Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Xinh Mun
Showing posts with label ₪ Dân tộc Xinh Mun. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Xinh Mun. Show all posts

Sunday, April 2, 2017

Lễ hội lộc hoa của người Xinh Mun (Hoàng Minh Khai)

Sơn La: Lễ hội lộc hoa của người Xinh Mun

Trên dải đất biên giới Việt - Lào ở Sơn La, ngoài các dân tộc Thái, Kinh, Khơ Mú sinh sống, còn có khoảng ba bốn vạn bà con Xinh Mun định cư lâu đời. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân sang, sau dịp tết Nguyên Đán,khi hoa đào đã vãn, hoa ban đã nở trắng sườn non, măng đắng đã mọc ngoài rừng, cũng là dịp bà con Xinh Mun, từng nhà từng nhà tưng bừng tổ chức lễ hội Ksai Sa Típ, nghĩa là Lễ hội Lộc hoa, cầu lộc, cầu mùa, cầu phúc, cho con người mạnh khoẻ, mùa màng tốt tươi.

Lễ hội lần lượt tổ chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội kéo dài, nhưng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn, măng đắng đã mọc cao, vì khi ấy mùa làm nương (đầu tháng 4 dương lịch) đã bắt đầu, để không ảnh hưởng đến sản xuất.
Tuy lễ hội tổ chức trong từng nhà, nhưng lại là dịp hội tụ dân bản vì ai cũng tự giác tham gia, ai làm trái lệ dễ bị chê cười, ghét bỏ, thậm chí có thể bị loại ra khỏi cộng đồng.
Gọi là lễ hội nhưng không tốn kém vì được tổ chức đơn giản. Mâm lễ hội, ngoài 2 con gà luộc, một "ếp" xôi gạo mới, 1 đĩa trầu cau, ba chum rượu cần, là 2 bát canh nấu từ hoa ban và măng đắng - một món cúng thần linh, tổ tiên có tính bắt buộc.
Một cây nêu cao 4-5m dựng ở giữa nhà, được trang trí bằng những lá xanh, những cành hoa ban trắng ngần buộc gài kín cây nêu, ngoài ra bà con còn gài thêm những bông lúa nếp vàng được giữ nguyên sau khi gặt mùa năm trước, xung quanh cây nêu có ba vò rượu cần, đặc biệt có từ 3 đến 5 "bàn sang" - 1 loại nhạc cụ được "chế tạo" từ các chum, vò con, bên trong được làm bằng mảnh đồng mỏng, hình tròn đục thủng một lỗ ở cạnh mép nắp, để xỏ dây vào khi gõ một tay cầm dây nâng lên, hạ xuống trên miệng chum, tay bên kia cầm 1 que tre gõ nhịp nhàng lên nắp chum, tạo nên một âm hưởng mang đậm bản sắc dân tộc quện vào tiếng trống, tiếng chiêng lúc bổng, lúc trầm, lúc dịu dàng, khi bùng lên sôi nổi thúc giục mọi người vào hội xoè quanh cây nêu.
Lễ hội được bắt đầu khi chủ nhà (chủ lễ) ngồi nghiêm chỉnh bên cạnh mâm lễ khấn: Hỡi người trông coi ở tầng dưới hãy lên để trông coi cho ta hôm nay làm Lễ Ksai Sai Típ, thần linh hãy bảo vệ, hãy ăn hoa thay cơm, uống rượu thay măng, ăn hương thay hương thơm, ăn hương nếp thay cơm, ăn rồi hãy bảo vệ cho cuộc vui lành mạnh, cho hết ốm đau, cho vui trọn vẹn. Người lớn bảo nhau, trẻ em nghe lời người lớn, được vậy thì ước gì cũng có, sống lâu muôn tuổi, hỡi thần linh hãy bảo vệ hãy ngồi mâm đây ăn thịt, ăn hoa, ăn hương thơm, hãy phù hộ cho con cháu khoẻ như con gấu trong rừng, chạy nhanh như con hoẵng ngoài núi.
Rời mâm cỗ cúng ở góc nhà sàn, chủ lễ bước đến cạnh cây nêu giữa nhà, vít cần rượu nói lời mời tổ tiên uống trước bằng những lời trân trọng, thiết tha: "Hỡi tổ tiên, hôm nay ngày lành tháng tốt, ngày sản xuất đã được nhìn thấy kết quả, con cháu làm lễ hội Ksai Sa típ, tổ tiên hãy đến bảo vệ cho con cháu ăn uống vui vẻ, vui chơi thoả mái, nhưng xin hãy đừng để cho ai uống say làm náo loạn bản mường, cãi cọ nhau làm xấu hổ mọi người, năm nay vui, năm mới vui tiếp, như thế mới vui bản yên mường, ai cũng sống lâu muôn tuổi, gìn giữ cuộc sống, chống lại thú rừng, người xấu quấy phá". Chủ lễ tiếp tục mời thần linh uống rượu: "Hỡi thần linh, bảo vệ ta, hãy bảo vệ ta đến cùng, xin mời thần linh uống rượu cùng ta".
Sau khi mời tổ tiên, thần linh uống rượu xong, chủ lễ trân trọng mời ba "già bản" có uy tín trong dòng họ, trong bản mường, sau đó mời đến con cháu, và toàn thể dân bản đến dự lễ hội uống rượu.
Cùng lúc tiệc rượu bắt đầu là tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc từ nhạc cụ "bàn sang" nổi lên rộn rã, mọi người nắm tay bắt đầu múa xoè xung quanh cây nêu giữa nhà. Khác với xoè Thái êm dịu, nhẹ nhàng, xoè quanh cây nêu lễ hội Lộc hoa rộn ràng, mạnh mẽ, có phần quyết liệt hơn, ồn ã hơn nhiều, xoè múa say sưa, lúc cầm tay nhau, lúc xoè khan, lúc dùng khăn nối vào nhau, tạo thành điệu xoè kéo co (xoè Thái không đâu có). Xoè khoảng 1 giờ, tiếng trống tiếng nhạc trầm dần, họ lại mời nhau uống rượu cần, rồi lại tiếp tục xoè, hết đợt này đến đợt khác, kéo dài đến lúc phương đông hửng sáng mới kết thúc, mọi người hoan hỉ xuồng cầu thang về nhà, để đến tối hôm sau lại đến dự Lễ hội ở nhà người trong họ hoặc cùng mường cho đến khi hoa ban đã tàn, măng đắng mọc cao.
Hoàn toàn khác lễ hội của các dân tộc anh em, lễ hội Ksai sa típ của người Xinh Mun Tây bắc tuy kéo dài nhiều ngày nhưng không ăn uống linh đình, chỉ múa không có hát, vừa giản dị vừa vui, thường được tổ chức từng gia đình, vào buổi tối ấm cúng nên rất vui, thể hiện được bản sắc văn hoá của một dân tộc sống nơi biên giới Việt - Lào xa xôi.

Lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun Sơn La (Hoàng Thị Lân)

Sơn La: Lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun

Ở Sơn La, đồng bào Xinh Mun thường cư trú ở vùng rẻo giữa và rẻo cao, kinh tế chủ yếu dựa vào việc canh tác nương rẫy, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào Xinh Mun theo quan niệm vạn vật hữu linh, họ tin rằng, các cánh rừng, con suối… đều có thần linh cai quản. Do vậy, họ có nhiều nghi lễ nông nghiệp, trong đó nổi bật là lễ hội Mương A Ma (lễ hội cầu mùa). Lễ hội Mương A Ma thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần, diễn ra trong 2 ngày vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn...

Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội Mương A Ma được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì bao gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự lễ hội với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình.
Lễ hội Mương A Ma có phần lễ và phần hội rõ ràng. Phần lễ trang nghiêm, thành kính, thầy mo thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh. Khác với không khí trang nghiêm của phần lễ, ở phần hội, trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi lo toan thường nhật phút chốc tan biến, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh Mun, mang tính nghệ thuật và giáo dục cao như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền… chơi "to miếng" (đấu võ), chơi "giắc klsù" (bắt tổ ong) v.v.
Lễ hội Mương A Ma là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu.

Hoàng Thị Lân

Sunday, July 31, 2016

Dân tộc Xinh Mun cầu mùa (Nông Gia Khánh)

Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào Xinh Mun theo quan niệm vạn vật hữu linh, họ tin rằng, các cánh rừng, con suối… đều có thần linh cai quản.
Người Xinh Mun vui hội.
Lễ hội cầu mùa thường từ 3 - 5 năm mới được tổ chức một lần, vào khoảng từ tháng 11 đến tháng 1 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà, nuôi được nhiều gà, lợn… Lễ hội sẽ diễn ra trong 2 ngày và đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những thầy mo trong bản.

Lễ hội cầu mùa được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình.

Lễ hội cầu mùa có phần lễ và phần hội rõ ràng. Phần lễ trang nghiêm, thành kính, thầy mo thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh.

Khác với không khí trang nghiêm của phần lễ, ở phần hội, trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh Mun như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền, chơi "to miếng" (đấu võ), chơi "giắc klsù" (bắt tổ ong)...

Già bản A Túc bảo rằng, lễ hội này bắt đầu có từ bao giờ thì chẳng ai nhớ được, chỉ biết rằng đã qua rất nhiều đời, người Xinh Mun rất tự hào về nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của mình. Đến dự lễ hội cầu mùa dù là chủ hay khách đều được đối xử bình đẳng như nhau, đều được tham gia vào những sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu. "Ta tin, con cháu mai này vẫn sẽ chung thủy với lễ cầu mùa" - già A Túc nói.
Nông Gia Khánh (sưu tầm)


Trang phục nam giới người Xinh Mun (Hoàng Thị Lê)

-  Áo liền váy (hang tịa) của phụ nữ Xinh Mun mặc trong ngày cưới, may theo kiểu chui đầu (nôn sô), dài 131cm, rộng 58cm. Cổ (co hang) táp thêm vải thổ cẩm cao 10cm. Thân trước (nờ ắc đu kờ dung) có nẹp các loại vải mầu đỏ (kờ nủm), xanh hoà bình (khăn du) và dải vải hoa. Vải mầu táp thêm chạy dọc từ mép cổ áo đến chân váy. Chân váy(khép dung ườn) cao 16cm, bên trên là vải hoa, dưới là vải thổ cẩm Thái, chân váy phía trước có táp hai mảnh vải cắt hình đuôi nheo {phay khăn), dưới hai mảnh vải trắng táp thêm các hình tam giác là vải mầu tạo thành hình sóng nước (phai ruông).
 Khác với các loại áo váy của dân tộc khác, áo váy của người Xinh Mun được trang trí ở mặt trái.
    Chiếc áo này chi mặc trong ngày cưới, sau đám cưới áo được sắp cất đi, đến khi chết áo được lộn lại để mặc cho người chết (tục này có lẽ là sự thể hiện quan niệm âm dương của người Xinh Mun: lúcsống phần trang trí của áo được mặc vào bên trong, lúc chết mới để phần trang trí ra bên ngoài).

