Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc M’Nông
Showing posts with label ₪ Dân tộc M’Nông. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc M’Nông. Show all posts

Wednesday, July 20, 2016

Nghi thức đón bạn trong lễ hội của người M'Nông (Hoàng Thị Vinh)

Tiếng tù và cất lên báo hiệu người M'Nông vào hội

Theo già làng Marin ở bon Bu Brung Lu, xã Đắk N'drung, huyện Đắk Song (Đắk Nông), các lễ hội lớn mang tính cộng đồng của người M'Nông đều có nghi thức đón bạn, thể hiện lòng hiếu khách, tinh thần đoàn kết, cùng nhau chia sẻ niềm vui với cộng đồng.

Khi tổ chức lễ hội, già làng, nghệ nhân cồng chiêng, một số người có khả năng hát đối ra đón khách ở đầu bon. Khi đoàn khách bon bạn đến, bon chủ nhà hát đối, bon khách hát đáp lại.

Bon chủ nhà trao tặng cho khách những chiếc vòng sức khỏe

Lúc này bài chiêng Ching Ngăn (đón khách) được tấu lên trang trọng để đón chào bà con gần xa về dự. Trong không khí náo nhiệt và âm thanh giòn giã của cồng chiêng, bon chủ nhà trao tặng cho khách những chiếc vòng sức khỏe với lời chúc luôn được khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn.

Người M'Nông hát, múa,cùng nhau chia sẻ niềm vui với cộng đồng

Nghi thức đón bạn thể hiện lòng hiếu khách của người M'Nông

Chủ và khách hát đối đáp

Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)

Dân tộc M’Nông (Đàm Minh Phiếu)

Múa mừng hạnh phúc lứa đôi của dân tộc M nông

Người M'Nông hay còn gọi là người Bu-dâng, Preh, Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor, nhóm M'Nông-Bu dâng, là sắc tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Dân tộc M’nông cư trú tập trung chủ yếu ở tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng và sông Bé.

Tại tỉnh Yên Bái theo số liệu tổng điều tra dân số 1 - 1- 1989 chỉ có 04 người cư trú, đến nay có 6 người đang cư trú, sinh sống (trong đó 03 giới tính nam; 03 giới tính nữ cư trú sinh sống sống ở thành thị 02 người; sống ở nông thôn 04 người).

Dân tộc M'nông có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ  Môn-Khmer (dòng ngôn ngữ Nam Á). Người dân tộc M'nông có tầm vóc thấp, nước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng, nhiều người có tóc xoăn.

Người M'Nông có cả nhà sàn và nhà trệt, ngôi nhà trệt của người M'Nông khá đặc biệt bởi chân mái thường buông xuống gần đất, nên cửa ra vào có cấu trúc vòm như tổ tò vò.

Người M'nông là cư dân nông nghiệp từ lâu đời. Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy (mir) chiếm vị trí trọng yếu. Cây lương thực chính của người M'Nông là lúa tẻ. Số lượng lúa nếp gieo trồng không đáng kể. Ngoài lúa ra, ngô, khoai, sắn cũng được họ trồng thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi heo, gà...

Công cụ làm rẫy của người M'nông Gar, M'nông Chil chủ yếu là: Chà gạc (Viêh), rìu (sùng), gậy chọc lỗ (Rmul), cuốc, Wăng Wít (dụng cụ làm cỏ) và cào..

Xã hội truyền thống của người M'nông còn bảo lưu những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con gái trong gia đình.
Lưu ý: Đây là số liệu theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Yên Bái năm 2009, cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở được thực hiện theo giai đoạn 10 năm một lần, như vậy đến năm 2019 mới có số liệu về dân tộc Kháng tiếp theo.
 Đàm Minh Phiếu (sưu tầm)

Bé gái M'Nông huấn luyện voi gây sốt mạng xã hội (Minh Nguyệt)

Kim Luan bên người bạn thân.

