đàn ông trong gia đình người Tày chiếm vị trí quan trọng, là trụ cột trong gia đình, quyết định các công việc trọng đại như tang ma, hiếu hỷ, giỗ tết, gả cưới và các công việc đối nội, đối ngoại trong thân tộc họ hàng  cũng hàng xóm láng giềng khác, và là người được thừ kế tài sản. Người con dâu trưởng chịu trách nhiệm mọi công việc như chi tiêu, ăn uông và cách sắp đặt, điều phối nguồn nhân lực trong lao động sản xuất (Lùa ké, mé rườn). Những người đàn bà trong gia đình, đặc biệt là con dâu, không kể trưởng hay thứ phải là người có trách nhiệm giữ cho bếp lửa cũng như ngọn lửa hạnh phúc của gia đình luôn cháy rực và ấm áp.
Như vậy, quan hệ ứng xử trong gia đình người Tày rất mạch lạc, không dẫm đạp lên nhau, ít phủ quyết lẫn nhau cộng với những phong tục tập quán tốt đẹp đã tạo nên những nét đẹp tiêu biểu của truyền thống văn hoá của tộc người.
3. Bếp lửa nhà sàn và hệ thống nghi thức trong sinh hoạt lễ tết, tang ma, cưới xin.
Người Tày có rất nhiều tục lệ, trong đó sự sùng bái thần linh và tổ tiên luôn ngự trị trong đầu óc con người, tạo nên những mối giao cảm đặc biệt giữa con người với thần linh được thể hiện bằng một hệ thống những nghi thức ứng xử với thần linh rất mạch lạc, trong đó bếp lửa là trung tâm. Người Tày coi bếp lửa cũng là một vị thần, những gia đình có người làm Mo, làm Then đều pahỉ lập bàn thờ cúng thần lửa (thần bếp). Bếp lửa mang đến sự ấm áp, hạnh phúc, sự làm ăn may mắn, phát đạt, nên bếp lửa không bào giờ tắt. Việc đun bếp cũng có những quy tắc nhất định như: đun củi không được cho ngọn vào trước, sợ cây trồng sẽ không mọc được, đàn bà sẽ đẻ ngược; nhà có tang không được đun củi lấy từ những cây mà họ cho rằng có thần linh trú ngụ như cây Si, cây Móc; không được đun rơm, rạ sợ đốt mất hồn lúa….Nếu người Kinh cho rằng ngày 23 tháng Chạp là ngày Ông Táo về chầu Trời, thì người Tày lại lấy ngày Tết Nguyên đán là ngày ông Táo về chầu Trời. Ngày 30 tết, sau khi cúng lễ tất niên song, bếp lửa được nghỉ đến 3 giờ sáng ngày mùng Một , không ai được đun nấu gì trong thời gian đó, để vua bếp lên Thiên đình báo cáo công việc của gia đình. Người ta cho một cái kiềng ba chân đặt ngược ở dưới bàn thờ cúng Thổ Công (người Tày cúng Thổ Công ở góc nhà). Sáng mùng Một tết gia đình phải làm lễ khai bếp, người đàn ông chủ gia đình (ông bố hoặc con trai trưởng) duy nhất một lần trong năm dậy sớm đi lấy nước thiêng ở đầu nguồn hoặc giếng thần về nhóm bếp, đun nước lá thơm cúng tổ tiên và cho cả gia đình rửa mặt, chúc cho cả gia đình một năm mới mạnh khoẻ, bình an. Còn lại quanh năm người con dâu hoặc con gái lớn có trách nhiệm dậy sớm hơn mọi người, nhóm bếp đun nước ấm để cả nhà rửa mặt, đồng thời giữ cho bếp đỏ lửa đến khi kết thúc một ngày làm việc.. Người con dâu khi về nhà chồng, việc đầu tiên là đi qua bếp lửa chất một que củi vào bếp mới được đi vào buồng. Con gái lớn lên, khi đi lấy chồng hải vái lạy tổ tiên, lạy Nà táng ( cửa sổ) và lạy bếp lửa mới được bước ra khỏi cửa. Tục lệ này rèn luyện, giáo dục cho người phụ  nữ Tày phẩm chất chăm chỉ, chu đáo, đảm đang. Mặt khác, cũng thể hiện sự phân công rõ ràng trong gia đình và khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ trong việc giữ gìn, chăm lo bếp lửa luôn được cháy sáng, cũng như việc chăm lo cho hạnh phúc gia đình luôn được thắm đượm.
Hệ thống giao tiếp ứng xử của người Tày bao gồm các khuôn mẫu ứng xử trong gia đình, họ hàng thân tộc và lễ hội… tạo thành một cơ cấu tổ chức quan hệ, giao tiếp nhịp nhàng, hợp lý. Trong phạm vi giao tiếp của cá nhân, gia đình xung quanh bếp lửa nhà sàn đã vẽ nên bức tranh phong phú, đặc sắc về đời sống văn hóa của tộc người Tày. Tiếc rằng ngày nay, do ảnh hưởng của công cuộc đổi mới về văn hóa trong việc xây dựng làng văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa và đặc biệt là phong trào xây dựng nông thôn mới đang được triển khai, do nhận thức hạn chế của nhiều cán bộ công chức cấp cơ sở trong việc vận động các phong trào này làm cho rất nhiều ngôi nhà sàn cổ đã bị biến dạng ở nhiều địa phương. Bếp lửa đã được tách đưa ra khỏi nhà, thay vào đó là tủ lạnh, bếp ga, ghế sa lông hiện đại ….Điều đó đã làm thay đổi và mất dần đi những nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào Tày.