TRANG PHỤC NAM GIỚI XINH MUN
    Trang phục truyền thống của nam giới Xinh Mun khá đơn giản. Ngoài bộ quần áo mặc hàng ngày, họ chỉ có thêm chiếc khăn quấn trên đầu, chiếc túi đeo bên người khi đi nương hay xuống chợ.
-   Khăn của nam giới Xinh Mun làm bằng vải nhuộm chàm, dài khoảng 80cm, bằng hai vuông vải. Cách quấn khăn của họ cũng giống như nam giới người Thái Đen, quấn đầu rìu quay ra phía trước trán. Trước đây, thường ngày, nam giới Xinh Mun búi tóc ở phía sau, nhưng khoảng vài chục năm nay họ đã cắt tóc ngắn.
-   Áo truyền thống của nam giới Xinh Mun là loại áo dài tói ngang bắp chân (cũng có nơi chỉ gần tới gối). Loại áo này được may bằng vải dệt sợi bông, nhuộm chàm, màu xanh đen, giống như chiếc áo của nam giới người Thái Đen, Khơ Mú… Nhìn tổng thể, áo nam giới Xinh Mun gần giống chiếc áo dài của đàn ông nsười Kinh xưa kia. Áo may kiểu tứ thân, cổ áo dạng tròn, được maythành nẹp ôm xung quanh cổ khi mặc. Khuy cài bằng sợi, cũng có khi bằng đổng. Dải khuy chạy từ cổ áo, qua vai, xuống nách và chạy dọc sườn trái xuống ngang thắt lưng. Đây là loại áo mặc thêm về mùa đông và mặc trong các dịp đám cưới, lễ tết, hội hè hoặc đám ma.
    Loại áo mặc hàng ngày trước đây của đàn ông người XinhMun là áo ngắn, giống như áo ngắn của đàn ông người Thái Đen. Loại áo này chỉ dàichớm mông, may bằng vải bông, nhuộm chàm, kiểu tứ thân, cổ tròn, mở khuy ở giữa ngực, có hai túi ở hai vạt áo phía trước, hai bên sườn xẻ tà. Khuy áo làm bằng sợi vải, mỗi áo có từ 5 đến 7 khuy.
- Quần (xống) của nam giới Xinh Mun thường may bằng vải nhuộm chàm, dài đến mắt cá chân, ống rộng. Người ta không làm cạp quần để luồn dây rút, mà dùng thắt lưng buộc lại khi mặc.
    Trong những dịp cưới xin, lễ hội nam giới Xinh Mun vẫn mặc trang phục như ngày thường, điều khác chủ yếu là mặc bộ trang phục mới.

Hoàng Thị Lê (sưu tầm)

Một số phong tục lạ của người Xinh Mun (Hứa Ban Mai)

Người Xinh Mun sống ở vùng cao biên giới giáp với Lào có khoảng hơn 10.000 người, tập trung chủ yếu ở tỉnh Sơn La (chủ yếu là các huyện Yên Châu, Mộc Châu và sông Mã). Người Xinh Mun còn sống ở phía đông tỉnh Điện Biên. Có 2 nhánh là Xinh Mun Dạ và Xinh Mun Nghẹt. Xinh Mun Dạ có giọng nói nhẹ hơn, họ sống ở vùng thấp. Còn Xinh Mun Nghẹt sống ở vùng cao hơn. Người ta phân biệt hai nhóm qua ngôn ngữ.
Người Xinh Mun sống ở nhà sàn, nhà có sàn trái và sàn phải. Điều lạ là bên trái hay phải là theo quy ước của mỗi gia đình, dường như người Xinh Mun không có quan niệm phân biệt rõ ràng thế nào là bên trái, bên phải. Hai cầu thang riêng biệt ở gần hai đầu hồi bắc lên hai sàn. Đàn ông ở một sàn. Sàn bên kia dành cho đàn bà, đồng thời là nơi đặt bếp nấu nướng. Khách vào nhà chỉ được đi vào phía sàn dành cho đàn ông.

Buổi sớm đàn bà thường thức dậy từ 4 giờ sáng để giã gạo, đàn ông thì mài dao và chuẩn bị cày cuốc để lên nương. Buổi chiều đàn ông đi săn, đàn bà thổi cơm, cả nhà đoàn tụ vào buổi tối.

Trong nhà người Xinh Mun nào cũng có rượu cần để mời khách, họ thường dùng rượu cần trong đám cưới, làm nhà mới. Khi uống rượu cần, người ta cử ra một người trực tiếp mời rượu, mời từ người lớn tuổi nhất trở xuống. Trong khi uống rượu cần bao giờ cũng có một chậu nước mó (nước suối) để bên cạnh. Rượu hết lại dùng sừng trâu để chế nước mó vào. Tốp cầm cần đầu tiên được đề ra quy ước của cả bữa rượu (uống một, hai hay ba sừng). Nếu uống vờ, khi chế thêm nước rượu sẽ tràn ra khỏi bình, người uống lượt đó sẽ bị phạt uống gấp đôi. Tục uống rượu cần này mang sắc thái riêng của người Xinh Mun, thể hiện tình đoàn kết gắn bó.

Bàn thờ tổ tiên được đặt ở phía cuối cùng trong sàn của đàn ông. Người Xinh Mun ăn tết giống người Kinh, mồng Một Tết có một mâm cơm mời ông bà tổ tiên, có gà, thịt chín (bất cứ thịt gì cũng được, nhưng phải được làm chín). Người Xinh Mun ăn chủ yếu là cơm nắm, cơm lam. Họ kiêng ăn loài thú là vật tổ của dòng họ. Ví như vật tổ của dòng họ này là chim thì dòng họ đó sẽ không được ăn chim, vật tổ của dòng họ kia là khỉ thì không được ăn thịt khỉ.

Lễ cưới của người Xinh Mun được tổ chức làm 2 đợt. Đợt một diễn ra tại nhà gái trong một ngày, sau đó chú rể đón dâu về, sau 3-4 ngày cô dâu về nhà mình. Đến khi nhà trai chuẩn bị đủ 150 kg lợn, 70 kg gạo và 4 chum rượu cần mang đến nhà gái thì mới được cưới đợt 2 và đón dâu về. Thời gian cưới đợt 2 cách đợt một từ 6 tháng đến 1 năm. Nếu không cưới đợt hai cô dâu đã có thai và đẻ ra con gái thì bé gái đó không được về nhà nội mà chỉ khi đẻ được con trai mới được về nhà nội.

Đứa trẻ sinh ra được nằm cạnh mẹ bên bếp lửa 3 hôm sau đó mới dọn về phòng ngủ và làm lễ báo với tổ tiên. Sau 6 tháng hoặc một năm, đứa trẻ mới được người lớn làm lễ đặt tên. Lễ đặt tên thường mời thầy về làm, trên mâm lễ bắt buộc phải có một đôi gà hoặc một con gà và một con lợn. Thầy cúng được tùy ý đặt tên cho đứa trẻ.
Người Xinh Mun không làm giỗ cho người đã chết, không bốc mộ. Nhánh Xinh Mun Dạ chôn người chết ở nghĩa địa do Bản quy định, còn Xinh Mun Nghẹt thì chôn ở đâu cũng được.
Hứa Ban Mai (sưu tầm)

Tổng Quan Dân Tộc Xinh Mun (Hoàng Mạnh Bảo)

1. Vài Nét Về Dân Tộc Xinh Mun
Dân số : 23.278 người (2009)
Ngôn Ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
Tên gọi khác: Puộc, Xá, Pnạ
Nhóm địa phương: Xinh, Mun Dạ, Xinh Mun Nghẹt
Địa bàn cư trú: Sơn La, Điện Biên, Đồng Nai, Nam Định,Hà Nội
Địa bàn cư trú: Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xinh Mun ở Việt Nam có dân số 23.278 người, có mặt tại 22 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xinh Mun cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (21.288 người, chiếm 91,5% tổng số người Xinh Mun tại Việt Nam), Điện Biên (1.926 người), Đồng Nai (10 người), Nam Định (10 người), Hà Nội (10 người).