Chỉ trong vòng một tuần đăng tải, hình ảnh em bé huấn luyện voi đã gây tiếng vang trên các mặt báo của hơn 40 quốc gia.
Tác giả chùm ảnh em bé huấn luyện voi là Réhahn Croquevielle - nhiếp ảnh gia người Pháp. Anh sống ở Việt Nam đã 7 năm và đang sở hữu một quán kem nhỏ kiêm phòng trưng bày các tác phẩm của mình. Hiện nay, "tài sản" của Réhahn có khoảng 45.000 bức chân dung ấn tượng được lưu trữ trên fanpage. Những người bình thường trở thành model chuyên nghiệp dưới ống kính Réhahn.

Bức ảnh em bé huấn luyện voi được Réhahn ghi lại trong chuyến du lịch xuyên Việt. Theo tìm hiểu của Réhahn, Kim Luan (tên cô bé) đã huấn luyện chú voi trở thành người bạn thân thiết của mình.

"Khi nhìn thấy Kim Luan chơi đùa cùng chú voi, tôi vô cùng lo lắng cho sự an toàn của cô bé nhưng khi chứng kiến những cử chỉ thân mật giữa hai bên, tôi hoàn toàn yên tâm và rất ngạc nhiên vì chưa bao giờ chứng kiến điều tương tự. Đây cũng là lý do tôi quyết định cầm máy ghi lại khoảnh khắc hiếm hoi này. ". Réhahn chia sẻ.

Sau khi đăng tải, bộ ảnh của Réhahn đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Đặc biệt, tác phẩm đã nhanh chóng trở thành tựa đề cho hơn 40 bài viết trên các website, diễn đàn và mạng xã hội thế giới.

Dưới đây là chùm ảnh em bé M'Nông và 'người bạn già' gây sốt thời gian qua:

Chú voi già.

Bé gái nhỏ bên cạnh chú voi già to lớn khiến nhiều người  thích thú.

Chân dung em bé dân tộc M'Nông.

Minh Nguyệt (sưu tầm)

Thanh bình lễ cúng cổng bon làng người M’Nông (Hồng Hải)

Già làng thổi nung và kêu gọi con cháu.

Lễ cúng cổng bon làng (Bư brah mpêr bon) của người M’nông được tổ chức hàng năm vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 âm lịch, trước khi những cơn mưa đầu mùa rơi xuống. Lễ thường được tiến hành trong vòng 1 ngày, tại bên cổng ra vào bon làng. Mục đích của lễ cúng là để cầu cin các thần mưa gió, thần bão, thần dịch bệnh không gây tai họa cho bon làng trong suốt cả năm, từ đầu mùa mưa năm nay đến đầu mùa mưa năm sau.

Trước khi tổ chức, già làng thông báo cho các chủ hộ gia đình đến họp bàn định ngày tổ chức lễ, phân công công việc, định phần đóng góp của mỗi gia đình.

Định ngày xong, tin sẽ được loan truyền đến các hộ gia đình ngay sau đó. Sáng hôm làm lễ, mọi người trong bon làng mang theo gùi, lễ vật, nông sản, hoa quả, và các vật dụng đến tập trung tại nhà già làng để chuẩn bị cho lễ cúng.

Những "nữ tú" trong buôn giã gạo nấu cơm.

Già làng chuẩn bị lễ cúng trong tiếng chiêng rộn rã.

Lúc này, gái làng giã gạo nấu cơm, trai làng cột ché rượu, đánh chiêng, gùi nước chuẩn bị cho lễ cúng bon làng với không khí phấn khởi, đoàn kết của dân làng trong buổi lễ. Các lễ vật của lễ cúng cổng bon gồm có: gạo trắng, mỗi gia đình một nắm, thuốc hút 1 nhúm, một hòn than củi được nhặt trong bếp bằng tay trái, được quấn một bông vải làm khố gọi là Sah ônh. Sah ônh được coi là vị thần liên lạc giữa con người với các thần linh mang lễ vật của con người dâng lên các thần, mong các thần ban cho sự bình yên giàu mạnh, cho các gia đình và cho cả bon làng.