Dương Thị Lâm

Lễ hội đua cá xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, Hà Giang ( Quang Chung)

Cá chép được bắt từ ruộng
Lễ hội đua cá là lễ hội truyền thống của dân tộc Tày xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Được tổ chức vào dịp tết cơm mới 9/9 âm lịch hàng năm (còn được gọi với cái tên Tết cá). Lễ hội khởi nguồn từ tập quán canh tác lúa nước với tập tục nuôi cá chép ruộng của đồng bào Tày nơi đây. Vào ngày này khi các gia đình bận rộn chuẩn bị cho lễ cúng cơm mới thì những đứa trẻ cũng được bố mẹ cho vui chơi thoải mái. Trò chơi mà chúng yêu thích là đem những con cá chép to đẹp bắt từ ruộng nhà mình ra một đoạn suối xếp đá cuội thành đường đua cá.

1 Ca chep ruong chuan bị cho tet ca

Lễ hội bắt nguồn từ trò chơi của những đứa trẻ



Những năm gần đây trò chơi này dần phát triển thành lễ hội, được cộng đồng hưởng ứng. Cá chép được bà con thả vào đồng ruộng sau khi cấy lúa, cá cứ thế sinh sống và trưởng thành cho đến khi lúa được thu hoạch thì cũng là lúc bà con bắt và tuyển chọn những con cá to, khỏe đem đến lễ hội. Những “vận động viên cá” được người chủ buộc một đầu sợi chỉ vào vây lưng, một đầu buộc vào con thuyền nhỏ làm bằng xốp hoặc cây sậy, sau đó đặt cá vào vạch xuất phát theo đường đua riêng. Khi trọng tài phất cờ báo hiệu, người chủ cá sẽ hất nước thúc cho cá bơi ngược dòng tiến về đích. “Vận động viên cá” nào bơi về đích trước tiên sẽ giành được chiến thắng.
Một phần không thể thiếu trong ngày cơm mới của người Tày ở Mậu Duệ là các món ăn được chế biến từ cá. Vào ngày này trong mâm cơm sẽ không thể thiếu món truyền thống như cá om măng chua, bánh chưng nhân cá, nộm cá… Tất cả các món ăn đều được chế biến từ cá để thắp hương cảm tạ đất trời đã cho mùa màng bội thu, thưởng thức món cá chép ruộng là thưởng thức những tinh hoa của đất trời và cầu khấn sang năm sẽ mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản làng êm ấm.





Các món ăn chính được làm hoàn toàn bằng cá chép ruộng

Năm nay UBND xã Mậu Duệ đứng ra tổ chức lễ hội đua cá nhằm phát huy nét văn hóa truyền thống của người Tày địa phương, đồng thời giữ gìn và lưu truyền một trò chơi dân gian đẹp mang đậm bản sắc dân tộc trong bức tranh văn hóa đa màu sắc. Qua lễ hội, sẽ thu hút khách du lịch trong và ngoài tỉnh đến với huyện Yên Minh, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch huyện Yên Minh nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung.
 Quang Chung 

Phong tục lễ giải hạn đầu năm của người Tày, Nùng ở Cao Bằng (Khánh Hà)

Thầy pựt làm lễ giải hạn đầu năm.