2.  Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Cây lương thực chính là cây lúa: lúa nếp, lúa tẻ và cây ngô. Người Xinh Mun trông cây lương thực ở trên nương. Đồng bào chia nương làm ha loại dựa vào phương thức canh tác: nương canh tác bằng gậy chọc lỗ, nương canh tác bằng cuốc và nương canh tác bằng cày.
Nương canh tác bằng gậy chọc lỗ thường là nương mới khai phá, trên mặt đất còn nhiều mùn, dùng gậy chọc lỗ để không làm xáo trộn đất, khi gặp mưa, mùn đất ít bị trôi đi, giữ được độ màu mờ lâu hơn cho đất nương.
Phụ nữ Xinh Mun đang thu hoạch lúa (Ảnh sưu tầm)
Nương cuốc là nương khi gieo trồng người ta dùng cuốc đê bố từng hố, rồi gieo trồng xuống hố đó. Nương cuốc, thường là nương đã gieo trồng vài ba vụ. Trên nương này, lớp mùn trên mặt đất đã bị mưa to rửa trôi đi, cho nên cần cuốc sâu hơn xuống đất để khi gieo trồng, cây có cái “ăn”. Chiếc cuốc dùng để làm nương, người Xinh Mun gọi là tha mứn.
Đây là chiếc cuốc có lưỡi dài khoảng 16cm, rộng khoảng lOcm, thuận tiện cho việc canh tác nơi nương dốc, vừa thuận cho việc cuốc hố nho nhỏ để tra hạt, vừa tiện cho việc móc gốc rễ những cây cỏ dại khi làm cỏ cho cây trồng.
Nương cày là nương thâm canh, gieo trồng các loại cây lương thực chính hoặc cây lương thực phụ, các loại đậu đồ. Canh tác trên nương cày, người Xinh Mun dùng trâu, hoặc bò làm sức kéo và thực hiện giải pháp kỳ thuật như: bón phân cho cây trồng, tạo bờ cho nương giữ màu khỏi bị trôi nhanh, nhằm bồi bổ thêm chất màu mỡ cho đất, để ổn định canh tác lâu dài.
Việc thu hoạch ỉúa, trước đây được thực hiện bằng cách dùng nhíp cắt từng nhánh lúa, hoặc chỉ tuốt lúa bằng tay, về sau đồng bào dùng liềm để gặt. Công việc đập lúa được thực hiện ở ngay trên nương. Trước đây, người ta dùng các que tre, que gồ đập trực tiêp vào các lượm lúa, vê sau họ dùng néo.
2.2.  Chăn nuôi
Người Xinh Mun chăn nuôi gia súc, gia cầm trong từng gia đình. Vật nuôi là những con trâu, bò, lợn, gà, dê. Đồng bào nuôi trâu, bò để kéo cày, lấy phân bón ruộng, bán. Trâu, bò thường được coi là một nguồn tài sản của gia đình. Nhà giàu có thường nuôi nhiều trâu, bò. Lợn. gà, dê,… được nuôi để phục vụ các nghi lễ tôn giáo, kết hợp sử dụng làm thực phẩm trong các dịp lễ tết, hội hè. Trước đây, người Xinh Mun chủ yếu chăn thả gia súc, gia cầm. về sau dân dàn đã làm chuồng trại cho chúng gần nhà ở. Bên cạnh trồng trọt, công việc chăn nuôi ngày càng được chú ý, có khả năng phát triển.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống ở vùng Tây Bắc, rừng cung cấp cho người Xinh Mun nhiều lâm, thố sản. Người Xinh Mun thu hái các loại rau rừng, măng. nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, củ mài,… Công việc thu hái lâm thổ sản này diễn ra hàng ngày. Sau mỗi buổi chiều đi làm về chị em phụ nữ thường tranh thủ hái rau, củ rừng về làm thức ăn bữa cơm chiều. Rừng Tây Bắc còn là nơi có nhiều thú rừng to nhỏ khác nhau. Nam giới thường săn bắt các loại thú rừng nhỏ: con cầy, con cáo, con khỉ, hoặc các loại chim muông… Mục đích săn bắt, trước tiên nhằm mục đích bảo vệ mùa màng, sau đó là có thêm thịt cải thiện đời sống. Với các loại thú nhỏ các hình thức săn bắt chủ yếu là dùng các loại bầy. Người Xinh Mun còn săn bắn các loại thú lớn: hổ, báo, gấu. Đồng bào hay dùng hình thức săn rình đối với các loại thú lớn này. Với thú lớn, ngoài mục đích bảo vệ con người, bảo vệ gia súc, đồng bào còn dùng xương hổ đế nấu cao làm thuốc bổ, lẩy mật gấu để chữa bệnh, khi một nơi nào đó trên cơ thổ người bị va đập mạnh.
2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề rèn (Ảnh minh họa)
Người Xinh Mun có một số nghề thủ công như nghề đan lát tre, nghề rèn, nghề dệt, nhưng nhìn chung ít phát triển, ở một số bản , người làm nghề rèn, nhưng do bản ít người, nhu cầu rèn ít, cho nên rèn không có cơ hội phát triển. Một số chị em học nghề dệt của người Thái, nhưng rồi cũng không phát triển được, vì đồng bào sinh sống tronc môi trường xã hội Thái, sản phẩm dệt của người Thái nhiều, đẹp, bán ở chợ đù thoả mãn nhu cầu về vải cho cả người Xinh Mun cư trú trong vùng. Nghề đan lát mây, tre là phát triển hơn cả. Họ đan gùi, đan mâm mây ăn cơm, đan ghế mây ngồi, đan hòm đựng quần áo…. kỹ thuật đan của đồng bào khá tinh xảo. Đồ đan mây, tre gia dụng của đồng bào được bà con các dân tộc trong vùng ưa thích.
2.5.    Trao đổi, mua bán
Sinh sống bằng nền kinh tế tự túc, tự cấp, người Xinh Mun ít tham gia vào hoạt động buôn bán. Vùng người Xinh Mun cư trú không họp chợ. Tuy nhiên, do nhu cầu cuộc sống, đồng bào cũng phải bán một số nông, lâm, thổ sản để lấy tiền mua nhu yếu phẩm như dầu thắp, muối, kim, chỉ thêu, giấy vở cho trẻ em đi học. Người Xinh Mun đem ra chợ bán gà, măng khô, măng tươi, nấm hương, mộc nhĩ. Khách mua các hùng nông sản là những thương lái, buôn bán nhỏ lẻ, chạy chợ từ nơi sang nơi khác trong vùng. Chợ thường họp theo phiên và thường rất xa nơi đồng bào cư trú.
3.  Văn hóa truyền thống
3.1.  Làng
Một góc làng dân tộc Xinh Mun (Ảnh sưu tầm)
Là cư dân nông nghiệp, người Xinh Mun cư trú theo từng bản. Bản của người Xinh Mun được dựng xen kẽ với bản của người Thái. Mỗi làng có khoảng chục gia đình. Trước đây, nơi dựng bản của người Xinh Mun thường là trong các thung lũng có đất đai tương đối
bằng phẳng, tương đôi màu mỡ ở các huyện Mai Sơn và Yên Châu. Mồi bản người Xinh Mun, thường có vài ba người trông nom giải quyết các công việc trong bản và liên hệ trực tiếp với phía tạo người Thái. Các chức dịch này thường là do phía tạo người Thái chỉ định.
3.2. Nhà ở
Người Xinh Mun ở nhà sàn. Nguyên vật liệu làm nhà là gỗ, tre, nứa, lá. Những nguyên vật liệu này sằn có ở trong rừng, chỉ mất công vào rừng chọn, chặt lấy, không mất tiền mua. Sau khi chuẩn bị xong nguyên vật liệu làm nhà, khâu quan trọng là chọn đất dựng nhà. Đồng bào chọn đât dựng nhà thông qua hình thức bói. Có một số cách bói khác nhau: mlò sỏi – bói lạt, mlò sái – bói thẻ, mlò ngò – bói thóc. Trong khi bói người Xinh Mun làm khò xinh – một que tre mỏng, dài khoảng 15 cm. Que tre này được bẻ gập thành từng đoạn, tượng trưng cho linh hồn mồi thành viên trong gia đình. Sau khi đã chọn được mảnh đất làm nhà, gia chủ buộc khò xinh vào một cọc, rồi cắm cọc đó ở chính giữa nền nhà tương lai. Khi làm xong nhà, trong nghi lễ lên nhà mới, tất cả các thành viên trong gia đình ngồi trên sàn nhà ăn cơm, phái ngồi ngay đúng phía trên chính cọc này. Đồng bào tin rằng, ngồi như vậy, con ma trong gia đỉnh mới biết mọi người để che chở. Người Xinh Mun rất kiêng chọn đất làm nhà trên nền nhà cũ.
Ngày khởi công làm cũng được lựa chọn cẩn thận. Theo quan niệm của đồng bào, làm nhà vào ngày nước (thuỷ – các ngày 2, 6, 8, 9 trong tháng) là ngày tốt nhất. Người ta kiêng khởi công làm nhà vào ngày lửa (hoả – các ngày 1, 7). Đồng bào Xinh Mun cũng ít khi làm nhà vào các ngày 3, 5, 10, vì sợ sau này sẽ cháy nhà.
Khi dựng nhà, người Xinh Mun rất coi trọng việc dựng “cột chính”, theo tập quán, chủ gia đình phải mời ông cậu tới dựng cột này. Trên cột chính, đồng bào treo một số hiện vật như: ta leo, khò xinh, ba, bốn vòng lạt nhỏ (tượng trưng cho tiền bạc); con dao, cái thớt, gói muối (mong muốn sự no đủ)… Có nơi, đồng bào còn buộc ở đầu cột chính cà chiếc cũ của chủ nhà (để báo cho ma bếp biết người chủ của gia đình), một vài bông lúa, mai con ba ba (tượng trưng cho âm vật) và một dùi gỗ tròn (tượng trưng cho dương vật). Việc tôn thờ âm, dương vật phản ánh quan niệm phồn thực, mong muốn sự sinh con đẻ cái, mùa màng tươi tốt.
Kỹ thuật làm nhà đơn giản: cột là cây có sẵn ngoãm. chôn cột xuống đât, gác cây que lên, dùng lạt hoặc dây rừng buộc, mái lợp bằng cỏ gianh. Nét đặc trưng của ngôi nhà người Xinh Mun được thể hiện hình thù của mái. Đó là kiểu mái nhà hình mai rùa, gồm hai mái chính và hai mái hồi. Loại mái này cũng gặp ở người Thái Đen trong cùng vùng.
Trong nghi lễ vào nhà mới, ông cậu không chỉ được mời làm, mà còn là người nhóm lửa đầu tiên trên chiếc bếp dùng để nấu cơm Ngọn lửa đó không được để tắt trong suốt đêm cùa buổi lễ. Giữ ngọn lửa cháy liên tục để chứng tỏ rằng, ma bếp phải chiến thắng ma rừng.
3.3. Y phục, trang sức
Người Xinh Mun không phát triển nghề trồng bông dệt vải, cho trang phục của họ bị phụ thuộc vào nguồn vải và thậm chí cả kiểu dáng trang phục của dân tộc cùng sinh sống trong vùng. Vùng Tây Bắc là vùng văn hoá Thái, vì vậy trang phục dân tộc Thái đã ảnh hưởng lớn đến trang phục Xinh Mun. Chính chị em phụ nữ người dân tộc Xinh Mun dùng trang phục Thái để mặc. Do vậy, cơ bản trang phục phụ nữ Xinh Mun giống như trang phục chị em phụ nữ Thái trong vùng, tức là cũng mặc váy, xửa cỏm và khăn piêu.
Nam giới Xinh Mun cũng mặc tương tự như người Thái Đen sinh sống trong vùng.
3.4.  Ẩm thực
Người Xinh Mun, thường ngày ăn cơm rau là chính. Cơm được sử dụng nhiều là cơm nếp. Cơm nếp nương được đồ một lần vào sáng sớm để ăn cả ngày mà vẫn dẻo. Rau thường dùng là rau rừng, thu hái từ rừng theo mùa, mùa nào thức ấy. Mùa xuân thường hái các các loại hoa, lá cây rừng; mùa hè thu thường hái quả, củ. Nhiều dân tộc ở Tây Bắc, trong đó có dân tộc Xinh Mun ít trồng rau xanh trong vườn nhà như các dân tộc ở Việt Bắc, bởi Tây Hắc trước dây còn nhiều rừng, đất rộng người thưa, rừng đủ khả năng cung cấp thực phẩm cho người. Người Xinh Mun cũng ăn thịt, cá, trứng,… nhưng thường kết hợp với việc cúng bái, các dịp lễ hội, tết nhất, hoặc những dịp có khách thông gia, khách quý khác. Lễ hội, tết nhất định kỳ hàng năm, các dịp cưới
Mâm cỗ cúng kiếng của người Xinh Mun (Ảnh sưu tầm)
xin, ma chay, vào nhà mới lúc nào cũng cần có vật hiến sinh, cần thực phẩm nguồn gốc động vật. Để phục vụ nhu cầu hiến sinh trong các dịp này, người Xinh Mun sử dụng những con vật nuôi: gia súc, gia cầm trong nhà. Sau nghi lễ cúng bái, tất cả thịt những con vật đó trở thành thực phẩm cho gia đình và những người tham gia các nghi lễ trên. Ngoài vật nuôi trong gia đình, người Xinh Mun còn sử dụng thịt thú rừng, cá sông, suối. Tuy nhiên nguồn thực phẩm không chủ động được, cho nên chỉ dùng khi nào săn bắt được, không gắn nguồn thực phẩm này với các ngày lễ tết định kỳ trong năm.
Người Xinh Mun cũng thích ăn những món ăn được chế biến tương tự như các dân tộc trong vùng như: ăn sống nhiều thứ rau xanh chấm với ớt, tỏi, muối, mác khen giã nhỏ, ăn nặm pịa, ăn gỏi thịt, gỏi cá, thịt trâu khô.
3.5.  Phương tiện vận chuyển
Cũng giống như những dân tộc ít người khác, người Xinh Mun chủ yếu dung gùi làm vật để vận chuyển hang hóa, nông sản,…
3.6. Ngôn ngữ
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)