Dân làng nô nức chuẩn bị lễ vật cúng thần linh cùng già làng.

Lễ vật gồm một cặp ngà voi và một cặp sừng tê giác bằng gỗ.

Bên cạnh ché rượu là một con cọp làm bằng gỗ.

Một cặp ngà voi và một sừng tê giác làm bằng gỗ. Một lá trầu có quét sẵn vôi, một miếng cau. Ba gói bánh nếp gói bằng lá chuối, 3 quả chuối xanh luộc chín, 3 đoạn mía mỗi đoạn 3 đốt, 4 cây nến sáp cắm trên đầu bốn đoạn cây đóng làm cọc.

Phía trước sạp phên cột một ché rượu giả làm bằng vỏ quả bầu khô, bên trong đổ đầy trấu, miệng quả bầu cắm 1 quả ống nhỏ làm cần rượu. Bên cạnh ché rượu giả có dựng tượng một con cọp làm bằng gỗ, ngồi quay mặt từ trong ra phía ngoài. Người M’nông cho rằng các thần xấu, thần ác nhìn thấy tượng con cọp sẽ sợ hãi mà bỏ đi, không dám vào quấy phá bon làng. Phía sau sạp tre, ở giữa hàng rào bon và sạp tre là 1 hàng rào tượng trưng để ngăn chặn các thần ác vào quấy phá.

Già làng lấy tiết lợn hòa cùng rượu.

Lễ cúng tại cổng bon làng.

Sau khi các lễ vật đã được chuẩn bị xong, dân làng trong bon đã đến đủ, già làng sẽ bắt đầu tiến hành làm lễ cúng. Già làng lấy tiết lợn hòa cùng với rượu, cắt ba miếng gan lợn nhỏ, xâu vào một chiếc que cắm bên bình rượu.

Sau khi đã làm lễ cúng tại cổng bon làng, già làng và các chủ hộ gia đình lấy rượu pha với tiết lợn mang về nhà mình để cúng thần giữ nhà Kuăt, thần đá bếp, thần giữ nhà cửa, không cho các thần ác vào nhà gây rối hoặc làm hại người trong gia đình.

Già làng cùng các chủ hộ trong gia đình lấy rượu pha với tiết lợn mang về nhà để cúng thần giữ nhà Kuăt.

Với ước muốn cầu chúc cho những người bạn phương xa, những vị khách quý và các gia đình trong bon làng luôn luôn mạnh khỏe và hạnh phúc.

Già làng trao vòng tay cầu chúc sức khỏe cho dân làng.

Trong không khí hơi se lạnh của những ngày cuối tháng 3 điểm xuyết làn nắng vàng như rót mật, già làng cùng nam thanh nữ tú trong bon và du khách vui vẻ thưởng thức hương rượu cần thơm ngọt giữa nhịp chiêng trầm ấm bồng bềnh. Khung cảnh thanh bình như đưa hồn ta về với dòng sông, con suối, về với núi rừng đại ngàn, thật thanh thản và bình yên, thật êm đềm và hạnh phúc...




Hồng Hải (sưu tầm)

Ruốc gà': Vị thuốc của người M’nông (Hoàng Thị Khuyên)

Món "ruốc gà" có mặt trong ngày hội văn hóa, dịp lễ tết của người dân tộc ở Đắk Nông. Ảnh: baodaknong

Không những là món ăn truyền thống dân dã và gần gũi, “ruốc gà” đối với đồng bào người M’nông, Mạ ở Đắk Nông còn là vị thuốc hữu hiệu để giải cảm, giải độc cho người ốm.
Cùng với cơm lam, thịt nướng, canh thụt… thì “ruốc gà” cũng là một trong nhiều món ăn vừa dân dã vừa ngon miệng của người dân tộc M’nông, Mạ (tỉnh Đắk Nông). “Ruốc gà” là món ăn truyền thống độc đáo được chế biến cùng những nguyên liệu quen thuộc từ thiên nhiên và rất được người dân yêu thích.