Đầu năm mới, nhiều gia đình người dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng thường mời then, giàng (pựt), tào… (gọi chung là thầy) về nhà hoặc đến nhà thầy làm lễ giải hạn để giảm bớt các rủi ro, vận hạn, bệnh tật, cầu mong an lành cho cả năm.
Đây là một phong tục, hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến nay, vẫn được bảo tồn, lưu giữ.

Để tìm hiểu về lễ giải hạn đầu năm của người Tày, Nùng tại Cao Bằng, chúng tôi đã trực tiếp đến một số gia đình làm lễ giải hạn trong những ngày đầu năm Bính Thân để “mục sở thị” các nghi lễ giải hạn. Bà Bế Thị Nơm, 72 tuổi, dân tộc Nùng tại xã Độc Lập (Quảng Uyên) vừa mời thầy về làm lễ giải hạn đầu năm cho biết: Hằng năm, sau Tết Nguyên đán, gia đình tôi đều mời thầy về làm lễ cúng giải hạn đầu năm nhằm xua đuổi cái xấu, cầu mong năm mới an lành, mọi việc hanh thông, thuận lợi. Muốn làm lễ giải hạn việc đầu tiên là phải tìm gặp thầy then, thầy pựt để xem ngày lành, sau đó tiến hành chuẩn bị lễ vật và đi đón thầy về nhà để làm lễ. Các đồ lễ để cúng tùy theo mỗi thầy có những yêu cầu riêng và tùy thuộc vào điều kiện mỗi gia đình khi sắm lễ. Nhưng các đồ lễ cơ bản nhất để cúng lễ giải hạn gồm có mâm lễ, để thầy làm lễ để dưới chân bàn thờ gọi là “bâm lẹ” (mâm lễ). Mâm lễ được đặt ở sảnh giữa trong nhà, dưới bàn thờ tổ tiên là nơi diễn ra các hoạt động cúng bái của thầy với 3 hoặc 5 bát gạo sống. Bát gạo ở giữa đặt thêm trứng gà, cắm hương và nhiều hình nhân được cắt bằng giấy, cành hoa, cây... Còn mâm khác để hành lễ, gồm: Thủ lợn, đuôi lợn, chân giò luộc; 1 con gà, 1 con vịt  luộc chín có đủ lòng, mề, tim, gan và tiết; xôi (khẩu nua); 1 miếng thịt lợn luộc; hoa quả, bánh kẹo. Ngoài ra, cần 1 con gà sống, 1 con vịt sống và 1 cây chuối, 1 chiếc thuyền hoa (pè) làm bằng cọng chuối...

Thầy được mời về làm lễ giải hạn là người có khả năng thần giao cách cảm, có thể giao tiếp với thế giới tâm linh, những người đã khuất hoặc dự báo được những vận hạn của người khác thông qua nhãn quan của mình. Họ được các gia đình mời để làm lễ giải hạn, mừng nhà mới, cầu tự, cầu phúc lộc, thọ… Trong lễ cúng giải hạn, nếu giải hạn là thầy then thì vật dụng thầy dùng là cây đàn tính, còn với thầy pựt thì có chiếc quạt và xóc nhạc (nhiều quả nhỏ ghép nối lại với nhau bằng các vòng tròn sắt hoặc đồng). Màu sắc chủ đạo trong trang phục các thầy mặc khi làm lễ là đỏ, vàng, chàm, trắng. Mỗi một màu tương ứng với một vị thần linh. Khi những làn điệu then cổ cất lên với tiếng đàn tính hoặc tiếng xóc nhạc hòa với lễ phục nhiều màu sắc của thầy tạo nên không gian nghi lễ huyền ảo mang đậm dấu ấn tâm linh, là tổng hòa của thiên - địa - nhân.