Tiếng nói: Tiếng nói của người Xinh Mun thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Do cư trú ở vùng Tây Bắc lâu năm, lại có dân số tương đối ít, cho nên người Xinh Mun trong tiếng nói của mình đã vay mượn nhiều từ tiếng Thái. Trong hệ thống số đếm, người Xinh Mun chỉ còn giữ được các số đếm từ 1 đến 4, những sổ đếm tiếp theo, họ sử dụng hệ thống số đếm của người Thái. Xu hướng sử dụng tiếng Thái trong cộng đồng người Xinh Mun tương đối phổ biến. Cá biệt, ở một số bản, thanh niên và người già đã chuyển sang nói hoàn toàn bằng tiếng Thái. Họ không biết, hoặc nghe được mà không nói được tiếng mẹ đẻ nữa.
Chữ viết: Trong lịch sử, người Xinh Mun chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình. Ngày nay họ dùng chữ Quốc Ngữ trong công việc hành chính. Chữ Quốc Ngữ được thế hệ trẻ tiếp thu qua hệ thống trường học của ngành giáo dục.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Xinh Mun tin vào tín ngưỡng đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật kể cả vật vô tri vô giác đều có linh hồn. Con người cũng có linh hồn, do đó sau khi chết đi phải thờ cúng, gọi là thờ cúng tổ tiên.
Đồng bào Xinh Mun thờ cúng tổ tiên hai đời: bố mẹ và ông bà, Những người chết từ đời cụ trở lên, được coi là một bộ phận cùa ma nương – sui hré, sui cần riếng và ma bản – sui coi. Tổ tiên được thờ ngay trong nhà ở của đồng bào, ở một góc nhà. Nơi thờ được ngăn bằng tẩm phên đan. Bên trong chỗ thờ treo xương hàm lợn giết hôm dựng phên thờ. Trên sàn để một nắp giỏ cơm – cóm khản, trong đó đựng ít trầu, một ồng tre đựng nước buộc vào phên thờ. Người Xinh Mun không làm giò cúng bố mẹ, ông bà đã khuất. Hàng năm, đồng bào cúng tổ tiên vào ngày lễ cơm mới hay các dịp trong gia đình có đám cưới, lễ tết, làm nhà mới,… Người Xinh Mun có tục thờ ma bố mẹ vợ. Nơi thờ bố mẹ vợ là một chiếc lều nhỏ, thường dựng cách nhà ở khoảng độ 15 – 20m. Chiếc lều thờ bố mẹ vợ này gọi là diềng hò. Người ta chỉ cúng ma này khi nhà có người ốm và thầy bói cho biết là do ma bố mẹ vợ đòi ăn, đòi được cúng. Thức ăn để cúng ở diềng hò không được nấu trong bếp gia đình, mà phải nấu ở ngoài sân.
Việc thờ cúng tổ tiên giữa các nhóm Xinh Mun có đôi chỗ khác nhau. Ở nhóm Xinh Mun Nghẹt, mồi anh em trai đã ra ở riêng đều dựng bàn thờ tổ tiên ở ngay trong nhà mình và họ tự cúng lấy, mặc dù họ đều cúng chung ở nhà người anh cà trong ngày lễ cơm mới. Còn ở nhóm Xinh Mun Dạ, chỉ có ngưòi anh cả mới có quyền thờ cúng tổ tiên. Các em trai, mặc dù đã có gia đình, có nhà ở riêng, nhưng không dựng hàn thờ riêng. Khi gia đình em nào có việc cần cúng, phải đến cúng ở nhà người anh cả. Phải chăng đây là hình ảnh của phụ quyền còn phản ánh trong việc thờ cúng trong gia đình?
3.8. Lễ hội
Lễ hội cầu mua của dân tộc (Ảnh sưu tầm)
Người Xinh Mun có dân sổ khá đông, nhưng cư trú phân tán ở lưng chừng núi dọc theo biên giới Việt – Lào từ huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên đến huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Môi trường xã hội ở đây chủ yếu là người Thái, văn hoá Thái, cho nên, các lễ hội của người Xinh Mun cũng có tên là xên bản, xên mường và về cơ bản có nhiều nét tương tự như lễ hội xên bản, xên mường của người Thái, tức là cũng làm lễ tạ ơn trời đất, thổ công, cũngcầu mong trời đất phù hộ cho người khoẻ mạnh, mùa màng tươi tốt, gia súc gia cầm đầy sân, đầy chuồng.
3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình người Xinh Mun là gia đình nhỏ phụ hệ. Đa số các gia đình chỉ có hai thế hệ cùng sinh sống là bố mẹ cùng các con cái của họ. Tuy nhiên cũng có những trường hợp, một số gia đình có thêm ông bà, hoặc có cả các em chưa lấy vợ, lấy chồng của đôi vợ chồng chủ gia đình. Khi những người em đó xây dựng gia đinh thì đương nhiên họ ra ở riêng, gây dựng gia đình mới.
Trong gia đình, con cái sinh ra lấy họ cha, thuộc con cháu nội của họ hàng bên cha. Con trai được kế thừa tài sản cố định (nương) do cha mẹ đê lại, con gái đi lấy chồng hưởng tài sản của nhà chồng, cha mẹ đẻ chỉ chia cho ít của hồi môn, gọi là có. Con trai cũng là người chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, chăm sóc mồ mả của gia đình, dòng họ.
Gia đình người Xinh Mun là gia đình phụ quyền. Người bố trong gia đình có quyền hành lớn. Mọi việc hệ trọng trong gia đình như: sản xuất, làm nhà mới, cưới xin, tang ma, ứng xử với dòng họ, cộng đồng… đều do ông bố quyết định. Sau khi bố chết thì người con trai trưởng chịu trách nhiệm xử lý, giải quyết những việc mà ông bố vẫn làm.
3.10.    Tục lệ cưới xin
Người Xinh Mun theo chế độ hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Những người cùng trong một dòng tộc không được kết hôn với nhau. Theo tập quán, con trai hoặc con gái của dì, có thể lấy con trai hoặc con gái của già; nhưng con chú, con bác lại tuyệt đối nghiêm cấm két hôn với nhau. Tập quán dân tộc chấp nhận hôn nhân “con cô,
con cậu” theo kiểu hôn nhân thuận chiều, tức là con trai của chị gái hoặc em gái, có thể lấy con gái của cậu; nhưng con gái của chị hoặc em gái, không được lấy con trai của cậu.Người Xinh Mun cũng theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững, không thấy hiện tượng đa thê. Dư luận trong chị em phụ nữ cũng không chấp nhận làm vợ bé của người đàn ông đã có vợ.
Sau khi cưới, người Xinh Mun thường có tục ở rể theo thời hạn thoả thuận. Thời gian ở rể thường được thoả thuận từ 6 đến 8 năm. Trong thời gian ở rể, chú rể phải tham gia lao động chính trong gia đình, “học” làm những việc chưa biết làm, chủ yếu là những việc làm nặng nhọc ở trên nương. Het thời gian thoả thuận, chú rể được đưa vợ, con về nhà mình và ở nhà mình cho đến hết đời. Trong quan hệ hôn nhân của người Xinh Mun có trường hợp sau khi cưới, đôi tân hôn cư trú bên nhà vợ suốt đời. Đó là trường hợp nhà gái hiếm hoi, không có con trai kế thừa tài sản và phụng dưỡng bố mẹ lúc tuổi già.
Tục lệ hôn nhân của người Xinh Mun gồm 4 nghi lễ: dạm hỏi, lễ đi ở rể, lễ đón dâu và lễ lại mặt. Nét đặc trưng trong hôn nhân của người Xinh Mun là trong lễ đi ở rể. Trong nghi lễ này, đồng bào có tục, hai vợ chồng phải bỏ tên mình và lấy một tên mới, chung cho cả hai người. Tên mới này do bố mẹ vợ, người cậu đặt, đôi khi còn nhờ thầy bói xem âm dương, rồi đặt tên cho. Tên mới chung cho cả vợ, chồng, nhưng họ van giữ riêng của từng người. Đặt tên chung là tập quán dân tộc, tuy nhiên đó cũng là một hình thức để thắt chặt tính bền vững của chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
Người phụ nữ có mang vẫn đi làm nương, đi rừng cho đến tận ngày sinh. Phụ nữ Xinh Mun thường đẻ ở nhà, cạnh bếp nấu cơm. Phụ nữ quen đẻ ngồi. Người đỡ đẻ là mẹ chồng, chồng hay một bà già nào đỏ trong bản có kinh nghiệm đỡ đẻ đến giúp. Nhau đứa bé được bỏ vào ong tre, đem treo lên cây cao, nơi ít người qua lại. Người Xinh Mun quan niệm rằng, nếu nhau đứa trẻ bị người khác lấy đi, hoặc bị giẫm phải thỉ đứa trẻ sẽ ốm đau, bệnh tật. Đứa trẻ sinh được gần đầy năm, người Xinh Mun mới mời thầy cúng đến làm lễ đặt tên. Trong trường hợp, sau khi đặt tên, nếu đứa trẻ hay ốm, thì phải đi xem bói lại, tìm một tên khác cho bé. Các tên riêng của người Xinh Mun hầu hết là tên Thái.
3.11. Tang ma
Xuất phát từ quan niệm, con người sống không chỉ có phần xác mà còn có phần hồn. Do vậy, khi gia đình có người vừa ngừng thở, người Xinh Mun bắn súng báo tin cho dân bản biết và cũng là để ngăn chặn thần rừng về “bắt linh hồn người chết đi”, cùng lúc đó, một người con trai lay hòn đá ma bếp ném vào chỗ bàn thờ tổ tiên để biểu thị sự giận dữ của ma bếp, trước một thành viên của gia đình bị mất. Khi khâm liệm, người ta lấy nước lá thơm lau mình cho người chết, buộc chỉ hai ngón tay cái, hai ngón chân cái lại với nhau và bỏ vài đồng xu vào miệng người chết. Thi hài được cuốn chặt trong chăn, bên ngoài chăn là tấm cót che kín cả đầu và chân. Người Xinh Mun không dùng quan tài.
Trong đám tang bố, mẹ vợ, con rể có vai trò quan trọng. Sau khi khâm liệm xong, con rể cầm một bó đuốc, được nhóm lên từ bếp đi xuống cầu thang chính, rồi đi đi lại lại phía sau nhà 4-5 lần. Anh ta đốt hai đống lửa trước hai cầu thang, với ý nghĩa muốn ngăn ma rừng vào nhà. Sau động tác mang tính tâm linh này, mọi việc cơm nước đều phải qua tay con rể. Trong những ngày có tang, con rể được bỏ mọi kiêng cấm trước đó đối với bố mẹ vợ. Gia đình được nấu cơm trên bếp sưởi, được đặt tại ninh nằm ngang nhà, được mang lá xanh, thịt sống vào gian khách trong nhà.
Trước khi đem xác người chết đi chôn, con rể mở cót bó và chăn cuốn người chết ra để con cái, họ hàng và người thân từ biệt người quá cố. Sau đó buộc lại như cũ và đặt lên cáng khiêng. Con rể đi vòng quanh 5 lần rồi bước qua xác người chết. Người con trai đặt một quả trứng lên đầu thi hài và khấn: “nếu cha (mẹ) muốn an nghỉ ở đâu thì khi ném quả trứng sẽ vỡ ngay ở đó”. Khiêng quan tài là nghĩa vụ của con rể và anh em rể. Trên đường từ nhà ra đến nghĩa địa, người con trai luôn đi bên cạnh quan tài, một tay người con trai cầm thanh củi đang cháy dở, tay kia cầm dao luôn chém vào không khí nhằm xua đuổi ma rừng.
Ỏ nghĩa địa người con trai ném trứng tìm đất đào huyệt. Huyệt chỉ đào sâu khoảng 0,70 – lm. Xung quanh thành và đáy huyệt, người ta xếp kín những đoạn tre, gỗ, sao cho khi hạ huyệt, thi hài không trực tiếp chạm đất. Trước khi hạ huyệt, người ta lại mở cót, chăn cuốn người chết ra để cắt các vòng chỉ buộc ở cổ tay, cổ chân và cắt hết các khuy áo. Sau khi bó chăn lại, người ta cắt chăn thành từng lỗ theo đúng vị trí các bộ phận trên mặt, để “người quá cố có thể sống ở thế giới bên kia”. Trước khi lấp huyệt, người ta phủ kín mặt huyệt bằng một lớp gỗ như xung quanh, thành huyệt. Sau khi chôn cất xong, mỗi người trong họ hàng nhặt một hòn đá xếp xung quanh mộ. Riêng vợ (hoặc chồng), con rể tự cắt ít tóc lại trước mộ để tỏ lòng thương nhớ người quá cố.
Khi về đến nhà, con rể dập tắt các bếp lửa trong nhà và ngoài sân. Anh ta cùng vợ mang tất cả nồi, ninh ra suối rửa. Rửa xong nồi, ninh, lúc quay trở lại nhà, con rể giả vờ làm người bán ninh, nồi; còn những người trong nhà giả vờ làm người mua ninh, nồi. Tiếp đó con rể “dạy” cả nhà biết cách đặt nồi, ninh lên bếp cho đúng phong tục và tự đốt lửa ở cuối bếp lên. Đen đây đám ma được coi là kết thúc. Con rể lại trở lại thực hiện những kiêng kỵ tối thiểu của mình trong cuộc sổng đời thường.
Người Xinh Mun có tục làm nhà mồ như nhiều dân tộc ở Tây Nguyên và dân tộc Thái cùng sinh sống trong vùng Tây Bắc. Họ không có tục cải táng và tảo mộ.
3.12. Văn nghệ dân gian
Vốn văn học nghệ thuật của người Xinh Mun khá phong phú. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng suốt thời gian dài hàng trăm năm biến động về chỗ ở, về môi trường xã hội, vốn văn nghệ của người Xinh Mun bị mai một nhiều. Người ta có nói có một số làn điệu dân ca, những câu chuyện cố, nhưng tiếng nói cũng đang ở xu hướng mất dần, cho nên cũng khó giữ được những câu truyện cổ riêng của dân tộc. Do vậy, nhìn chung, các nhà nghiên cứu ít khai thác được những nét đặc sắc trong vốn văn nghệ phong phú của đồng bào.