Theo người dân địa phương, đã từ lâu “ruốc gà” là một món ăn quen thuộc không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, đặc biệt vào các dịp lễ hội, cúng cống bon làng. Không quá cầu kỳ trong cách chế biến nhưng mang nét riêng, chất riêng mà  món “ruốc gà” đã trở thành đặc sản và được dùng để thiết đãi khách quý.
Có thể nói “ruốc gà” có sức hấp dẫn vô biên. Đó là sự cộng hưởng từ hương vị thịt nướng thơm ngon, tinh túy đất trời và sương mai được tích lũy, thẩm thấu trong những dược liệu, gia vị thiên nhiên cũng như tấm lòng chu đáo của người làm bếp ẩn trong từng nhịp chày giã ruốc.
Từ gà, gừng là 2 nguyên liệu chính, người dân tộc M’nông, Mạ đã làm ra món “ruốc gà” đầy hấp dẫn. Món này làm nhanh, nhưng không kém phần tinh tế, kỹ lưỡng trong từng công đoạn.

Gà rừng sẽ cho hương vị "ruốc gà" chuẩn nhất, ngon nhất. 

Không phải con gà nào cũng có thể làm thành món “ruốc gà” thơm ngon, chuẩn vị. Nhất thiết phải là gà rừng hoặc gà thả vườn, loại mới lớn. Theo kinh nghiệm dân gian, nên chọn con gà nặng khoảng 1kg thì thịt sẽ đậm đà, khi làm ruốc sẽ cho ra đúng hương vị.
Sau khi chọn xong, gà sẽ được làm sạch sẽ, để nguyên con ướp muối ớt trong khoảng 15 phút rồi nướng trên bếp than hồng. Những ai cầu kỳ hơn có thể quết thêm chút mật ong rừng lên mình gà trước khi nướng nhưng cũng không tẩm ướp nhiều gia vị. Vì đồng bào dân tộc M’nông và Mạ cho rằng nướng không gia vị mới giữ được hương vị nguyên thủy của thịt. Gà được nướng đến khi chín vàng ươm là được.
Người làm bếp tiếp tục xé gà ra thành miếng nhỏ, bỏ vào cối giã cùng gừng theo tỷ lệ. Thường thì họ sẽ giã đan xen, cứ rải một lớp thịt gà vào trong cối thì lại thêm một phần gừng. Sau đó, dưới từng nhịp chày khỏe khắn, thịt gà và gừng được giã nát và quyện vào nhau. Thế là được món “ruốc gà”.
“Ruốc gà” đạt chất lượng có hương thơm nồng hấp dẫn. Từng miếng ruốc có vị ngọt đậm của gà, chút béo ngậy của mỡ gà quyện với gừng cay vừa phải, kích thích vị giác khiến ta cứ muốn ăn thêm nữa.
Vượt trên cả một món ăn, “ruốc gà” còn được dùng như một vị thuốc để giải cảm, giải độc (nhờ gừng ấm nồng) giúp cơ thể hết mệt mỏi, lấy lại năng lượng. Tại một số nơi, khi chế biến người ta còn cho thêm cả sả vào để “ruốc gà” dậy mùi thơm cũng như làm ấm bụng, tránh đau bụng, tiêu chảy. Đặc biệt trong những ngày lễ tết, khi dùng quá nhiều đồ ăn thì “ruốc gà” là món ăn vừa thanh vừa chất, có công dụng kiềm lại những cơn đầy bụng, ậm ạch khó chịu.
“Ruốc gà” vừa là món ăn, vừa là vị thuốc. Đây không phải cách nói khoa trương để nâng tầm quan trọng của món ăn đặc sản có nguồn gốc từ người M’nông, Mạ. Mà điều này được chắt lọc qua kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đời người, từ giá trị của món ăn, dược liệu quanh ta. Người ta cũng nghiên cứu và công nhận đây là “tri thức dân gian”.
Chính sự đặc sắc từ nguyên liệu cho đến nét cuốn hút của cách chế biến, thể hiện được những đặc trưng trong nếp sống, sinh hoạt, bản sắc ẩm thực mà “ruốc gà” góp phần làm giàu cho văn hóa ẩm thực của người M’nông nói riêng và dân tộc Việt nói chung. Tới Đắk Nông, du khách đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức món “ruốc gà” thơm ngon, hấp dẫn nơi đây.

