Các tài liệu khảo cổ ở vùng Nà Goọc (Nguyên Bình), Tôôm Đeng (Hà Quảng), Kẻ Ngoã (Hoà An)... cho thấy người Tày đã cư trú lâu đời tại Cao Bằng, xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Nùng, Dao, Mông... ở lòng hồ Nêôgen (nay là lòng máng sông Bằng), lưu vực sông Bắc Vọng, Vi Vọng, sông Quây Sơn, những cánh đồng rộng Cẩu Pung (Hoà An), Đào Ngạn (Hà Quảng) (1)...
Họ lấy việc trồng lúa nước làm nguồn sống chính, vì vậy, làng bản thường ở những địa điểm thuận lợi cho việc canh tác lúa nước. Ở đầu bản thường có con lạch hoặc mương nước chảy qua, tiếp đó là những vạt ruộng bằng phẳng hay những vạt ruộng vàn - ruộng bậc thang.
Cư dân Tày có đời sống tín ngưỡng tâm linh phong phú. Họ quan niệm cõi người đang sống là mường gần và cõi mà người chết sẽ đến là mường phi (nơi cư trú của linh hồn người chết, nơi cũng có nhà cửa ruộng vườn, có một cuộc sống tốt đẹp hơn...). Họ còn cho rằng, con người gồm hai phần: thể xác và hồn vía (khoăn), con trai có 7 khoăn, con gái có 9 khoăn. Có nhiều tập tục liên quan đến khoăn: khi ốm là lúc khoăn đi chơi hay bị lạc, thầy Tào phải làm lễ gọi khoăn về. Khi khoăn rời khỏi thân xác (khoăn pây) nghĩa là người đó đã chết, phải làm ma cho họ.
Thành ngữ người Tày có câu: Hết kin nhoòng mỏ mạ (Làm ăn nhờ mồ mả), vì thế, khi có người chết, gia đình cố gắng làm bằng được đám tang, còn gọi là Lễ báo hiếu. Gia đình nào không có điều kiện thì vẫn chôn người chết, nhưng những nghi lễ báo hiếu sẽ phải làm sau, khi có điều kiện. Lễ báo hiếu chính là lễ đưa linh hồn người chết lên trời sống cuộc đời nhàn nhã, có như vậy hồn người chết mới phù hộ cho con cháu.
Trong thủ tục làm đám, gia đình phải mời từ 1 đến 3 vị thầy Tào tiến hành những nghi thức tang lễ. Người chết quàn trong nhà khoảng từ 3, 5, 7 hoặc 9 ngày tùy theo quyết định của thầy Tào.
Một trong những nghi lễ đầu tiên là thủ tục nhập quan. Người ta chọn những cây gỗ tốt để làm áo quan, sau đó là lễ nhập quan. Khi đóng nắp, người ta lấy thóc nếp đốt thành tro đổ nước đun, quấy thành hồ trát kín áo quan.
Nhà táng làm 2 tầng, tầng trên để ở, tầng dưới là chỗ nuôi súc vật, mô phỏng kiểu nhà sàn cổ của người Tày. Trước khi phát tang, gia đình làm thủ tục che ban thờ tổ tiên. Áo quan để ngang gian chính, đầu đặt hướng Nam, phía trên có bát cơm quả trứng (hướng Nam là hướng đi xa, người mất phải dời xa những người đang sống). Cửa nhà táng đặt theo hướng nhà, bên trong là bài vị làm bằng giấy đỏ ghi họ tên, ngày sinh và ngày mất của người quá cố. Hai bên áo quan người ta làm cây hoa thiên lý, cây tiền, tượng trưng cho sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Cờ phan (cờ ma) được dựng phía đầu áo quan, tượng trưng cho vong hồn của người chết trong lúc tiến hành các nghi lễ.
Khi chọn được giờ tốt, thầy Tào cùng những người giúp việc chuẩn bị thủ tục làm ma cho người chết. Dân trong bản cùng đến giúp gia đình làm cơm cúng, làm mũ tang (ăn khuốt) cho tang chủ theo cách thức cổ truyền, biểu thị cho sự ghi nhớ công ơn của những người đang sống đối với người chết.