Hoàng mạnh Bảo (sưu tầm)

Dân tộc Xinh Mun (Lý A Sùng)

Tên dân tộc: Xinh Mun (Puộc, Pụa).
Dân số: 18.018 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Vùng biên giới Việt Lào thuộc Sơn La, Lai Châu.
Phong tục tập quán:

Ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi. Thờ cúng tổ tiên và tổ chức cúng lễ ma bản, cúng mường. Họ có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần. Hôn nhân nhà trai phải lo. Sau lễ dạm, lễ hỏi là đến lễ đi ở rể. Khi đã có vài ba con thì nhà trai mới tổ chức đón dâu, lấy chung một tên khác do cậu hoặc thầy cúng đặt. Con theo họ cha. Khi người bố chết, con trai cả giữ vai trò quan trọng. Không có tục cải táng hay tảo mộ.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer.
Văn hoá:
Họ có nhiều nghi lễ và kiêng cữ, có lễ cúng mường hàng năm là lễ chung.
Trang phục:
Trang phục như người Thái, Lào.
Kinh tế:
Làm nương rẫy, hái lượm, săn bắn và chăn nuôi, một số nơi làm lúa nước. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền. Mua bán theo chế độ đổi hàng.

Lý A Sùng (sưu tầm)

Lễ hội lộc hoa của người Xinh Mun ở Sơn La (Hoàng Minh Khuyên)

Trên dải đất biên giới Việt - Lào ở Sơn La, ngoài các dân tộc Thái, Kinh, Khơ Mú sinh sống, còn có khoảng ba bốn vạn bà con Xinh Mun định cư lâu đời. Xinh Mun nghĩa là người ở núi, trước đây còn gọi là người Puộc (Côn Pụa).

Tuy kinh tế chậm phát triển, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng trong cộng đồng Xinh Mun cũng có những nét đẹp văn hoá đặc trưng. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân sang, khi hoa đào đã vãn, hoa ban đã nở trắng sườn non, măng đắng đã mọc ngoài rừng, cũng là dịp bà con Xinh Mun, từng nhà từng nhà tưng bừng tổ chức lễ hội Ksai Sa Típ, nghĩa là Lễ hội Lộc hoa, cầu lộc, cầu mùa, cầu phúc, cho con người mạnh khoẻ, mùa màng tốt tươi.

Lễ hội Lộc hoa được tổ chức vào sau dịp Tết Nguyên Đán, lần lượt tổ chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội kéo dài, nhưng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn, măng đắng đã mọc cao, vì khi ấy mùa làm nương (đầu tháng 4 dương lịch) đã bắt đầu, để không ảnh hưởng đến sản xuất.

Tuy lễ hội tổ chức trong từng nhà, nhưng lại là dịp hội tụ dân bản vì ai cũng tự giác tham gia, ai làm trái lệ dễ bị chê cười, ghét bỏ, thậm chí có thể bị loại ra khỏi cộng đồng.

Gọi là lễ hội nhưng không tốn kém vì được tổ chức đơn giản. Mâm lễ hội, ngoài 2 con gà luộc, một "ếp" xôi gạo mới, 1 đĩa trầu cau, ba chum rượu cần, là 2 bát canh nấu từ hoa ban và măng đắng - một món cúng thần linh, tổ tiên có tính bắt buộc.

Một cây nêu cao 4-5m dựng ở giữa nhà, được trang trí bằng những lá xanh, những cành hoa ban trắng ngần buộc gài kín cây nêu, ngoài ra bà con còn gài thêm những bông lúa nếp vàng được giữ nguyên sau khi gặt mùa năm trước, xung quanh cây nêu có ba vò rượu cần, đặc biệt có từ 3 đến 5 "bàn sang" - 1 loại nhạc cụ được "chế tạo" từ các chum, vò con, bên trong được làm bằng mảnh đồng mỏng, hình tròn đục thủng một lỗ ở cạnh mép nắp, để xỏ dây vào khi gõ một tay cầm dây nâng lên, hạ xuống trên miệng chum, tay bên kia cầm 1 que tre gõ nhịp nhàng lên nắp chum, tạo nên một âm hưởng mang đậm bản sắc dân tộc quện vào tiếng trống, tiếng chiêng lúc bổng, lúc trầm, lúc dịu dàng, khi bùng lên sôi nổi thúc giục mọi người vào hội xoè quanh cây nêu.

Lễ hội được bắt đầu khi chủ nhà (chủ lễ) ngồi nghiêm chỉnh bên cạnh mâm lễ khấn: Hỡi người trông coi ở tầng dưới hãy lên để trông coi cho ta hôm nay làm Lễ Ksai Sai Típ, thần linh hãy bảo vệ, hãy ăn hoa thay cơm, uống rượu thay măng, ăn hương thay hương thơm, ăn hương nếp thay cơm, ăn rồi hãy bảo vệ cho cuộc vui lành mạnh, cho hết ốm đau, cho vui trọn vẹn. Người lớn bảo nhau, trẻ em nghe lời người lớn, được vậy thì ước gì cũng có, sống lâu muôn tuổi, hỡi thần linh hãy bảo vệ hãy ngồi mâm đây ăn thịt, ăn hoa, ăn hương thơm, hãy phù hộ cho con cháu khoẻ như con gấu trong rừng, chạy nhanh như con hoẵng ngoài núi.

Rời mâm cỗ cúng ở góc nhà sàn, chủ lễ bước đến cạnh cây nêu giữa nhà, vít cần rượu nói lời mời tổ tiên uống trước bằng những lời trân trọng, thiết tha: "Hỡi tổ tiên, hôm nay ngày lành tháng tốt, ngày sản xuất đã được nhìn thấy kết quả, con cháu làm lễ hội Ksai Sa típ, tổ tiên hãy đến bảo vệ cho con cháu ăn uống vui vẻ, vui chơi thoả mái, nhưng xin hãy đừng để cho ai uống say làm náo loạn bản mường, cãi cọ nhau làm xấu hổ mọi người, năm nay vui, năm mới vui tiếp, như thế mới vui bản yên mường, ai cũng sống lâu muôn tuổi, gìn giữ cuộc sống, chống lại thú rừng, người xấu quấy phá". Chủ lễ tiếp tục mời thần linh uống rượu: "Hỡi thần linh, bảo vệ ta, hãy bảo vệ ta đến cùng, xin mời thần linh uống rượu cùng ta".

Sau khi mời tổ tiên, thần linh uống rượu xong, chủ lễ trân trọng mời ba "già bản" có uy tín trong dòng họ, trong bản mường, sau đó mời đến con cháu, và toàn thể dân bản đến dự lễ hội uống rượu.

Cùng lúc tiệc rượu bắt đầu là tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc từ nhạc cụ "bàn sang" nổi lên rộn rã, mọi người nắm tay bắt đầu múa xoè xung quanh cây nêu giữa nhà. Khác với xoè Thái êm dịu, nhẹ nhàng, xoè quanh cây nêu lễ hội Lộc hoa rộn ràng, mạnh mẽ, có phần quyết liệt hơn, ồn ã hơn nhiều, xoè múa say sưa, lúc cầm tay nhau, lúc xoè khan, lúc dùng khăn nối vào nhau, tạo thành điệu xoè kéo co (xoè Thái không đâu có). Xoè khoảng 1 giờ, tiếng trống tiếng nhạc trầm dần, họ lại mời nhau uống rượu cần, rồi lại tiếp tục xoè, hết đợt này đến đợt khác, kéo dài đến lúc phương đông hửng sáng mới kết thúc, mọi người hoan hỉ xuồng cầu thang về nhà, để đến tối hôm sau lại đến dự Lễ hội ở nhà người trong họ hoặc cùng mường cho đến khi hoa ban đã tàn, măng đắng mọc cao.

Hoàn toàn khác lễ hội của các dân tộc anh em, lễ hội Ksai sa típ của người Xinh Mun Tây bắc tuy kéo dài nhiều ngày nhưng không ăn uống linh đình, chỉ múa không có hát, vừa giản dị vừa vui, thường được tổ chức từng gia đình, vào buổi tối ấm cúng nên rất vui, thể hiện được bản sắc văn hoá của một dân tộc sống nơi biên giới Việt - Lào xa xôi.

 Hoàng Minh Khuyên (sưu tầm)

Dân Ca Dân Nhạc –Xinh Mun (Sầm Thị Phong)


Người Xinh Mun hay còn gọi người Puộc, người Pụa, là một dân tộc ít người, sinh sống ở Việt Nam và Lào. Ngôn ngữ của người Xinh Mun là tiếng Puộc, thuộc ngữ chi Khơ Mú trong ngữ tộc Môn-Khmer.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xinh Mun ở Việt Nam có dân số 23.278 người, có mặt tại 22 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xinh Mun cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (21.288 người, chiếm 91,5% tổng số người Xinh Mun tại Việt Nam), Điện Biên (1.926 người), Đồng Nai (10 người), Nam Định (10 người), Hà Nội (10 người).

Người Xinh-mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam, chủ yếu ở vùng biên giới Việt-Lào thuộc hai tỉnh Sơn La và Lai Châu của Việt Nam và tỉnh Xiêng Khoảng cùng Huaphan của Lào.

Thiếu nữ dân tộc Kháng (bên trái) và Xinh Mun gặp nhau trong ngày hội.Thiếu nữ dân tộc Kháng (bên trái) và Xinh Mun gặp nhau trong ngày hội.

Người Xinh Mun sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng lúa nếp và ngô là chính. Có loại nương chọc lỗ tra hạt giống, có nương dùng cuốc và có nương dùng cày để canh tác. Một số nơi có ruộng nước. Trước kia người Xinh Mun nuôi trâu, dê, lợn… thả rông, nay nhiều bản đã làm chuồng xa nhà cho súc vật. Hái lượm và săn bắn góp phần quan trọng cho đời sống của họ. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền, họ thường đổi đồ đan cho người Thái, người Lào để lấy một phần đồ mặc và đồ sắt. Người Xinh Mun có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần, thích gia vị cay.

Người Xinh Mun ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi. Trước kia người Xinh Mun sống du canh, du cư, nay họ đã sống ổn định và lập những làng đông đúc. Người Xinh Mun đa số mang họ Lò, họ Vi. Mỗi họ đều có kiêng cữ riêng. Các con theo họ cha. Trong nhà, khi người cha chết, thì con trai cả giữ vai trò quan trọng. Khi có người chết, người nhà bắn súng báo tin cho dân làng biết. Người Xinh Mun không có tục cải táng, tảo mộ…

Trong hôn nhân, nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái. Sau lễ dạm, lễ hỏi mới đến lễ đi rể, thường sau vài ba năm lúc cô dâu chú rể đã có vài ba con, nhà trai mới tổ chức đón dâu về. Kể từ lễ đi ở rể, đôi vợ chồng phải đổi tên riêng của mình, lấy chung một tên khác do cậu, bố mẹ vợ hay thầy cúng đặt cho.Phụ nữ Xinh Mun thường đẻ tại nhà. Khi con gần đầy tháng, cha mẹ nhờ thầy cúng đặt tên.

Lò Thị Minh, tộc Xinh Mun, trong kỳ thi Hoa Hậu Dân Tộc năm 2013.Lò Thị Minh, tộc Xinh Mun, trong kỳ thi Hoa Hậu Dân Tộc năm 2013.

Người Xinh Mun không có cá tính dân tộc trong trang phục mà chịu ảnh hưởng trang phục Thái đen (giống người Kháng).
Người Xinh Mun thờ cúng tổ tiên hai đời, bố mẹ và ông bà. Biểu trưng cho nơi thờ tổ tiên là một chiếc xương hàm lợn, ít trầu đựng trên nắp giỏ cơm, ống tre đựng nước. Cúng vào các dịp cơm mới, đám cưới, nhà mới. Việc thờ cúng tổ tiên, tuỳ nơi, có thể chỉ do anh cả, cũng có thể do các anh em trai cùng đảm nhiệm. Bố mẹ vợ được thờ riêng ở một chiếc lán nhỏ, bên cạnh nhà, cơm nước cúng được nấu ở ngoài nhà. Lễ cúng bản hàng năm rất được coi trọng.