Hoàng Thị Khuyên (sưu tầm)

Lễ cúng mưa đầu mùa của dân tộc M’nông (Minh Bắc)

Đội chiêng vừa đi vòng quanh cây nêu vừa đánh bài chiêng mời gọi Giàng và các thần linh về dự và chứng kiến lễ cúng mưa đầu mùa

Lễ cúng mưa đầu mùa là một trong những nghi lễ truyền thống lâu đời và quan trọng đối với đồng bào M’nông. Cầu mong thần mưa ban cho mưa thuận gió hòa, cây cối nảy lộc, đâm chồi, cuộc sống bon làng ngày càng giàu đẹp.

Nét đẹp trong các nghi thức…
Theo quan niệm của người M’nông, mưa đầu mùa là cơn mưa độc, có thể mang lại nhiều điềm xấu cho bon làng, vì vậy cứ vào khoảng tháng 11 hàng năm, bà con người dân tộc M’nông lại tổ chức lễ cúng Giàng Trời để cầu xin các Giàng phù hộ cho những điều tốt đẹp, đồng thời để giải hạn xấu trong năm.

Thầy cúng Y Krai Cil (buôn Jê Juk, xã Đắk Phơi, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) cho biết: “Để làm lễ cúng mưa đầu mùa thì thầy cúng phải tiến hành nghi thức cúng trong nhà trước (cúng Giàng Trời) gồm các lễ vật: một con gà trống sống, một bát cơm, một bát xôi, hai bát rượu, hai bát thịt lợn, một đầu lợn, lông gà... Cây nêu bằng lồ ô cao khoảng 2m đặt giữa nhà, 2 ché rượu cần đặt cạnh hai bên cây nêu.

Sau khi mâm lễ đã chuẩn bị xong, thầy cúng với trang phục trang nghiêm chính thức bắt đầu tiến hành nghi lễ cúng mưa đầu mùa. Thầy cúng cắt tiết gà từ hai bên khóe mỏ con gà trống còn sống, lấy tiết hòa với rượu, vừa khấn vừa lấy chiếc lông gà quét vào chén rượu rồi bôi lên các vật dụng trong nhà như: cột nhà, rổ, rựa, cuốc, cửa trước, cửa sau, cầu thang... để cầu xin thần linh giữ sức khỏe cho con người, cho căn nhà được êm ấm, tránh mọi rủi ro, tai nạn trong lao động sản xuất”.

Thầy cúng Y Krai Cil đọc lời khấn: “Ơ Giàng Trời, Giàng đất, Giàng sông, Giàng suối, Giàng rừng… Hôm nay thay mặt người dân bon làng, tôi mời gọi các Giàng về uống rượu trong ché, cùng chứng kiến và ban phước lành cho người dân trong bon, cho con cháu được mạnh khỏe. Thần cột nhà che chở cho cháu con được an lành; thần lửa hãy tránh xa đừng mang họa vào nhà của người dân”.