Tiếp đó là việc lập Đàn lễ. Tranh đạo kinh sư (3 vị Tam Thanh hay còn gọi là Tam Bảo) được treo lên, phía vách trái treo tranh vẽ Ngọc Hoàng và tuần tự, thầy Tào sẽ chuyển tin báo về người chết tới Ngọc Hoàng trong lễ trình báo. Đàn lễ gồm: Thượng đàn (điện Tam Bảo); Ban thờ thập điện (các vị thần trông coi việc cõi âm); Trung đàn (ban thờ tổ tiên thầy Tào); Bát hương của người chết và nơi để ấn tín của Ngọc Hoàng. Tang chủ cùng gia đình hành lễ và túc trực trước linh vị, trong khi đó thầy Tào trình báo tổ tiên và các thánh thần lý do làm lễ, xin chứng giám, giúp đưa hồn người chết lên trời. Tổ tiên ở đây chính là tổ tiên của vị thầy Tào, cùng với thầy thông thiên với các vị thánh thần.
Lễ tẩy uế bắt đầu với nghi thức thầy Tào dùng bát nước lá bưởi (thứ lá tinh khiết, mùi thơm át được tà ma và dùng để tẩy rửa đàn lễ thì khi hành lễ cho thanh tịnh) tẩy uế 5 phương. Thầy Tào khấn mời thần thánh uống trà, nhờ thơ lại đưa tin lên Ngọc Hoàng rằng: Tại bản Phya Đán xã Đào Ngạn huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng có người chết, xin Ngọc Hoàng cấp giấy thông hành để người chết được lên trời với tổ tiên. Đứng sau thầy Tào bao giờ cũng là tang chủ. Thầy Tào, lúc này đã là hiện thân của Ngọc Hoàng, tay cầm tích trượng đồng ý cấp giấy thông hành cho người chết. Sau đó là lễ tụng kinh cứu khổ đổi đời cho người chết.
Lễ cầu xin nước tiến hành vào khoảng 12 giờ đêm sau khi người quá cố được cấp giấy thông hành. Trước đàn lễ thầy Tào khấn bài ca xin nước và cùng đoàn nhạc hiếu đến trước linh cữu chuẩn bị đi xin nước. Dụng cụ lấy nước gồm một thanh kiếm tre; một ống tre treo vào thanh kiếm; một ống tre buộc bó lúa, lược, tiền giấy (bông khẩu péc) dùng để dẫn đường. Khi hành lễ, thầy Tào mời linh hồn người chết theo bài vị và cành phan ra suối lấy nước. Đến bờ suối, tang chủ làm lễ dâng hương cho các thần cai quản nguồn nước. Thầy Tào hát kể mời 6 vị thần trông coi ngũ hành lên xơi trà, ăn cỗ và cầu xin nước; vái lạy 5 phương, lạy xong phương nào vứt về phương đó một tờ tiền. Tang chủ xuống bờ sông múc nước. Trong lúc đó, thầy Tào khấn bài Long Vương cấp nước thần. Lấy nước xong, bài vị và cành phan được rước về nhà, tang chủ cầm tấm vải trắng che đầu để hồn người chết không bị mưa, nắng, gió xâm phạm.
Người Tày quan niệm con người lúc sống ai cũng có tội nên khi chết hồn bị giam hãm dưới ngục tối (thủy phủ). Hồn rời khỏi thân xác thì ngay lập tức dưới địa phủ giam lại, có 9 vị thần canh giữ. Muốn cho người chết siêu thoát, người ta phải phá ngục, chuộc hồn lên làm lễ khai quang để người chết về trời.
Lễ phá ngục được tiến hành vào ban ngày. Ngục bao giờ cũng dựng trong khuôn viên nhà, phía trước là ban thờ với lễ vật thủ lợn, cỗ tạp để dâng cúng thần linh trong bản. Người ta còn cúng một con gà, một con vịt sống dùng đưa hồn vượt ngục về nhà.