Sau Tết Nguyên Đán người Xinh-mun có Lễ hội rất đặc biệt, đó là lễ hội Lộc hoa. Lễ hội Lộc hoa rất lớn được lần lượt tổ chức theo từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội kéo dài nhưng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn (đầu tháng 4 dương lịch), măng đắng đã mọc cao, vì khi ấy mùa làm nương đã bắt đầu, để không ảnh hưởng đến sản xuất.

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân sang, khi hoa ban đã nở trắng, là dịp bà con Xinh-mun tưng bừng tổ chức lễ hội Ksai-Sa-Típ, nghĩa là Lễ hội Lộc hoa, cầu lộc, cầu mùa, cầu phúc, cho con người mạnh khoẻ, mùa màng tốt tươi.

Lễ hội thường được tổ chức vào sau dịp Tết Nguyên Đán, lần lượt tổ chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội. Hoàn toàn khác lễ hội của các dân tộc anh em, lễ hội Ksai-Sa-Típ của người Xinh-mun Tây bắc tuy kéo dài nhiều ngày nhưng không ăn uống linh đình, chỉ múa không có hát, vừa giản dị vừa vui, thường được tổ chức từng gia đình, vào buổi tối ấm cúng nên rất vui.

Người Xinh Mun thích hát và múa vào các dịp tết lễ, ngay trên nhà. Trai gái, nam nữ hát đối với nhau rất tự nhiên.

Dưới đây mình có các bài:
– Lễ hội cầu mùa – nét văn hoá đặc sắc của người Xinh Mun ở Sơn La
– Độc đáo Hội Mạ ma của người Xinh Mun, Sơn La
– Lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun
– Lễ Mừng cơm mới của người Xinh Mun
– Một số tập tục kỳ lạ của tộc người Xinh Mun
– Tục ở rể trong hôn nhân của người Xinh Mun, Sơn La
– Nhà ở của người Xinh Mun
– Trang phục dân tộc Xinh Mun

Á Hậu 1 - Dân tộc VN năm 2013 - Lò Thị Minh.Á Hậu 1 – Dân tộc VN năm 2013 – Lò Thị Minh, tộc Xinh Mun.

Người đẹp Lò Thị Minh và niềm tự hào tấm áo của người Xinh Mun
Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, Xinh Mun là một trong 5 dân tộc không còn giữ được trang phục truyền thống. Để phát huy những giá trị văn hoá, Á hậu Lò Thị Minh đã giới thiệu tới công chúng bộ y phục truyền thống của dân tộc mình.

Đêm khai mạc Tuần lễ Đại đoàn kết các dân tộc – Di sản Văn hóa Việt Nam, một lần nữa Á hậu 1 Cuộc thi Hoa hậu Các dân tộc Việt Nam 2013 đã trình diễn hết sức duyên dáng bộ trang phục của người thiếu nữ Xinh Mun, tạo ấn tượng đẹp trong lòng người xem.


Vẻ đẹp tự nhiên của cô gái Tây Bắc này dễ gây ấn tượng tốt với người đối diện ngay từ lần gặp đầu tiên. Lò Thị Minh sinh ra ở xã Thanh Xương, huyện Điện Biên, cô có bố là người Xinh Mun còn mẹ là người Thái. Đây là hai dân tộc vốn sinh sống gần nhau nên có nhiều nét giao thoa văn hoá. Trong câu chuyện, Minh trăn trở khá nhiều về sự mai một văn hoá của người Xinh Mun, đặc biệt là trong trang phục và ngôn ngữ.

Cô gái Xinh Mun giới thiệu về bộ trang phục dân tộc Xinh Mun với sự giao hoà của trang phục nhiều dân tộc anh em trong đất nước Việt Nam: chiếc kiềng giống của người Kinh, chiếc túi đeo giống của người Thái Đen nhưng có thêm những quả bông sặc sỡ; bộ váy áo cũng giống như của người Thái Đen nhưng lại có sự giao thoa với trang phục người Lào, đi cùng chân váy là cái áo cóm với hàng khuy bạc, cổ cài cao, cùng dây xà tích… Tất cả tạo nên một bộ trang phục rất đặc sắc của người Xinh Mun.



”Trong khi chân váy của người phụ nữ Thái đơn giản, không hoạ tiết thì người phụ nữ Xinh Mun mặc váy có hàng hoa văn thêu vòng quanh từ bắp chân lên trên đầu gối vì người Xinh Mun vốn yêu thích màu sắc. Tuy nhiên khi tìm kiếm thông tin trên mạng internet, em thấy nhiều trang minh hoạ hình ảnh bộ y phục của người Xinh Mun không khác gì của người Thái, đây là một trong những lí do mà đến nay việc bảo tồn văn hoá Xinh Mun còn chưa được phát huy hiệu quả, không chỉ trang phục mà tiếng nói cũng đã bị rơi rớt rất nhiều. Ông bà em chỉ còn giữ lại khoảng mấy chục từ tiếng Xinh Mun, bố mẹ em, rồi chúng em bây giờ vì sống ở khu của người Thái nên cũng chỉ biết nói tiếng Thái và vài ba từ của người Xinh Mun thôi. Đáng buồn hơn là các em nhỏ hơn em tiếng Thái cũng không biết nói”, Minh chia sẻ.
Minh kể, gia đình cô rất coi trọng truyền thống dân tộc, cô thường mặc trang phục truyền thống vào dịp Tết, Lễ Hoa ban, Lễ hội Lộc hoa, lên nhà mới, đám cưới… Mẹ thường dạy cô, một người con gái phải để tóc dài, mặc trang phục truyền thống để tôn lên nét đẹp dân tộc. Minh luôn coi trang phục truyền thống là đặc trưng riêng, giúp mình cảm thấy tự tin hơn. Nét đẹp riêng của người con gái Tây Bắc là mặt mộc nên cô thường chỉ thoa một chút son môi nhẹ nhàng và búi tóc nhỏ, gọn gàng.

Vào ngày Tết cũng giống như người Kinh, gia đình Minh lại tất bật chuẩn bị gói bánh chưng, làm bánh dầy, đồ xôi nếp và có thêm món thịt trâu gác bếp đặc trưng của núi rừng. Người Xinh Mun đón Tết nguyên đán theo đúng lịch của người Kinh, và khi hoa đào đã vãn, hoa ban đã nở trắng, bà con lại rộn ràng đón Lễ hội Lộc hoa, cầu lộc, cầu mùa, cầu phúc cho con người mạnh khoẻ, mùa màng tốt tươi.

Những nét đặc sắc văn hoá đó luôn khiến Minh hết sức tự hào và cô chia sẻ: ”Khi đạt giải ở Cuộc thi Hoa hậu Các dân tộc Việt Nam 2013, em càng nhận thức rõ hơn trách nhiệm phải phát huy những giá trị văn hóa ngàn đời của người Xinh Mun nói riêng, của người Điện Biên nói chung.

Người chủ trì lễ hội là những thầy mo trong bản.Người chủ trì lễ hội là những thầy mo trong bản.

Lễ hội cầu mùa – nét văn hoá đặc sắc của người Xinh Mun ở Sơn La
Lễ hội cầu mùa là nét văn hoá đặc sắc, tiêu biểu mang đậm tinh thần cộng đồng của người Xinh Mun (Sơn La).
Sơn La là vùng đất sinh sống lâu đời của 12 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, độc đáo và tương đồng. Các dân tộc Sơn La có nhiều lễ hội như: Lễ hội mợi, lễ kéo si, lập tịnh, lễ hội hoa ban, xên bản, xên mường, xíp xí, cầu mưa, nào xồng, gieo hạt, kin pang then, gội đầu, xên pang ả, mương a ma,… Trong số đó phải kể đến nét văn hoá độc đáo trong lễ hội cầu mùa của người Xinh Mun.

Theo quan niệm vạn vật hữu linh, người Xinh Mun tin rằng, các cánh rừng, con suối… đều có thần linh cai quản. Do vậy khi mùa màng đã thu hoạch xong, năm nào được mùa, lúa ngô, nuôi được nhiều gà, lợn… người Xinh Mun sẽ đứng ra tổ chức Lễ hội cầu mùa.

Lễ hội Cầu Mùa tộc Xinh Mun.Lễ hội Cầu Mùa tộc Xinh Mun.

Lễ hội Cầu mùa hay còn gọi là Lễ hội Mương A Ma ở Sơn La không phải là lễ hội thường niên mà 3- 5 năm mới tổ chức một lần, vào khoảng từ tháng 11 đến tháng 1 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà, nuôi được nhiều gà, lợn…
Lễ hội này bắt đầu có từ bao giờ thì chẳng ai nhớ được, chỉ biết rằng đã qua rất nhiều đời, người Xinh Mun rất tự hào về nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của mình. Đến dự lễ hội cầu mùa dù là chủ hay khách đều được đối xử bình đẳng như nhau, đều được tham gia vào những sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu.

Lễ hội thường diễn ra trong 2 ngày và đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những thầy mo trong bản. Tuy được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ, trẻ nhỏ… mọi người đều tham dự với tinh thần tự giác, hăng say, nhiệt tình.

Lễ hội cầu mùa của người Xinh Mun là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể vun đắp tình đoàn kết cộng đồng.Lễ hội cầu mùa của người Xinh Mun là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể vun

đắp tình đoàn kết cộng đồng.
Giống như các lễ hội khác của người Xinh Mun, Lễ hội cầu mùa cũng gồm hai phần: Lễ và Hội. Phần lễ trang nghiêm, thành kính, thầy mo thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh…
Trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh Mun như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền, chơi “to miếng” (đấu võ), chơi “giắc klsù” (bắt tổ ong)…

Lễ hội Mương A Ma được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng và lưu truyền những nét văn hóa truyền thống sang các thế hệ kế tiếp.

Hội Mạ Ma tộc Xinh Mun.

 Độc đáo Hội Mạ ma của người Xinh Mun, Sơn La
Hội Mạ ma của người Xinh Mun (Sơn La) thường diễn ra vào cuối xuân đầu hạ, là lễ hội chung của cộng đồng, các trò diễn vui nhộn, thể hiện ước vọng trời yên vật thịnh và tài diễn xướng văn nghệ dân gian của họ.

Người Xinh Mun sống tập trung tại vùng núi cao thuộc các huyện Mai Sơn, Thuận Châu, Yên Châu, Mường La, Sông Mã, tỉnh Sơn La. Họ thường tổ chức các lễ hội với nội dung và hình thức thể hiện không giống với lễ hội của các dân tộc khác. Trong đó, lễ hội có tên gọi là Mạ ma được cộng đồng quan tâm hơn cả.

Lễ hội do thày mo chủ trì, cầu cúng xin cho con người sức khỏe, cộng đồng hòa thuận yên vui. Việc thực hiện lễ hội mang tính diễn xướng một thể loại văn nghệ dân gian mang nhiều nét văn hóa đặc sắc.

Trung tâm lễ hội Mạ ma là cây hoa (xặng bok) tượng trưng cho cây đời. Để chuẩn bị cho cây hoa “xặng bok” là cả một quá trình công phu. Người chuẩn bị là thầy mo và những “con nuôi” là người ốm do thầy chữa khỏi cùng với người dân trong bản. Một cây tre cao khoảng 3m được chọn làm “thân” cây, cành lá, hoa quả trên cây là những hình chim, chuồn sóc… Ngoài ra còn có cá, xương cá, con ve… và các vật dụng người Xinh Mun sử dụng như ô dù, chống chỉ, trống gỗ, tàu voi, tàu ngựa, cày bừa… Dưới gốc cây hoa trồng cây chuối lộn ngược, rêu, củ măng, quả bầu nậm… Xung quanh “xặng bok” là những bàn thờ cùng các mâm cúng với nhiều loại thức ăn.

Chủ trì lễ hội là thày tào, một hay hai đôi nam nữ giúp việc thày tào gọi là “báo chạu, xao chua”. Ban chủ trì còn có thêm 2 thầy mo và 2 người thổi sáo, đánh chiêng.