…Mong muốn những điều tốt đẹp đến
Sau khi tiến hành nghi lễ cúng trong nhà xong, thầy cúng tiếp tục tiến hành nghi thức cúng ngoài sân với một ché rượu cần và một cây nêu bằng tre dựng sẵn; trên ngọn cây nêu treo chiếc gùi nhỏ đựng một chiếc đùi gà, chuối, trứng vịt, cơm, xôi... Thầy cúng vừa khấn vừa dùng lông gà quét vào chén rượu hòa với tiết gà bôi lên thân cây nêu, trong khi đội chiêng vừa đi vòng quanh cây nêu vừa đánh bài chiêng mời gọi Giàng và các thần linh về dự và chứng kiến lễ cúng mưa đầu mùa. Mời gọi các Giàng về ăn thịt heo uống rượu trong ché, phù hộ cho bon làng mọi điều tốt đẹp. Cầu xin hồn bắp trên ngọn tre, hồn lúa như cây xanh, cái xà gạc, cái cuốc, ché rượu cao như ngọn núi; con heo, con gà đầy đàn dưới chân núi Nam Ka, hồn lúa, hồn bắp từ thần Yang Rlăk được tươi tốt, nước suối người M’nông tràn khắp buôn làng.

Tiếp đến thầy cúng khấn các Giàng để khai hội hái lộc. Một số thanh niên, trai tráng sẽ leo lên cây nêu đã được bôi mỡ lợn để lấy lộc đựng trong chiếc gùi nhỏ và lấy cơm nóng đựng trong chiếc gùi rải khắp xung quanh để cầu mong những con gà, con lợn có cái để ăn, sẽ sinh sôi ngày càng nhiều, buôn làng sẽ sung túc.

Cúng ngoài trời xong, thầy cúng tiếp tục nghi thức cúng trong nhà với mong muốn quanh năm Giàng ban cho cái tốt, điều lành, những cơn mưa hiền hòa, hoa màu bội thu, không cho cái đói cái khát, mong cho lúa đầy kho, ngô đầy bồ, đầy nhà, cuộc sống bon làng ấm no, hạnh phúc.

Sau khi nghi thức cúng mùa đầu mùa đã xong, thầy cúng sẽ mời mọi người cùng uống rượu cần, ăn thịt nướng, cùng hát các làn điệu dân ca và đón chào những điều tốt đẹp đến.
Minh Bắc (sưu tầm)

Cưới hỏi của người M’Nông - Dao (Lý Thị Ninh)

Lễ cưới của dân tộc M'nông Preh ở Tây Nguyên

Người M’Nông cư trú khu vực Tây Nam Tây Nguyên. ở bốn tỉnh: Đắk Nông, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Bình Phước số dân khoảng 67 nghìn người.
Đến thời điểm này gia đình của người M’Nông vẫn chủ yếu là gia đình mẫu hệ, con sinh ra thuộc dòng họ mẹ. Cư trú được xác định sau hôn nhân chủ yếu là sống ở nhà vợ, một vài địa phương xuất hiện hình thức cư trú song phương rồi ra ở riêng. Trong gia đình người nữ đứng vai trò chủ đạo nhưng người đàn ông vẫn được vị nể quyền thừa kế tài sản thuộc về người con gái út.

Với Người dân M’Nông, sính lễ được coi như khoản tiền đền bù đôi chút giá trị lao động của người bên này sau khi cưới sang ở nhà bên kia. ở các nhóm M’Nông, Rlăm, Prâng, Pren, Nong… Nếu sau lễ cưới vợ chồng sinh sống ở bên nào thì bên ấy gánh vác khoản tiền đền bù.
Nam nữ thanh niên M’Nông đến lúc thanh niên thường phải cưa răng và có quyền đi lựa chọn người yêu để tiến đến hôn nhân. ở một vài nơi có tục đính ước cho con cái khi chúng còn là vị thành niên, những việc đính ước đấy mong trở thành hiện thực. Nếu xảy ra việc từ hôn sau đính ước chỉ cần tiến hành một món lễ nhỏ và trả lại phía bên kia, một kỷ vật mà thông thường là chuỗi hạt cườm.