Theo giàng Bế Sơn Chung - một nghệ nhân then sinh ra trong gia đình có 8 đời làm pựt (giàng), một lễ giải hạn tùy thuộc vào các cúng lễ của từng thầy và ý nguyện của gia chủ mà có các bước tiến hành nghi thức lễ khác nhau. Nhưng trong một lễ giải hạn, các nghi lễ bước chung nhất thường gồm các phần: Nhập môn, thỉnh tướng (bước vào với tổ tiên để báo lên tổ tiên và mời tổ tiên về để con cháu trong gia đình được dâng các lễ vật); bốc mệnh (dự đoán bản mệnh của người để biết được khái quát về công danh tài lộc, sự thọ yểu, thăng trầm, những bệnh tật hay tai họa trong cuộc đời); trừ tà (diệt trừ tà ma, quét sạch những vận xui, rủi ro...); hành yên, lập phú (cầu bình an, tài lộc). Trong đó có nhiều đoạn kể, du ký, vào chợ trời, lên thiên đình. Có lúc có những động thái sa man (ma nhập vào người) nói chuyện với ma, phán quyết với người, kiểu lên đồng một lúc sau trở lại bình thường. Trong lễ cúng giải hạn ngoài những lời then, điệu hát cổ thì thầy sẽ dùng hai thẻ gỗ để gieo quẻ, để xin lộc tới cho gia đình. Nếu như gia chủ thành tâm và âm phần trong nhà tốt thì việc xin quẻ sẽ diễn ra thuận lợi, lễ cúng sẽ diễn ra suôn sẻ và kết thúc tốt đẹp.

Đồ lễ để cúng trong lễ giải hạn.

Lễ giải hạn nói chung cũng như lẩu then, lẩu pựt đều là các hình thức diễn xướng cổ của người dân tộc Tày, Nùng, là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian lâu đời. Với lòng tin thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải hạn nhằm cầu mong một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những người đã khuất và cả thế giới tâm linh đều yên ổn. Họ cần một chỗ dựa tinh thần song không cuồng tín, khi gặp tai họa, ốm đau thì theo quan niệm chung của mọi người “Vô phúc vái tứ phương, ma cũng cầu, thuốc cũng chữa”. Tuy nhiên, hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người dân có những thay đổi nhất định, cùng sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa mới đã tác động đến loại hình dân gian truyền thống này khiến lễ giải hạn đã không còn giữ nguyên ý nghĩa ban đầu của nó, như: Một số gia đình có điều kiện sẵn sàng bỏ ra hàng triệu đồng, thậm chí hàng chục triệu đồng để mời thầy về cúng lễ cho gia đình làm ăn phát đạt; một số gia đình không có điều kiện nhưng vì quá “tín” nên sẵn sàng bán cả tài sản trong nhà để làm lễ; lễ giải hạn bị lạm dụng (làm lễ giải hạn khi làm ăn buôn bán không thuận lợi, mất của, thi cử, lận đận tình duyên...) nên các nghi lễ trở nên rườm rà và tổ chức một cách bừa bãi... Ngoài ra, các thầy then, thầy pựt đang dần ít đi, dẫn tới nguy cơ mai một ngày càng cao. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có lễ giải hạn là việc làm hết sức cần thiết, cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để loại hình văn hóa tín ngưỡng dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc này giữ được nguyên giá trị ban đầu.

Khánh Hà

Bản nhà lá (Việt Cường)

Một ngôi nhà sàn đặc trưng bằng gỗ của người Tày ở bản Tha với mái lợp bằng lá cọ và có ao thả cá Bỗng. Ảnh: Thông Thiện


Bản Tha và Hạ Thành xã Phương Độ (Tp. Hà Giang) được du khách gọi với cái tên đặc trưng là “Bản nhà lá”. Hai bản nằm liền kề nhau với hơn 200 nếp nhà sàn êm đềm bên con Suối Tiên mát lành, cùng với cuộc sống sinh hoạt dân dã của người Tày bản địa đã tạo nên dấu ấn khó quên khi du khách đặt chân đến khám phá nơi này.

Trong cái nắng hè vùng cao vàng như rót mật, chúng tôi được anh cán bộ phòng văn hóa Tp. Hà Giang tên là Thuần dẫn đi tham bản Tha và Hạ Thành. Ngay khi đặt chân đến bản Hạ Thành, chúng tôi đã ấn tượng với những thửa ruộng như những nấc thang dẫn lên núi vàng ươm mầu rơm rạ sau thu hoạch.

Hai bản nằm lừng chừng bên con Suối Tiên quanh năm ăm ắp nước tưới mát cho cánh đồng màu mỡ và phục vụ sinh hoạt của người dân bản, nên nhà nào cũng có ao. Để làm ao, người Tày ở xã Phương Độ chỉ cần vét đất, đắp những viên đá mồ côi thành bờ chắn nước. Ao nhà nào cũng thả cá Bỗng, một loại cá thuộc họ cá Hồi, rất phù hợp với khí hậu địa phương, lại có giá trị kinh tế cao.