Bắt đầu lễ hội là thầy mo cầu cúng. Trong lúc cúng thì chiêng và sáo cũng hòa nhịp tạo âm thanh cho mọi người tham gia múa xòe và tăng bu xung quanh cây hoa “xặng bok”.

Trong lễ hội người ta tổ chức rất nhiều trò chơi như đấu kiếm, khỉ ăn chuối, trâu đằm, thằng ngốc… đặc biệt là “túc căn”, “lạc gưa”, “xòe họa” và “xòe tenh”… “Túc căn” và “Lạc gưa” là những trò mang tính biểu tượng, “túc căn” là đấu kiếm: hai người rút hai cần rượu cần, vờ làm kiếm xông vào đấu với nhau giữa tiếng hò reo cổ vũ của mọi người cho đến khi kiếm gãy nát mới thôi. “Lạc gưa” là kéo thuyền, mọi người dùng dây mây, chia hai phe kéo nhau….

Vui nhất là “xòe họa”, mọi người cầm mảnh vải dài nối tay nhau thành vòng tròn nhảy “xòe” quanh cây hoa. Vừa xòe họ vừa nhảy, xòe mạnh, nhảy cao được khuyến khích bằng những lời hô “họa, họa”. Chỉ khi nào mọi người mệt lử, xòe họa mới dừng. Còn “xòe tenh” là mùa âm dương, trò này là cuộc diễn giữa hai người khác giới, họ xòe cùng với “đạo cụ” riêng. Người đàn bà dùng bẹ chuối, người đàn ông là lõi cây chuối đã ra buồng dài khoảng gần 1m. Người đàn ông kẹp lõi chuối vào háng và nhảy, cố gắng dùng “của dương”; đâm vào người đàn bà trong khi người đàn bà giơ “của âm” ra đỡ đến khi nào “của âm” đập ra “của dương” cụn ngủn mới thôi.


Lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun
Ở Sơn La, đồng bào Xinh Mun thường cư trú ở vùng rẻo giữa và rẻo cao, cho nên nền kinh tế chủ yếu dựa vào việc canh tác nương rẫy, trồng lúa ngô, hoa màu và chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm.

Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào Xinh Mun theo quan niệm vạn vật hữu linh, họ tin rằng, các cánh rừng, con suối… đều có thần linh cai quản. Do vậy, họ có nhiều nghi lễ nông nghiệp, trong đó nổi bật là lễ hội Mương A Ma (lễ hội cầu mùa).

Lễ hội Mương A Ma thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần. Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn…Lễ hội Mương A Ma được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì bao gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự lễ hội với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình.

Lễ hội Mương A Ma có phần lễ và phần hội rõ ràng. Phần lễ trang nghiêm, thành kính, thầy mo thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh. Khác với không khí trang nghiêm của phần lễ, ở phần hội, trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi lo toan thường nhật phút chốc tan biến, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh Mun, mang tính nghệ thuật và giáo dục cao như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền… chơi “to miếng” (đấu võ), chơi “giắc klsù” (bắt tổ ong) v.v.

Lễ hội Mương A Ma là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu.

Có thể nói, lễ hội dân gian truyền thống chính là tiếng nói thể hiện ước muốn vươn tới những điều tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Sơn La, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Lễ Mừng cơm mới của người Xinh Mun
Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào Xinh Mun theo quan niệm vạn vật hữu linh, họ luôn tin rằng các cánh rừng, mảnh nương, dòng sông, con suối đều có thần linh ngự trị. Do vậy những nghi lễ nông nghiệp gắn với chu kỳ cây trồng đặc biệt quan trọng trong đời sống của họ.

Lễ mừng cơm mới là một trong những nghi lễ khá phổ biến ở hầu hết các tộc người thiểu số ở Tây Bắc nước ta. Tuy nhiên, mỗi một cộng đồng tộc người lại có những nghi thức tiến hành cúng lễ khác nhau. Lễ mừng cơm mới tiếng xinh mun gọi là Trả Pa me được diễn ra trong thời gian 2 ngày không kể thời gian chuẩn bị.
Là nghi lễ tổ chức trong phạm vi gia đình nhưng nó thu hút được người tham dự rất lớn. Hàng năm, cứ vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 dương lịch, khi những bông lúa trên nương bắt đầu chuyển sang mầu đỏ đuôi, báo hiệu một mùa thu hoạch đã tới, cũng là thời gian các gia đình trong bản đi nhờ thầy mo để xin chọn ngày đẹp cho họ tổ chức lễ ăn cơm mới. Đây là một nghi lễ cúng tế nhằm cảm ơn tổ tiên, thần thánh, trời đất, ma quỷ đã phù hộ cho gia đình quanh năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người no đủ, tránh được dịch bệnh, con cháu khỏe mạnh.
Theo quan niệm của người Xinh Mun ngày tổ chức cơm mới ngày tốt bao giờ cũng là ngày hợi và ngày tuất đó là ngày tốt. Còn những ngày kiêng là ngày mùi và ngày thân và những ngày trùng với ngày sinh của bố mẹ đẻ. Việc đi gặt những bông lúa đầu tiên về chính là đi đón hồn lúa về dự lễ, người trực tiếp thực hiện công việc này bao giờ cũng là bà chủ nhà. Đến giờ đã hẹn với các ma, thầy cúng ngồi trước ban thờ tổ tiên bên nội trong nhà mà khấn. Sau khi thông báo xong, thầy cùng xin phép tổ tiên quét dọn, thay thế nơi thờ mới.
Cùng lúc đó, xin làm lễ tại gian thờ bên ngoại, cũng với mục đích như cúng khấn mời các ma bên nội. Lễ vật trong mâm cúng gồm: 1 bó lúa, một ống nước đựng bằng tre, 6 chén rượu, 6 đôi đũa, 6 chiếc thìa, mỗi góc mâm để hai cây măng luộc ở 4 góc mâm, thịt lợn luộc đựng bằng lá chuối, hai giỏ cơm đựng bằng giỏ tre đan và1 bầu cơm được đựng trong quả bầu khô. Sau khi kết thúc các nghi lễ cúng, chủ nhà nhặt mỗi thứ một ít trên mâm thờ cho vào lá chuối, gói lại buộc lên bó lúa để phần con ma nào mải chơi hay đi quá xa về muộn vẫn còn đồ ăn.

Kết thúc lễ cúng tại gian thờ tổ tiên bên nội, mâm cúng bên ngoại được dọn ra. Cũng như bên nội, lễ vật cúng được chuẩn bị gần nơi thờ nhà nội, sau khi chuẩn bị xong bà chủ nhà mang ra nhà thờ bên ngoại để cúng tổ tiên bên nhà ngoại. Các nghi lễ cúng ma nhà ngoại được tiến hành ở góc vườn, nơi có nhà thờ nhà ngoại. Với người Xinh Mun, lễ mừng cơm mới không biết có từ khi nào, nhưng qua các thế hệ kế tiếp nhau, từ việc chuẩn bị đến những nghi lễ cúng nhà nội và cúng bên ngoại vẫn được con cháu họ thực hành đầy đủ theo mỗi mùa lúa nương. Đó là một đặc trưng sinh hoạt tín ngưỡng với tính chất cầu mùa trong nông nghiệp. Thể hiện ước nguyện của người nông dân Xinh Mun về cuộc sống ấm no, bình an.

Một số tập tục kỳ lạ của tộc người Xinh Mun
Một số phong tục tập quán của người Xinh Mun có nhiều quy định rất kỳ lạ nhưng điều đó càng làm họ không bị nhầm lẫn với các dân tộc khác.
Trong các phong tục kỳ lạ của người Xinh Mun ở vùng Tây Bắc phải kể đến tục ở rể và lễ cúng lúa mới.
Khổ như làm lễ cúng lúa mới
Đối với người Xinh Mun, “Tết” (ngày vui chung của cả cộng đồng) – chính là ngày cúng ma bản nhằm xua đuổi mọi tai ương. Vì vậy vào ngày này mỗi gia đình phải đóng góp rượu, gạo và tiền để mua một con lợn làm lễ cúng, sau đó hát hò nhảy múa linh đình. Theo một số cụ cao niên kể lại, thì từ xa xưa, vào đúng ngày cúng ma bản, thầy mo sẽ làm bùa ngải để giết chết một người đi theo hầu hạ ma bản. Nhưng hành vi tàn nhẫn này đã bị xóa bỏ rất lâu rồi.
Khi những bông lúa chín nhuộm vàng nương ruộng cũng là lúc các gia đình người Xinh Mun cúng hồn lúa. Nếu chưa làm nghi lễ này, thì lúa chín rụng cũng không được thu hoạch, đói đến mấy cũng không được phép cầm liềm gặt, phải ăn củ nâu, củ mài sống qua ngày đoạn tháng. Bởi, tổ tiên chưa được ăn thì con cháu chưa đến lượt.

Lễ cúng phải có ít nhất 7 con vật sống trên rừng (như: chuột dúi, gà rừng, chim, sâu măng – cây măng nhú cao đến đầu gối có sâu đục bên trong, lợn rừng, rắn, thằn lằn); ít nhất 7 con vật sống dưới nước (tôm, cua, cá, ốc, lươn, hến, trai); tất cả các loại dưa trồng trên nương; 4-5 ống cơm lam và một quả dừa.

8 đến 12 năm mới được động phòng
Mặc dù đã quen thuộc với tục hôn nhân ở rể của nhiều dân tộc vùng cao Tây Bắc như Thái, Dao, Tày… , nhưng sự hà khắc và những quy định “trần đời có một” trong tục ở rể truyền thống của người dân tộc Xinh Mun vẫn lấy làm lạ lùng.
Khi cái bụng của chàng trai và cô gái đã ưng nhau bố mẹ chàng trai sẽ mang một chai rượu đến nhà gái hỏi vợ cho con. Nếu được nhà gái đồng ý, nhà trai sẽ rót rượu chung vui và bàn ngày cưới hỏi.
Lễ cưới hỏi của người Xinh Mun đơn giản đến bất ngờ. Nhà trai chỉ cần mang một con lợn hoặc 1 đôi gà (miễn là phải có đủ 1 chân) cùng 2 vò rượu cần sang nhà gái, sau đó tổ chức mâm cơm cúng tổ tiên và làm tằng cẩu cho cô dâu (tằng cẩu là mái tóc dài búi ngược, mang một thông điệp ý nghĩa, rằng từ nay cô gái đã có chồng, bông hoa rừng đã có chủ. Bất cứ chàng trai nào cũng không được tăm tia, chọc ghẹo).
Lễ cưới đơn sơ ấy phản ánh cái nghèo đến xơ xác của người Xinh Mun. Nhà gái chịu thiệt về vật chất, nhưng bù lại, họ được sở hữu một chàng rể sức vóc, đảm đương những việc nặng nhọc nhất, từ phát nương trồng ngô đến chăn trâu cắt cỏ; đan lát các vật dụng trong gia đình… từ 8 đến 12 năm.
Trong suốt quá trình 8-12 năm ở rể dài đằng đẵng, người đàn ông mặc dù đã bị cắt mác trai tân, nhưng vẫn chưa thể trở thành “người lớn”, bởi luật tục hôn nhân của dân tộc cấm đôi vợ chồng trẻ động phòng hoa trúc.

Có cặp vợ chồng không kiêng được chuyện giường chiếu, xé rào luật tục bị dân bản tẩy chay, gia đình từ mặt, phải bỏ bản đi nơi khác sinh sống. May thay, tục lệ hôn nhân hà khắc này dần dần được giảm bớt.