Hiện nay cưới hỏi có nhiều thay đổi, việc cưới hỏi phần nhiều do phía nhà trai đứng ra chủ trì. N’Dranh là người trung gian để dàn xếp giữa nhà trai và nhà gái. Mỗi bản làng thường 1, 2 người D’ranh (tức là người làm mối) họ đều là những người đúng mực, ở độ tuổi ngũ tuần. Hai vợ chồng người làm mối phải song toàn, sống vui, sống đẹp, sống hạnh phúc. Mang lộc đến cho đôi trai gái.
Ở mỗi nhóm M’Nông, tập quán cưới xin có hơi khác nhau một chút, nhưng cái cốt yếu vẫn phải trải qua ba bước: Sa vu hay săm suông, sô nốp, tâm ốp và tâm sông tương tự như ba bước chính trong hôn nhân của người Kinh (lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới).
Sau là lễ thức mà người mai mối thay mặt cho nhà trai đem hai ống lồ ô đựng lễ vật đến nhà gái cầu hôn. Nếu họ ưng thuận thì nhận hai ống lồ ô, nếu nhà gái từ hôn thì gửi cho ông mối một bát gạo để đưa đến nhà trai. Trường hợp nhà gái chấp nhận thì bước nghi lễ thứ hai được tiến hành bàn bạc với quyết tâm xây dựng của hai phía.
Tâm ốp là nghi lễ đóng vai trò thông báo chính thức đến họ hàng, bè bạn và dân làng biết việc tiến hành hôn nhân của đôi trai gái một cảnh thông tỏ ngõ ngàng. Trong nghi lễ này bên nhà trai cử người đến nhà gái đem theo một số lễ vật như: hạt cườm, lược sừng, vòng đồng, con lợn chừng 20kg, một ché rượu bằng sành hay sứ là đặc biệt là khoảng từ 20- 30 ống măng chua cùng với da trâu nuôi. Tại buổi vui mừng họp mặt này việc cư trú của đôi tân hôn sau khi lễ thành hôn sẽ được thỏa thuận theo luật tục.
Tâm  NSông là nghi lễ đưa đôi tân hôn về ăn ở với nhau. Tiệc cưới được tổ chức long trọng ở cả hai bên gia đình và kéo dài đến vài ba hôm sau. Ăn chỉ có thịt và rượu thôi không mâm cao cỗ đầy nhưng thắm tinh dân tộc. Nếu một đám cưới mà sau đó chú rể cư trú tại nhà vợ thì nghi lễ được nhà trai đem biếu tặng mỗi người trong gia đình nhà gái một bát gạo đầy để sau đó sẽ tặng lại mỗi người trong gia đình nhà trai một ché sành hay sứ để ủ rượu cần. Lễ thực được tổ chức chủ yếu ở bên cây cột chính giữa nhà, trên thân cột đó hai người làm chứng buộc một con dao chà gạc. Ông mối đứng làm chủ lễ lẩu tân lang và tân giao nhân đến bên cây cột rồi cầm tay họ đặt lên một chiếc chà gạc và căn dặn về bổn phận của vợ chồng sau khi cưới, sau khi xong thủ tục lễ nghi là cuộc vui say giữa họ hàng thân thuộc mừng vui chúc tụng cô dâu chú rể bách niên gia lão. (Quần áo cưới màu chàm giản dị, ít hoa văn).
Theo tập tục của người M’Nông, vợ chồng ở luôn trong nhà một tuần sau ngày cưới gọi là “ở cữ’ sau đó là tuần lại mặt, một tuần nữa đôi vợ chồng mới cưới được sự chúc lành của ông mối hay bà mai khi họ đến thăm và tặng vị mai mối bát gạo đầy… Tuy đơn sơ bình dị nhưng tỏ ra cung kính, trọng nghĩa vẹn tình.