Ngục quây vải đen là ngục dương; quây vải trắng là ngục âm; quanh ngục cắm 9 bài vị đặt ở 9 hướng; bài vị người chết đặt ở cửa ngục. Nếu người chết do tuổi già, đau ốm thì chỉ phá một ngục 9 lao tù; chết vì tai nạn thì phá thêm ngục nữa là thương ngục, chết do ngã vực núi thì phá thần núi ngục; chết vì nước thì phá thêm thủy phủ ngục; chết vì sấm sét phá thêm lôi vương ngục; phụ nữ chết do sinh nở phá thêm ngục huyết bồn.
Thầy Tào mời các thần về chứng giám, giúp phá ngục chuộc hồn về. Lễ tẩy uế được diễn ra nơi dựng ngục để chuẩn bị làm lễ phá ngục. Thầy Tào tụng kinh cứu khổ cho người chết. Tờ xá văn và cáo văn được để trên bát gạo đặt trước cửa ngục tù cầu xin xá tội cho người chết. Sau đó thầy Tào hát cầu thánh thần chuộc tội và thả hồn về.
Khi phá ngục thầy đi vòng quanh ngục theo chiều kim đồng hồ 3 vòng vừa đi vừa tụng kinh cứu khổ cho người chết để phá bỏ vòng ngoài. Khi vòng ngoài được giỡ bỏ, thầy cùng gia đình đi vòng quanh ngục, lấy chân giẫm các cột hương dựng vòng ngoài để chuẩn bị phá ngục Âm và ngục Dương.
Cửa ngục được phá với động tác thầy Tào dùng dao nhọn chặt tượng trưng cờ cắm ở đó. Phá trước tiên là cửa phương Đông đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc, rồi Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, cuối cùng là trung tâm ngục.
Tiếp theo thầy Tào tay trái cầm con vịt sống, tay phải làm bùa chú để giúp linh hồn người chết vượt biển từ ngục Âm lên ngục Dương. Thầy lại đi vòng quanh ngục và làm phép tẩy uế nơi ngục Âm vừa được phá, đồng thời gọi linh hồn về trú ngụ trên bài vị để lên ngục Dương.
Những nghi lễ phá ngục Dương lại được tiếp tục giống như phá ngục Âm. Sau cùng là lễ thu hồn người chết từ ngục Dương lên bài vị, và yểm bùa nơi dựng ngục.
Thầy Tào dẫn linh hồn người chết cùng gia quyến đi qua hai cổng chào Thái Sơn và Phong Đô, xin các thần trông coi thổ địa cho hồn được về nhà. Trước cổng chào để một cái mâm, trên có vài bộ quần áo, khăn mũ, giầy, tất, tiền bạc... khi hóa lửa nhìn lớp tro thấy xuất hiện hình dáng là gót chân người, chim, gà thì có nghĩa là hồn người chết về dưới lốt con vật này, là điềm tốt. Nếu là dấu chân ngựa, trâu thì không tốt, người chết không thể hóa kiếp làm người được nữa.
Trước khi đưa hồn người chết vào nhà, linh vị phải đi qua một chiếc cầu uốn cong như hình bụng người đàn bà chửa, sau đó mảnh vải thô dùng làm cầu được cuốn lên coi như hồn đã đi qua. Dưới cầu là hai bát nước màu trắng và đỏ được đổ ra (người Tày quan niệm đây là máu của người mẹ vừa sinh con, thủ tục này chỉ được tiến hành đối với người chết là đàn bà).
Linh hồn được rước vào nhà, lễ khai quang (mở sáng mắt cho người chết) bắt đầu. Với người Tày, người chết xuống cõi âm tối đen mịt mù, phải nhờ thánh Tam Bảo đốt đèn và đèn ở đây tượng trưng là bảy ánh mặt trời chiếu sáng chốn đen tối, giúp người chết nhìn thấy đường để lên trời.
Trong nhà làm lễ khai quang cho người chết thì ở ngoài sân làm lễ cúng các vị thần trong bản và cầu siêu, cho ma lang thang cùng hưởng cỗ nhà đám.