Anh Nguyễn Văn Quyền, người quản lý hoạt động du lịch của bản Tha cứ chặc lưỡi tiếc rằng, giá như chúng tôi có mặt ở nơi đây khoảng một tháng trước sẽ được chứng kiến cảnh mùa vụ tất bật của người Tày. Khi vào đến bản, chúng tôi hoàn toàn quên ngay sự chỉ dẫn của anh Quyền bởi những mái nhà sàn lợp lá nằm san sát được xây dựng theo kiểu bàn cờ với những nụ cười thân thiện của người dân bản địa đã như ma lực thu hút ống kính máy ảnh.

Một góc bản Tha nhìn từ lưng chừng núi. Bản Tha có khoảng hơn 100 ngôi nhà sàn lợp lá của người Tày trải dài trong khoảng đất bằng phẳng dưới chân đồi thuộc xã Phương Độ. Ảnh: Việt Cường


Bản Tha và Hạ Thành ở xã Phương Độ có gần 200 ngôi nhà  sàn làm theo kiểu truyền thống của người Tày. Ảnh: Việt Cường


Bên trong căn nhà sàn truyền thống lợp mái cọ của người Tày ở bản Tha. Ảnh: Việt Cường


Những vật dụng sinh hoạt hằng ngày của người Tày như giỏ, lồng được treo quanh nhà sàn. Ảnh: Việt Cường


Quả còn được treo trước hiên nhà sàn của người Tày ở bản Tha và bản Hạ Thành. Trong văn hóa người Tày, quả còn không chỉ là một đồ chơi dùng trong dịp lễ hội mà còn là vật tượng trưng cho sự ấm no, sinh sôi nảy nở. Ảnh: Thông Thiện

Khung cảnh yên bình buổi chiều ở thôn Tha. Ảnh: Việt Cường


Đến bản Tha hay bản Hạ Thành ngoài cảnh đẹp, du khách còn được dạo bước trong một không gian sống rất đỗi yên bình của bà con dân tộc ở nơi đây. Ảnh: Việt Cường

Chúng tôi dừng chân nhà ông lão Nguyễn Đức Thìn ở bản Hạ Thành để nghỉ chân, uống nước. Ngôi nhà sàn bề thế năm gian được xây dựng bằng gỗ lát cách đây đã hơn trăm năm vẫn vững trãi cùng thời gian. “Người Tày ở bản Hạ Thành mình đã chọn vùng đất này định cư lâu lắm rồi. Ngôi nhà này đời bố mình dựng, đến đời mình tính ra chỉ mới 5 lần thay mái lá là ở đến tận bây giờ”. Ông lão Thìn giãi bày. Được biết, mái của những ngôi nhà sàn được lọp bằng lá cọ dày từ  20 – 40 cm, có độ bền từ 5 đến 10 năm.
Ở bản Hạ Thành có 7 hộ kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn ngủ, 9 hộ bán hàng quà lưu niệm và dịch vụ khác, 01 đội văn nghệ dân gian sẵn sàng phục dựng lại các sinh hoạt văn hóa của người Tày bản địa. Ngoài ra bản Hạ Thành có khu du lịch sinh thái Suối Tiên là nơi vui chơi giải trí phục vụ du khách và nhân dân trong vùng.

Ngôi nhà sàn của ông Nguyễn Đức Thìn là một điểm homestay hấp dẫn đối với những du khách ưa thích khám phá văn hóa. Theo phong tục của người Tày, bếp lửa được dựng ở chính giữa sàn nhà, vừa là nơi nấu nướng, trò chuyện, sưởi ấm trong mùa Đông. Ở mạn hiên nhà sàn, từng chồng đệm cỏ, chăn lau được xếp ngay ngắn chờ khách lưu trú qua đêm. Ông Thìn cho biết, người Tày từ xưa rất trân trọng khách đến chơi nhà. Chủ nhà sẽ chuẩn bị những vật dụng tốt nhất, những món ăn ngon nhất để thiết đãi.

Chúng tôi đặc biệt chú ý đến những quả còn sắc màu được treo trước mỗi hiên nhà sàn ở bản Tha và Hạ Thành. Hỏi anh Nguyễn Văn Quyền thì được lý giải rằng, quả còn trong tâm thức người Tày tượng trưng cho sự sinh sôi, phát triển. Trong quả còn là năm loại ngũ cốc gồm, gạo, ngô, đỗ, lạc, vừng được khâu kín bằng vải thổ cẩm. Nếu du khách có hứng thú, các nam thanh nữ tú trong bản sẽ ngay lập tức thành lập một đội ném còn.