Tập quán cưới xin của người Xinh Mun ngày nay có nhiều thay đổi so với xưa kia. Những thủ tục lạc hậu, mê tín, vật chất, thách cưới, ở rể được cắt giảm. Người Xinh Mun đã tiếp thu và ảnh hưởng các yếu tố của dân tộc khác. Nhưng người Xinh Mun vẫn có sắc thái, phong tục, tâm thức riêng của họ, sự chọn lọc và kế thừa phát huy các nét văn hóa tiến bộ của người Xinh Mun sẽ góp phần vào việc phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


Tục ở rể trong hôn nhân của người Xinh Mun, Sơn La
Ở rể là tập tục của nhiều dân tộc vùng cao Tây Bắc như: Thái, Dao, Tày… nhưng sự hà khắc và những quy định có một không hai trong tục ở rể truyền thống của người Xinh Mun ở Sơn La vẫn rất lạ đời.

Bản Puông, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã (Sơn La) là nơi sinh sống của người Xinh Mun. Theo tục lệ hôn nhân của người dân nơi đây, nhà trai phải trả tiền “khả lu” tiền công nuôi dưỡng cho nhà gái. Người con trai phải đi ở rể một thời gian nhất định theo thỏa thuận của hai gia đình.

Sau khi làm lễ cưới, chàng trai người dân tộc Xinh Mun khăn gói về nhà vợ. Trong 8-12 năm ở rể dài đằng đẵng, người đàn ông mặc dù đã bị cắt mác trai tân, nhưng vẫn chưa thể trở thành “người lớn”, bởi luật tục hôn nhân của dân tộc cấm đôi vợ chồng trẻ động phòng hoa trúc.

Khi cái bụng của chàng trai và cô gái đã ưng nhau bố mẹ chàng trai sẽ mang một chai rượu đến nhà gái hỏi vợ cho con. Nếu được nhà gái đồng ý, nhà trai sẽ rót rượu chung vui và bàn ngày cưới hỏi.

Lễ cưới hỏi của người Xinh Mun rất đơn giản. Nhà trai chỉ cần mang một con lợn hoặc 1 đôi gà (miễn là phải có đủ 1 chân) cùng 2 vò rượu cần sang nhà gái, sau đó tổ chức mâm cơm cúng tổ tiên và làm tằng cẩu cho cô dâu (tằng cẩu là mái tóc dài búi ngược, mang một thông điệp ý nghĩa, rằng từ nay cô gái đã có chồng, bông hoa rừng đã có chủ. Bất cứ chàng trai nào cũng không được tăm tia, chọc ghẹo).

Tuy nhà gái chịu thiệt về vật chất, nhưng bù lại, họ được sở hữu một chàng rể sức vóc, đảm đương những việc nặng nhọc nhất, từ phát nương trồng ngô đến chăn trâu cắt cỏ; đan lát các vật dụng trong gia đình… từ 8 đến 12 năm.

Trong suốt 12 mùa trăng dài lê thê ấy, chàng rể phải ngủ cách ly trong một căn phòng bé xíu ở đầu hồi, tuyệt đối không được nằm cùng giường với vợ. Có cặp vợ chồng không kiêng được chuyện giường chiếu, xé rào luật tục bị dân bản tẩy chay, gia đình từ mặt, phải bỏ bản đi nơi khác sinh sống.

Ngày nay, tập quán cưới xin của người Xinh Mun ngày nay có nhiều thay đổi so với xưa kia. Những thủ tục lạc hậu, mê tín, vật chất, thách cưới, ở rể được cắt giảm. Người Xinh Mun đã tiếp thu và ảnh hưởng các yếu tố của dân tộc khác. Nhưng người Xinh Mun vẫn có sắc thái, phong tục, tâm thức riêng của họ, sự chọn lọc và kế thừa phát huy các nét văn hóa tiến bộ của người Xinh Mun sẽ góp phần vào việc phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Nhà truyền thống tộc Xinh Mun.Nhà truyền thống tộc Xinh Mun.

Nhà ở của người Xinh Mun
Nhà sàn của người Xinh Mun mang một nét đẹp riêng biệt, đơn sơ nhưng không kém phần trang nhã.
Dân tộc Xinh Mun là cư dân sinh sống ở miền Tây Bắc nước ta. Họ cư trú ở lưng chừng núi trên dải đất dọc biên giới Việt – Lào, từ thành phố Điện Biên tới Mộc Châu và một số huyện thuộc Yên Châu, Sông Mã và Mai Sơn nằm trong phạm vi thuộc các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu và một số khác sống ở vùng Trung Thượng Lào.
Người Xinh Mun sống ở nhà sàn, nhà có sàn trái và sàn phải. Điều lạ là bên trái hay phải là theo quy ước của mỗi gia đình, dường như người Xinh Mun không có quan niệm phân biệt rõ ràng thế nào là bên trái, bên phải.
Ngôi nhà được làm bằng các loại cây thân gỗ và các loại cây như tre, vầu, nứa… lợp bằng cỏ gianh hay lá cọ. Thay vì đóng đinh thì giữa các mấu nối được buộc bằng dây chằng, thắt nút khá công phu và tinh xảo. Dây buộc là cây giang, mây hoặc vỏ những cây chuyên dùng như năng hu, năng xa. Khi làm nhà để nối cái cột kèo, người Kinh thường lắp mộng còn nhà sàn người Xinh Mun sử dụng những đòn dầm xuyên suốt qua các cột. Kiến trúc của nhà sàn của người Xinh Mun nhìn đơn giản nhưng chắc chắn.
Nhà ở của người Xinh Mun, về cơ bản và trông từ bên ngoài, tương tự như nếp nhà cổ truyền của dân tộc Thái (ngành Thái đen): Nhà sàn, vật liệu chủ yếu bằng gỗ và tre, 2 mái dài, 2 chái hình mai rùa. Mỗi nhà có 2 cầu thang, đặt ở 2 đầu quản. Riêng cái cầu thang, người Xinh Mun không đặt thành vấn đề số bậc lẻ hay chẵn. Cầu thang ở cuối nhà dành cho phụ nữ đi. Còn cầu thang phía trước nhà dành cho nam giới và khách đi. Khách vào nhà chỉ được đi vào phía sàn dành cho đàn ông.

Trong nhà, người Xinh Mun chia không gian làm 2 phần, phần “PLầng” và phần “Xìa”. Phần “PLầng” (gốc) là nơi ngủ của khách và con trai chưa vợ, con rể tuyệt đối không được ngủ ở đây. Phần “PLầng” có một bếp lửa, dùng để sưởi ấm và đun nước tiếp khách; trong hoàn cảnh nào cũng không sử dụng bếp này để nấu thức ăn. Người Xinh Mun kiêng nhất chuyện làm nhà quay cửa vào nhau, hoặc nhà nằm theo hướng chéo nhau.

Nhà của người Xinh Mun có mái giống hình con rùa, họ cho rằng con rùa dạy người ta làm nhà cho nên ngôi nhà khum khum giống lưng rùa. Phía trên mái nhà có Khau Cút là 2 thanh tre để chéo nhau. Những thanh tre hoặc gỗ, họ cũng được chia nhiều kiểu dáng khác nhau, thể hiện các tầng lớp trong xã hội. Người giàu thì luôn làm khau cút hình hoa sen thể hiện sự thanh tao và giàu có. Còn ngược lại dân thường thì làm thanh gỗ vắt ngang và không có họa tiết gì. Còn những gia đình mới ra ở riêng thì làm hình người phụ nữ mang bầu để cầu mong sự sinh sôi nảy nở.

Trang phục truyền thống dân tộc Xinh Mun xưa.Trang phục truyền thống dân tộc Xinh Mun xưa.

Trang phục dân tộc Xinh Mun
Xinh Mun là một trong những dân tộc ít người của nước ta, do vậy, trang phục truyền thống của họ chịu nhiều ảnh hưởng của các dân tộc khác, trong đó, điển hình là trang phục của người Thái Đen.
Trang phục truyền thống của nam giới Xinh Mun có phần hơi đơn giản. Ngoài bộ quần áo mặc hàng ngày, người đàn ông Xinh Mun chỉ có thêm chiếc khăn quấn trên đầu, chiếu túi đeo bên người khi đi nương, xuống chợ. Áo dài ngang tới bắp chân, áo được may bằng vài dệt sợi bông, nhuộm chàm, có màu xanh đen, giống chiếc áo dài của đàn ông Thái Đen, Khơ Mú…
Thân áo được may thành bốn mảnh, phía sau gồm hai mảnh ghép giữa sống lưng, phía trước là hai mảnh. Cổ tròn, được may thành nẹp ôm xung quanh cổ khi mặc. Dải khuy chạy từ cổ xuống áo, qua vai xuống nách và chạy dọc sườn trái xuống ngang thắt lưng.

Á hậu Lò Thị Minh, với bộ áo dân tộc truyền thống của dân tộc Xinh Mun.Á hậu Lò Thị Minh, với chiếc áo dân tộc truyền thống của dân tộc Xinh Mun.

Khi mặc áo này, người Xinh Mun hay cuốn trên đầu một chiếc khăn bằng vải nhuộm chàm, dài khoảng 80cm. Cách quấn khăn của họ cũng giống người Thái Đen: quấn mỏ rìu quay ra phía trước trán.

Quần của đàn ông Xinh Mun giống quần của nam giới Thái Đen. Quần thường may ngắn trên mắt cá trên, ống rộng, nhuộm tràm. Quần không có cạp để luồn dây lưng mà dùng thắt lưng buộc lại khi mặc.

Trong khi đó, trang phục truyền thống của phục nữ Xinh Mun là váy, áo, khăn, thắt lưng. Váy thường may ngắn hở bắp chân, tạo thành một vòng khép kín chu vi khoảng 100-120cm. Cạp váy rộng 8cm bằng vải hoa. Gấu váy rộng 3m bên trong nẹp bằng vải đỏ. Khi mặc người ta kéo sát phía sau thân váy bó vào mông, phần còn thừa dồn hai bên hông và kéo về phía trước bụng. Khi mặc váy bao giờ phụ nữ Xinh Mun cũng phải dùng thắt lưng thắt chồng khít lên phần cạp váy. Thắt lưng dệt bằng tơ tằm, dài khoảng 2,5m, rộng khoảng 15cm nhuộm màu xanh lá cây.

Á hậu Lò Thị Minh, với bộ áo dân tộc truyền thống của dân tộc Xinh Mun.Á hậu Lò Thị Minh.

Thông thường, áo của phụ nữ Xinh Mun được may bằng vải bông, áo có thân ngắn, cộc tới ngang eo, cổ cao và tròn, tay áo bó sát và dài tới mắt cá tay. Áo có khuy phía trước, làm bằng đồng, nhôm hoặc bằng bạc giống hình con bướm. Hàng khuy bên phải là con đực, hàng khuy bên trái là con cái. Mỗi chiếc áo có từ 11-12 đôi. Khi mặc để hở phần thắt lưng tạo nên vẻ đẹp riêng của người con gái Xinh Mun.
Do ảnh hưởng của trang phục truyền thống dân tộc Thái nên cách làm đẹp của phụ nữ Xinh Mun không thể thiếu chiếc khăn Piêu đội đầu. Phần lớn khăn được làm bằng vải bông nhuộm chàm. Piêu được trang trí bằng cút ở bốn góc và xung quanh mép. Họ thường trang trí số cút lẻ, mỗi chùm ba cút gọi là piêu cút xam. Ngoài áo, váy, khăn, phụ nữ Xinh Mun còn đẹp vòng tay, vòng cổ, khuyên tai bằng bạc.
Ngày nay, trang phục dân tộc Xinh Mun đã bị mai một dần. Theo thống kê của Ủy ban dân tộc, Xinh Mun là một trong 5 dân tộc không còn giữ được trang phục truyền thống của mình. Điều này khiến những nhà quản lý lo lắng và họ đang tìm cách gìn giữ, phát huy tốt nhất những giá trị văn hóa từ cha ông để lại. Đây cũng là lý do để các cuộc thi trang phục dân tộc ra đời, nhằm tôn vinh trang phục dân tộc, mà còn qua đó nhằm bảo tồn tốt hơn giá trị văn hóa của các trang phục truyền thống của các dân tộc trong đời sống đương đại.
Sầm Thị Phong (sưu tầm)