Chiều tối, sau lễ phá ngục, con cháu trong gia đình dâng lễ vật để báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Con trai là người nối dõi tông đường, đứng ra chịu tang chống gậy cõng hồn cha mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng và cùng với thầy Tào hoàn tất những thủ tục để họ có thể về với tổ tiên. Con gái dâng thủ lợn, vàng mã, tiền bạc để cha mẹ có đủ mọi thứ cần thiết đến mường phi.
Lễ nhiên đăng (đốt đèn) nhằm mở sáng đường cho hồn người chết. Bốn cây nến đặt ở 4 góc, một cây để ở giữa nắp áo quan rồi lần lượt được thắp sáng lên. Người ta đổ 3 bơ gạo vào nong, đặt trước vong linh, gạo được gạt phẳng, rồi dùng 4 thanh tre đặt thành vuông, sau đó 10 ngọn nến được thắp lên theo các phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Trung, Thượng, Hạ phương. Mười ngọn đèn tượng trưng cho mười ông vua đèn (thập vương đèn) có nhiệm vụ đưa linh hồn người chết lên trời.
Lễ nhiễu quan được bắt đầu với nghi thức thầy Tào cùng gia quyến đi quanh vong linh người chết than khóc. Thầy Tào cầm quyển kinh vừa đi vừa khấn, bò tiếp sau là tang chủ (cháu nối dòng của người quá cố) trên lưng buộc linh vị, con rể cầm cành phan, con gái gánh gạo, gánh gà vịt, sau cùng là những người thân trong gia đình. Họ vừa đi vừa nghe các bài ca Khởi linh nhiễu quan, Cứu khổ nhiễu quan, Thập nguyệt hoài thai (Bài này chỉ dùng cho trường hợp người mẹ mất), Thập biệt khoa và Giải hạn cho vong hồn người chết. Họ quan niệm, những người thân đi quanh vong linh người chết nhiều bao nhiêu thì hồn người chết sớm được siêu thoát bấy nhiêu và đây cũng thể hiện mức độ báo hiếu của con cháu đối với công ơn của cha mẹ.
Xưa người ta thường làm lễ giải oan cho người chết. Thầy Tào lấy 3 bơ gạo đổ vào nong và đặt vào chỗ gạo đó 36 ngọn cỏ gianh để trừ tà. Thầy Tào tay cầm cành phan vừa đi vừa xướng bài ca giải kết, theo sau là tang hiếu. Đến trước nong gạo, thầy cúi xuống cầm 3 ngọn cỏ và viết bùa chú. Đi hết mỗi vòng thầy ném cỏ ra phía ngoài cửa cho đến khi hết 36 ngọn thì chuyển sang lễ khoa hoa tan, là lễ cúng hoa, đưa ngũ cốc cho người chết. Đoàn tang hiếu tiếp tục cùng thầy Tào đi vòng quanh áo quan, đến trước nong gạo thầy Tào cúi xuống vốc gạo vãi lên trên vong linh.
Lễ cấp phó là lễ cấp tiền bạc, nhà cửa, những vật dụng cho người chết dùng khi bắt đầu cuộc sống mới. Thầy Tào ghi lại những thứ mà gia đình gửi cho người mất. Thầy đọc tờ cấp phó, sau đó tang hiếu điểm chỉ để chứng nhận những vật dụng mà người chết sẽ mang theo. Tờ cấp phó được cho vào phong bì cùng vài hạt gạo, ít tiền thật rồi phong lại, treo lên cành phan. Bài vị của người chết cũng được gắn lên cành phan để chuẩn bị làm lễ khai khoa lộ, mở đường cho hồn người chết về trời. Người ta lấy một tấm vải trắng, mở hai viên ngói trên cửa nhà đặt một đầu vải vào lỗ đó, đầu kia thả xuống đất nơi cửa nhà táng đặt linh vị người chết hướng ra. Gia đình từ biệt người chết và hóa vàng mã, quần áo, giấy thông hành cho người chết. Thầy Tào cùng tang hiếu đến trước đàn làm lễ tạ ơn các vị thần linh chứng giám và giúp đưa linh hồn người chết về trời.