Những nét đẹp ở trên phản ánh trung thực phong tục cưới hỏi đã được thực hiện từ lâu đời ở miền Tây Nam và Tây Nguyên. Đơn giản, mộc mạc gọn nhẹ nhưng mang đầy tính nhân văn, xung quanh vấn đề cưới hỏi, chỉ cần đến những chét rượu bằng sành hay bằng sứ, da trâu, thị lợn, măng gạo… mang sang nhà gái một số lễ vật như hạt cườm, lược sừng, vòng đồng, lợn quay thế là ổn.  Khẩu phục là món ăn truyền thống không thể nào thiếu được với người dân tộc.
Dù là mẫu hệ hoặc nửa mẫu hệ luật lệ đã có từ lâu đời của người M’Nông, Nhưng người đàn ông vẫn được tôn trọng. Khác hẳn với đi ở rể của người Kinh là bị phụ thuộc tới 70%. Đồ sính lễ đây là tự nguyện đầy thiêng liêng và cao cả gọi là đóng góp một phần nào để xây dựng tổ ấm chung.
Người M’Nông có thịt có gạo, có rượu, măng rừng, nấm hương, mộc nhĩ là vấn đề cưới hỏi đã được 90% rồi. Không có tiền vẫn lo tốt. Đây là một tấm gương sáng đáng được nhân lên, tự túc tối đa, không xa hoa lãng phí là giải  pháp tối ưu để từng bước tiến lên cưới hỏi theo đời sống mới.
Việc cưới hỏi của người Dao có khác hơn, họ sống đông nhất ở các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lai Châu, Lạng Sơn… Hiện nay ở nước ta có hơn 30 nhóm người Dao các nhóm người Dao chính gồm: Dao đỏ. Dao tiền, Dao quần chẹt, Dao cóc mùi, Dao trâng, Dao sừng đỏ… Người Dao có nhiều tiến bộ và văn minh hơn các dân tộc khác. Họ không những sống bằng nghề lúa nương và lúa nước mà còn trồng hoa mầu và trồng lanh dệt vải từ rất sớm. Kỹ thuật canh tác của người Dao có nhiều tiến bộ mặc dù nông cụ sản xuất của họ còn thô sơ và nghèo nàn. Một số nghề thủ công nghiệp của người Dao cũng sớm phát triển như: dệt vải, rèn dụng cụ, mộc, làm giấy, ép dầu, mây tre đan… Họ thường đem các vật dụng làm được đổi lấy hàng hóa hoặc đem chúng ra chợ bán. Chăn nuôi trâu ngựa, dê, chó, lợn, gà… của người Dao cũng hết sức phát triển, thức ăn chủ yếu của người Dao là măng, đôi khi cũng có thịt cá. Người Dao thường giết mổ gia súc, gia cầm vào những ngày lễ hội, tết nhất, ma chay và đặc biệt là vấn đề cưới hỏi được sử dụng nhiều hơn về cả gia cầm lẫn gia súc. Vì tục lệ cưới hỏi ở đây còn nhiêu khê và rườm rà mang tính phức tạp gồm nhiều công đoạn. Không phải mẫu hệ mà đi ở rể lần này vẫn giữ nghi lễ cổ hủ trong đám cưới khi rước dâu cô dâu phải đội mũ chùm đầu, còn có cả dàn nhạc đi theo rất rầm rộ và hoành tràng. Cô dâu quần áo thêu thùa diêm dúa. Nét hoa văn nổi lên trông rất lộng lẫy, quả là một sơn nữ hiện lên giữa rừng xanh- giữ nên nét truyền thống trang phục của phụ nữ Dao khi đi dự đám cưới, đi lễ hội rất phong phú đa dạng với những đường nét… Mầu sắc rực rỡ đặc biệt là Dao đỏ, Dao cóc mùn, Dao tiền, Dao quần chẹt trên đầu có đội khăn trắng nhờ những đường nét hoa văn và cách ăn mặc của phụ nữ không những để chính họ mà các bạn cũng có thể phân biệt các nhóm Dao khác nhau.
Cưới hỏi của người M’Nông mang tính tự túc cao- lành mạnh và tiết kiệm, Đố sính lễ tự sản xuất, ăn cưới chỉ trong gia đình họ hàng, làng bản. Sau khi cưới mang lại niềm hạnh phúc cao, đáng trân trọng, xưa và nay đều có tiến bộ.

Lý Thị Ninh (sưu tầm)