Tổng số dân: 4.841 (năm 1999), 1.035 (năm 2009)
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam: phân bố rải rác tại nhiều tỉnh
Ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Ngái, tiếng Quảng Đông, phương ngữ Thái Sơn
Tôn giáo: Phật giáo Đại thừa
Dân tộc Ngái (tiếng Khách Gia: 𠊎等人 ngai²dên¹ngin²) còn có tên gọi khác là Ngái Nhằn, Ngái Lầu Mần, Sín, Đàn, Lê. Họ là một trong 54 dân tộc sinh sống tại Việt Nam. Tên tự gọi chung là Sán Ngái (nghĩa là người miền núi). Mặc dù có ngôn ngữ bản địa là tiếng Ngái và có nguồn gốc từ Quảng Đông.
Nhóm ngôn ngữ: hán tạng
Dân số và địa bàn cư trú
Dân tộc Ngái cư trú rải rác ở nhiều tỉnh thành. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì tại Việt Nam có 4.841 người dân tộc Ngái. Các tỉnh thành tập trung đông nhất là: Thái Nguyên, Bình Thuận, Đồng Nai, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Đắk Lắk, Cao Bằng...
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người dân tộc Ngái ở Việt Nam chỉ còn 1.035 người, có mặt ở 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Dân tộc Ngái cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (495 người, chiếm 47,8% tổng số người Ngái tại Việt Nam), Bình Thuận (157 người, chiếm 15,2% tổng số người Ngái tại Việt Nam), Đồng Nai (53 người), Bắc Kạn(48 người), Tuyên Quang (43 người), Đắk Lắk (37 người), Cao Bằng (30 người)[2]...
Đặc điểm kinh tế.
Dân tộc Ngái sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng trồng lúa. Ở vùng hải đảo, ven biển thì đánh cá là chính. Họ có truyền thống đào kênh, mương, đắp đập, tạo hồ nước, đắp đê biển, có những nghề thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói.
Việc gieo trồng mùa vụ trong năm của họ căn cứ vào các hiện tượng tự nhiên như: tiếng chim hót, lá cây rụng, hoa nở... Họ xây các mương đập dài vài chục km để tưới tiêu. Người Ngáiở tp HCM làm các nghề tiểu thủ công nghiệp như giày dép, tập trung ở quận 11,Tân bình, tân phú.Các tiểu thương chợ Lớn.Một số đã thành những doanh nghiệp lớn trong ngành giày dép,cao su...
Hôn nhân gia đình
Trong gia đình, người chồng quyết định mọi việc lớn, con trai được coi trọng, con gái không được chia gia tài khi cha mẹ chết và phải về nhà chồng sau khi cưới.
Xưa kia, trai gái Ngái được cha mẹ dựng vợ gả chồng phải trải qua hai lần cưới: lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Để cưới vợ cho con, nhà trai chủ động chọn tìm đối tượng dạm hỏi. Khi có thai, phụ nữ Ngái kiêng cữ rất cẩn thận: không ăn ốc, thịt bò, dê, không may vá hay mua quần áo. Sau khi sinh con 60 ngày đối với con đầu, 40 ngày đối với con thứ, người sản phụ mới được đến nhà mẹ đẻ của mình.
Họ nhà vợ, đại diện là ông cậu có vai trò quan trọng trong gia đình người Ngái. Ông cậu gọi là khảo, được coi như người cha của các chị em gái trong gia đình. Khi các cháu gái sinh con, khảo đặt tên cho các cháu ngoại.
Tục lệ ma chay
Theo phong tục Ngái, người chết được tổ chức đám ma chu đáo. Sau khi chôn cất được cúng vào dịp 21 ngày, 35 ngày, 42 ngày, 49 ngày, 63 ngày, 70 ngày, 3 năm thì làm lễ đoạn tang.
Văn hóa
Người Ngái có lối hát giao duyên nam nữ, gọi là Sường cô, rất phong phú. Có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Tục ngữ có ý nghĩa răn dạy về kinh nghiệm làm ăn, về cách sống. Nhiều trò chơi được ưa thích như múa sư tử, múa gậy, chơi rồng rắn.
Nhà cửa
Người Ngái thường lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng hoặc ven biển, trên đảo. Nhà phổ biến là nhà ba gian hai chái
Trang phục
Trang phục Ngái giống người Hoa (Hán). Ngoài quần áo, họ còn đội mũ, nón các loại tự làm từ lá, mây tre, đồng thời đội khăn, che ô.
Hà My (sưu tầm)