Có lẽ, du lịch đã mang lại nguồi thu nhập đáng kể cho người Tày nơi đây nên có khách đến, cũng có nghĩa  là bản làng có hội. “Cơm nếp nương, cá Bỗng nướng và nấu canh chua theo kiểu của người Tày, gà đồi xé phay trộn gỏi, heo đen nướng ống tre cuộn với rau rừng là mâm cơm tiếp khách của bản chúng tôi”. Ông Nguyễn Đức Thìn giới thiệu.

Người dân hai bản ở đây trồng lúa nước và nhà nào cũng dành một không gian sân khá lớn để phơi thóc. Ảnh: Thông Thiện

Những túm bắp ngô hạt to đều được người Tày ở xã Phương Độ treo dưới gầm nhà sàn để làm hạt giống cho vụ mùa sau. Ảnh: Việt Cường

Những chiếc lá cọ phơi bên hàng rào để dành cho việc sửa chữa mái nhà sàn nếu có hư hại. Ảnh: Việt Cường

Sau mỗi mùa gặt, người Tày ở thôn Tha gác rạ dưới gầm nhà sàn để đun nấu và làm thức ăn cho gia súc. Ảnh: Việt Cường

Người Tày ở xã Phương Độ trữ từng bó lúa nếp ngon nhất ngay dưới gầm nhà sàn,
đến dịp đặc biệt mới xay xát rồi đồ xôi thiết đãi khách quý. Ảnh: Việt Cường

Một góc phơi phóng lúa sau mùa gặt thể hiện sự no ấm của người Tày ở xã Phương Độ. Ảnh: Thông Thiện

Khung cảnh rất đặc biệt sau mùa gặt tại bản Hạ Thành. Ảnh: Việt Cường

Ngoài việc canh tác lúa nước, người Tày ở xã Phương Độ còn chăn nuôi dê để phát triển kinh tế. Ảnh: Thông Thiện

Những con đường nhỏ xinh xắn, đan xen từ bản hướng ra ruộng của người Tày ở bản Hạ Thành. Ảnh: Việt Cường

Người Tày ở xã Phương Độ chế biến sắn để phơi khô sau thu hoạch. Ảnh: Việt Cường

Du khách nước ngoài dạo chơi quanh bản Hạ Thành. Nơi đây hiện là một điểm đến hấp dẫn
đối với những ai ưa thích khám phá cảnh đẹp và trải nghiệm văn hóa của người Tày ở Hà Giang. Ảnh: Việt Cường

Dịch vụ homestay ở bản Tha và Hạ Thành có nhiều tiện nghi. Khách ngủ sàn gỗ, to và rộng, vệ sinh tắm nóng lạnh, tuy chỉ có chăn gối mùng màn nhưng rất sạch sẽ. Nhìn qua ô cửa là du khách đã thu vào tầm mắt những đồi cọ, cánh đồng lúa thoáng mát. Ngoài ra, những nhà sàn làm dịch vụ homestay ở hai bản Tha và Hạ Thành đều có wifi, có hướng dẫn địa phương dạy cách chế biến các món ăn truyền thống của người Tày khi khách yêu cầu. Đêm xuống, du khách còn được dịp mê mẩn với đội văn nghệ gồm những thôn nữ trình diễn hát then, hát lếu, múa cấy… đều là những làn điệu dân ca truyền thống được giữ gìn qua nhiều thế hệ.
Việt Cường

Kỳ bí 'đá thiêng' của người Tày ( Đàm Minh Phiếu)

Bếp lửa không những sử dụng để nấu nướng mà còn có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Tày

Ở vùng rẻo cao quanh năm mây phủ của tỉnh Cao Bằng, đồng bào dân tộc Tày đã tồn tại tục lệ thờ “ma bếp lửa” rất độc đáo.
Đối với người dân nơi đây, bếp lửa vừa là chỗ đun nấu vừa hong khô lương thực bảo quản trên bếp mà đến ngày rằm, mùng một âm lịch hàng tháng còn là nơi thắp hương thờ “thần bếp lửa” để xua đuổi tà ma, đề phòng thú dữ và cầu mong sự may mắn, làm ăn thuận lợi.

Độc đáo tục thờ “thần bếp lửa”
Theo phong tục truyền thống của người Tày, khi ngôi nhà sàn được làm xong, việc đầu tiên là rước thần lửa về nhà. Theo các cụ cao niên người Tày ở xã Quang Hán, huyện Trà Lĩnh (Cao Bằng), lửa được sinh ra từ đá nên trước khi về nhà mới phải lên núi cao chọn một hòn đá ở nơi con người chưa từng giẫm chân vào. Sau khi chọn được hòn đá ưng ý, đồng bào mang về đặt ngay bên cạnh bếp để cúng thần.