Lễ tách hồn (pjải khoăn) có nghĩa là chia tay với vong hồn. Thầy Tào lấy bát mỡ dùng giấy bản xoắn làm bấc để thắp đèn, đặt lên lưng tang chủ và làm lễ tách hồn. Khi tang chủ ngồi dậy bát úp ngược xuống đất là điềm tốt. Hồn người chết được thầy Tào đưa lên trời qua dải cầu trắng. Lúc này, tang hiếu khóc tiễn đưa người chết và làm lễ tắt đèn (phản đăng). Thầy Tào cùng tang hiếu đi quanh áo quan theo chiều ngược kim đồng hồ để từ biệt người thân, thầy lần lượt tắt từng ngọn đèn và xướng bài ca tắt đèn.
Hành tang còn gọi là lễ đưa ma hay hoàn sơn (trở về núi). Từ sáng sớm người con gái gánh đồ lễ lên chân núi Phya Đán để xin thần thổ địa cho chôn cất người chết vào giờ lành. Trước khi khiêng áo quan ra khỏi cửa, toàn gia quyến làm lễ mặc niệm. Thầy Tào làm phép thu thập đủ hồn vía của người chết để sau này người chết không quay về phá rối con cháu (2). Áo quan được nhấc lên, con cái của người chết chui qua lại với ý nghĩa không muốn dời xa người chết, muốn cõng hồn người chết về núi. Khi áo quan ra khỏi cửa, chiếu, bàn để đồ lễ được lật ngửa lên, người ta dùng chổi quét uế bẩn ra khỏi nhà. Thầy Tào làm phép đuổi tà ra ngoài rồi đóng cửa lại.
Trong đám đưa ma, đi trước bao giờ cũng là người vác đuốc dẫn đường vì người chết không quan niệm được ban ngày và ban đêm. Phía sau là con cháu cầm chướng, cây hoa thiên lý và cây tiền, những người trong ban tang lễ khiêng áo quan, chủ tang và người thân trong gia đình, thầy Tào cầm cành phan, bà con trong bản đưa tiễn người chết. Khi ra đến đầu bản người ta quay hướng cửa nhà táng về hướng nhà để người chết chào từ biệt gia đình và làng xóm.
Những người chưa có điều kiện làm đám ma cho người chết thì vẫn chôn cất nhưng không làm đám. Họ đợi đến khi có đủ tiền thì làm đám ma khô. Trình tự như đám bình thường, chỉ khác một điểm là trước khi làm ma, thầy cúng ra mộ chiêu hồn người chết về để chuẩn bị làm các lễ thức.
Trong đám tang cũng như 1 năm sau đó, người Tày kiêng ăn những gì ám chỉ đến bộ phận của con người. Không ăn bánh gio (được coi như xương cốt), nhãn (được coi là con ngươi), bún (được coi là gân) của người chết...
Lễ hạ huyệt: Khi về đến núi thầy Tào làm lễ nhập địa cho người chết. Khi hạ quan mặt người chết bao giờ cũng hướng về phía Đông. Tục xưa, trước khi hạ quan xuống huyệt thầy Tào làm phép thả một con gà trống xuống trước để "an sơn thần" rồi để nó nhảy lên bờ trong khi con cháu ngồi xung quanh huyệt. Họ cho rằng con gà trống nhảy về phía người nào người đó sẽ được phúc lành.
Khi mộ đắp xong thầy Tào làm phép hóa nhà táng cùng các cây hoa, đồ vàng mã, cấp phó, một số đồ dùng tư trang thì hơ qua lửa tượng trưng là đã chu cấp cho người chết. Sau khi chôn người chết, thầy Tào lập bài vị cho người chết để thờ tại gia đình. Con cháu đã báo hiếu được với người thân đã mất, họ đã lo được mồ yên mả đẹp, đất đai, nhà cửa để người thân của mình được hưởng phúc ở thế giới bên kia.
Vũ Diệu Trung