Dân tộc La Ha còn có tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Dân số 1.400 người, gồm 2 nhóm thứ cấp riêng biệt. Nhóm thứ nhất là người La Ha cạn (Khlá Phlao) và nhóm thứ hai là người La Ha nước (La Ha ủng). Địa bàn cư trú ở các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái. Nhiều người La Ha còn cư trú ở trên bờ dọc theo sông Hồng và sông Đà.
Tiếng La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, là một nhánh của hệ ngôn ngữ Thái-Ka Đai ở Đông Nam á, ngoài ra còn có quan hệ với tiếng La Chí, Cờ Lao và Pu Péo. Người La Ha sinh sống bên cạnh dân tộc Thái, theo lịch của người Thái và trước kia học chữ Thái… do đó người La Ha ca hát làm thơ bằng tiếng Thái khá thành thạo và họ nhận trang phục, ngôn ngữ của dân tộc Thái làm của mình.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Khác với nhiều dân tộc đang cư trú cùng khu vực, người La Ha cho rằng mình đã ở Việt Nam từ rất lâu đời chứ không phải nhập cư vào từ Trung Quốc hoặc Lào. Theo những tài liệu Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái đen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay.
Đời sống chủ yếu của người La Ha là nương rẫy du canh du cư và săn bắt, hái lượm. Phương thức canh tác đơn giản, dùng gậy chọc lỗ và dao phát nương. Cây trồng chủ yếu là lúa nếp, ngô, đậu tương, bông. Ngày nay người La Ha đã có sở hữu đất đai và biết làm ruộng nước, ngoài ra họ còn biết chăn nuôi gia súc gia cầm, dùng trâu bò làm sức kéo. Lương thực chính là gạo nếp chế biến theo cách đồ thành xôi, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Thực phẩm thường được ướp chua, nướng, lùi hoặc sấy khô để dành.
Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ còn vài cụ già và thầy cúng giữ tục này. Phụ nữ La Ha không biết dệt vải, do đó họ phải đem bông đổi vải của người Thái để may mặc… Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu (tằng cẩu-giống người Thái đen). Do ảnh hưởng của người Thái trắng, có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy nhất là trên đỉnh đầu hoặc chỉ vấn tóc trần hoặc búi tóc sau gáy, không phân biệt có chồng hay chưa. Phụ nữ thường có tục ăn trầu và nhuộm răng đen.
Người La Ha thường sống thành làng bản mỗi bản có khoảng hơn chục nóc nhà.Trước đây đứng đầu bản là Khun cai và hai người giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra. Họ thường ở nhà sàn có 2 cửa với thang lên xuống tại 2 đầu nhà. Một cửa vào chỗ tiếp khách và một cửa vào chỗ sinh hoạt trong gia đình. Nhà chia làm hai phần, phần để tiếp khách rộng từ 1/2 đến 2/3 diện tích nhà. Ngăn giữa phần chủ và khách là một cột buộc hũ rượu cần bên cạnh.
Gia đình người La Ha là gia đình nhỏ, phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ bố mà vợ cũng phải mang họ chồng. Con gái không được thừa kế tài sản. Trai gái được tự do tìm hiểu nhau, không bị cha mẹ ép buộc cưới gả. Tuy nhiên việc đó phải được cha mẹ ưng thuận. Để tỏ tình chàng trai phải đến nhà cô gái và dùng sáo, nhị, lời hát trước khi trò chuyện bình thường. Sau thời gian tìm hiểu từ 3 đến 10 ngày người con trai nói với bố mẹ cử người đi dạm. Nhà gái nhận trầu và đưa áo của cô gái cho bên nhà trai xem bói. Nhà gái chia trầu cho họ hàng để hỏi ý kiến. Ai không đồng ý thì trả lại trầu. Trong 5 ngày nếu nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai có nghĩa là nhà gái đồng ý và 10 ngày sau người con trai đến ở nhà gái bắt đầu ở rể làm công cho bố mẹ vợ từ 4 đến 8 năm. Đây là thời gian người con trai làm công trả nợ công của bố mẹ vợ nuôi nấng vợ mình , ngoài ra còn phải nộp ba lạng rưỡi bạc trắng gọi là tiền nang khả pọm (giá đầu người).
Hết hạn ở rể mới bắt đầu tổ chức lễ cưới chính thức thu mà phu (làm cơm rượu). Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết. Trường hợp người đàn bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ thu cơi poọng (làm gà báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố mẹ của người đàn bà goá. Người đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết đi, hồn lại tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ thu mà phu. Vì vậy, ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới thu mà phu thì con phải làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia. Hiện nay hình thức tiểu gia đình phụ quyền vẫn được bảo lưu. Việc hôn nhân đã đã được cải tiến theo hướng tiến bộ. Đồng bào đang bỏ hẳn tục mua bán, ở rể và từng bước xây dựng quan hệ hôn nhân gia đình theo pháp luật của nhà nước.
Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà “hóng” như của người Thái.
Thầy cúng một lao cúng gọi hồn và đuổi tà ma. Hàng năm hoặc 2-3 năm một lần một lao làm lễ cúng tổ tiên của mình của mình và các vị thần linh khác. Trong số các vị thần ấy “thần dương vật” (linga) và “thần cung kiếm” là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy, bàn thờ của một lao bao giờ cũng có hình nộm dương vật, kiếm và cái mộc.
Người La Ha không có tục đốt xác như người Thái đen mà đem chôn. Thi hài được liệm bằng vải hoặc bằng chiếu nan và khiêng ra đến mộ mới bỏ vào quan tài và hạ huyệt. Nếu người chết là bố, người con trai cầm dao phá nơi thờ cũ đuổi ma bậc ông đi để bắt đầu thờ ma bố. Nếu người chết là mẹ, con trai cầm dao đập vào phên chỗ mẹ ngủ, tượng trưng cho việc đuổi ma bậc bà đi để bắt đầu thờ ma mẹ... Khi khiêng người chết đi chôn, nếu người chết là bố thì khiêng ra cửa gian khách (quản), là mẹ phá vách trước khiêng ra… Trên huyệt người ta đã dựng sẵn một cái nhà nhỏ có 2 mái cao chừng 2 m. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết cho một cuộc sống như: giỏ cơm, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám trở về nhà, người ta thường khua cối giã gạo để xua ma không quấy phá gia đình.
Huyền Trang (sưu tầm)