Hòn đá thiêng này chính là nơi trú ngụ của vị thần bếp lửa trong nhà. Người Tày luôn tin tưởng vị thần này sẽ giữ cho ngọn lửa không bao giờ tắt và mang lại may mắn và hạnh phúc cho gia đình. Tuy nhiên, ngày nay những thế hệ trẻ đã thay thế hòn đá bằng một ống tre để có thể dễ dàng cho việc thắp hương cúng thần bếp lửa vào ngày rằm, mùng một hàng tháng hay những ngày lễ, tết.

Cụ Lưu Văn Sú (76 tuổi) ở xóm Bản Khuông, xã Thông Huề, huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) chia sẻ: “Tôi dựng căn nhà sàn này cách đây mấy chục năm rồi, từ đó đến nay tôi vẫn đặt bếp lửa ở giữa nhà theo đúng phong tục ngày xưa. Nhiều lần con cháu muốn chuyển bếp đi chỗ khác bởi khói bếp nhuốm đen mái nhà nhưng tôi không chịu. Nhà sàn thì phải vậy chứ, mùa đông đến nữa nếu không có bếp lửa thì sao ở được. Trước đây khi chăn không đủ ấm, quần áo không đủ mặc thì mọi sinh hoạt đều ở quanh bếp lửa từ việc ăn uống đến tiếp khách, chỉ trừ lúc đi ngủ và đi nương rẫy còn lúc nào cũng ngồi bên bếp lửa. Giờ mà bỏ đi thì trống trải lắm”.

Theo tập tục truyền thống của đồng bào Tày, việc chăm sóc bếp lửa chủ yếu là do phụ nữ đảm nhiệm. Đối với người Tày, bếp không chỉ là nơi nấu chín thức ăn mà còn thể hiện đức hạnh của người phụ nữ. Vào mỗi buổi sáng, việc đầu tiên của phụ nữ Tày là nhóm lửa đun nước cho cả nhà rửa mặt, đánh răng. Những ngày đầu năm mới, ngày lễ tết việc thắp lửa cũng thể hiện sự biết ơn vị thần bếp, lòng thành kính đối với tổ tiên. Không gian bếp cũng là nơi những người phụ nữ trong nhà trò chuyện, bàn tính chuyện làm ăn chăn nuôi, trồng trọt.

“Bếp của người Tày rất quan trọng và hòn đá là biểu tượng của thần bếp. Trong mắt người Tày chúng tôi, lửa trông rất hiền hòa và mang tính nữ bởi ngày xưa chỉ có phụ nữ mới được chăm sóc “thần bếp lửa” này. Cứ đến ngày đầu năm mới, cuối năm  bao giờ người phụ nữ trong nhà cũng cho vị thần đá này uống ít rượu, ăn bánh và thịt”, cụ Nông Lý Huỳnh (72 tuổi) ở xóm Bản Khuông chia sẻ.

Cụ Nông Lý Huỳnh (72 tuổi) thường xuyên cắt những tờ tiền giấy bản để cúng thờ “thần bếp lửa” dịp lễ, Tết

Với quan niệm như vậy, mỗi khi dựng ngôi nhà sàn mới, chủ nhà bao giờ cũng mổ lợn để dâng cúng bàn thờ tổ tiên, “thần bếp lửa” và mời bà con, họ hàng đến cùng chung vui. Không chỉ vậy, mỗi dịp lễ tết đồng bào Tày còn làm vài chiếc bánh dày mục đích là thờ cúng tổ tiên và thần “thần bếp lửa” để tỏ lòng biết ơn vì mang đến sự linh thiêng, ấm áp cho ngôi nhà. Chính bởi vậy, bếp của người Tày là không gian linh thiêng và thường gắn với nhiều tập tục kiêng kỵ.

Nơi linh thiêng với những điều cấm kỵ
Riêng đối với đồng bào người Tày, ngoài nấu chín thức ăn thì bếp lửa còn là nơi để tiếp khách, là nơi thiêng liêng thờ “thần bếp”, ‘thần lửa”. Chính vì vậy có rất nhiều điều kiêng kị liên quan đến bếp lửa, ngồi cạnh bếp lửa sưởi không được đặt chân lên hoặc xê dịch hòn đá và ống tre cắm que hương vì theo quan niệm của người Tày, đây là nơi trú ngụ của “thần lửa”. Các thế hệ đồng bào Tày đều dặn nhau khi đặt quai nồi lên bếp thì phải đặt theo chiều dọc của ngôi nhà khi đun nấu, bởi đặt chiều ngang là hường nằm của người chết.

Một điều kiêng kỵ khác của người Tày là khi đưa củi vào bếp nhất định không đưa ngọn vào trước vì họ quan niệm, làm như vậy sẽ khiến con gái của gia chủ ngôi nhà đó sinh ngược. Việc làm bếp lửa cũng phải thật chu toàn, cẩn thận không để phạm đến thần linh, gia chủ phải chọn được ngày lành tháng tốt để tiến hành làm bếp. Thông thường, các ngày lẻ tháng chẵn và ngày chẵn tháng lẻ âm lịch đều là các ngày có thể đắp bếp hoặc tu sửa vì họ cho rằng những ngày đó “thần bếp” sẽ về chầu trời.

Khi đắp bếp phải chọn những thanh gỗ lim thẳng và chắc chắn gồm 4 tấm ván gỗ dài 1 mét, rộng 60 cm để tạo thành khuôn. Bếp hình chữ nhật cao 50 phân được hình thành khi được khoét hai lỗ đặt nồi nấu ăn và hai cửa bếp được khoét vừa phải, kín gió khi đun mới không tốn củi.

Gác bếp lửa nhiều tầng của người Tày dùng để sấy khô, bảo quản thịt trâu, bò, lợn, giống cây…

Ông Lưu Văn Nghiệp ở xóm Nà Pò, xã Quang Hán, huyện Trà Lĩnh (Cao Bằng) cho biết: “Để đắp bếp, phải chọn loại đất sét màu vàng mịn, đất mà có lẫn sỏi thì khi đốt lửa hay bị nứt bếp do đá nổ. Có làm cầu kỳ như vậy bếp mới không tốn củi và dùng được lâu dài, mới mong “thần bếp” phù hộ gia đình con cháu mạnh khoẻ, ấm no. Kiến trúc bếp lửa của người Tày rất tiện trong sinh hoạt, và là một nét văn hoá riêng của chúng tôi đã có từ lâu đời. Cho dù ngày nay có bếp ga, bếp điện tiện lợi hơn nhiều. Nhưng bà con vẫn thích và có thói quen sử dụng bếp củi của dân tộc mình”.

Mỗi khi mưa to, gió lớn, người phụ nữ Tày lập tức cầm một nắm đũa đặt vào cạnh bếp lửa, ngụ ý mong “thần bếp” phù hộ cho ngôi nhà được vững chãi trước mưa gió. Đây là cách tổ tiên họ truyền dạy lại để thức tỉnh “thần bếp”, giúp họ tránh khỏi điều không may mắn. Vào mùa đông lạnh giá, khi sưởi lửa đồng bào cũng kiêng không đặt chân lên kiềng, cũng không được khạc nhổ ở xung quanh hay ngồi quay lưng lại bếp lửa vì như vậy sẽ thiếu kính trọng với “thần bếp”. Ngoài ra, khi đưa củi vào bếp đun nấu, bao giờ người Tày cũng để trống “cửa” sau của bếp để đề phòng khi có kẻ xấu đến hại “thần bếp” sẽ phù hộ cho người nhà có lối thoát thân.

Ngày nay, dù cuộc sống của người Tày có nhiều thay đổi và chịu ảnh hưởng bởi sự du nhập nhiều nét văn hoá các dân tộc khác. Tuy nhiên, nhiều phong tục tập quán, tập tục thờ “thần bếp” của người Tày vẫn được duy trì, tạo nên nét văn hóa độc đáo, hấp dẫn du khách mỗi dịp tới thăm bản làng của người Tày. Nhưng trên hết những điều kiêng kị đó, người vùng cao coi bếp lửa là nơi để họ gặp gỡ, chuyện trò bởi giữa không gian của vùng núi cao quanh năm lạnh giá ấy có nơi nào ấm cúng hơn bếp lửa.

Căn nhà của người vùng cao bao giờ cũng ấm cúng bởi bếp lửa lúc nào cũng có ánh lửa hồng. Bên bếp lửa những người già vẫn kể cho con cháu nghe về bản làng, về dòng họ, về phong tục tập quán… như muốn truyền tiếp ngọn lửa của thế hệ cha ông cho thế hệ sau.

 Đàm Minh Phiếu