Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Rơ Măm
Showing posts with label ₪ Dân tộc Rơ Măm. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Rơ Măm. Show all posts

Monday, July 25, 2016

Tổng Quan Dân Tộc Rơ Măm (Nông Minh Lý)

1. Vài Nét Về Dân Tộc Rơ Măm
Dân số: 436 người (2009)
Ngôn Ngữ: Tiếng nói của người Rơ-măm thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me, ngữ hệ Nam Á.
Tên gọi khác: Rơ-măm Ale
Nhóm địa phương: Địa bàn cư trú: Kon Tum, Tp.Hồ Chí Minh,Đồng Nai
Địa bàn cư trú:

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Rơ Măm ở Việt Nam có dân số 436 người, có mặt tại 7 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Rơ Măm cư trú tập trung tại tỉnh Kon Tum (419 người, chiếm 96,1% tổng số người Rơ Măm tại Việt Nam), các tỉnh khác có rất ít như thành phố Hồ Chí Minh (9 người), Đồng Nai (3 người).

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Cũng như các dân tộc khác ở nước ta, người Rơ Măm sinh sống bằng nghề trồng trọt trên đất rừng Tây Nguyên. Phương thức canh tác theo kiểu sơ khai, tức là phát rừng, đốt rẫy, chọc lỗ, tra hạt. Với phương thức canh tác này, đồng bào Rơ Măm chủ yếu sống du canh, du cư. Mọi mảnh rẫy trong trong hai, ba năm lại phải bỏ hoá, rồi đi tìm khu rừng mới để phát rẫy mới. Hầu như năm nào cũng có rẫy bị bỏ hoá, cho nên năm nào cũng phải cất công đi tìm rừng để phát rẫy mới. Thông thường vào đâu mùa xuân, đồng bào đi tìm, phát rừng làm rẫy mới. Họ chọn những rừng già, nhiều cây cối rậm rạp để chặt cây, phát cỏ, chờ cho cây cỏ khô.

Việc chọc lỗ, tra hạt giống cây trồng cùng được thực hiện theo một lộ trình nhất định, cần hai người cùng thực hiện quy trình này, người trồng đi trước, cầm một gậy chọc lỗ, tương ứng mỗi bước chân đi là chọc một lỗ, người vợ đi theo sau, đeo túi đựng hạt giống và một tay cầm gậy và một tay móc vào túi lấy hạt giống đi theo sau người chồng thục lỗ. Một tay móc túi lấy hạt bỏ xuống lỗ, tay kia cầm gậy (đầu tù) gạt lấp hạt giống. Kỹ thuật sản xuất hoàn toàn đơn giản, nhưng phù hợp với điều kiện thực tế ở miền núi, khi đất rộng người thưa. Chọc lỗ để gieo trồng, đất không bị cày xới tung lên như cuốc, cày, cho nên đất ít bị bạt màu, xói mòn khi mưa xuống.

Cây trồng chính là lúa nương, ngô và sắn. Trong lúa nương có hai loại lúa lếp và lúa tẻ. Đồng bào Rơ Măm chủ yếu trồng lúa nếp. Sau khi gieo hạt giống người Rơ Măm ít chăm sóc cây trồng, không bón phân, không làm cỏ, cho nên năng suất không cao, sản lượng thu hoạch bị hạn chế. Ngoài cây lương thực, người Rơ Măm còn trồng khá nhiêu cây thuốc lá, vừa để hút vừa đem đi trao đổi lấy hàng khác.

2.2. Chăn nuôi
Đồng bào Rơ Măm chăn nuôi gia súc, gia cầm trong từng gia đình. Những con vật thường nuôi là trâu, lợn, gà, vịt. Đồng bào nuôi trâu không phải để kéo cày như nhiều dân tộc khác, mà chủ yêu để làm vật hiến sinh tế thần linh trong các nghi lễ quan trọng của đồng bào, sau đó là ăn thịt. Các con lợn, gà, vịt vừa để hiến sinh trong các nghi lễ nhỏ, vừa dề làm thực phẩm ngày lễ tết, dịp có khách quý.

2.3. Khai thác tự nhiên
Chọn rừng rú làm nơi sinh sống, đồng bào Rơ Măm đã tận dụng thu hái, thổ sản và săn bắn thú rừng. Những con thú rừng thông thường mà đồng bào hay săn bắn là hươu, nai, hoẵng, cày, cáo. Trường hợp những con thú to như gấu, hổ,… người Rơ Măm cũng sẵn sàng tìm cách hạ thủ. Phương tiện để săn bắn chủ yếu là cung tên với mũi tên thường hoặc mũi còn tẩm thuốc. Khi bị tên thuốc độc, con thú sẽ bị mê, rồi chết. Đương nhiên, lượng thuốc độc ngấm vào thân thể con vật làm chết con vật khi mổ con vật lấy thịt, người ta chế biến làm giảm độ độc, cho nên về cơ bản không ảnh hưởng đến sức khoẻ của người sử dụng thịt săn dược đó.

Đồng bào Rơ Măm rất quan tâm thu hái lâm thổ sản như: song, mây, nấm hương, mộc nhĩ, măng rừng, rau rừng, hoa quả dại trong rừng,cúi đố, cây làm nhà cửa. Với kinh tế tự túc, tự cấp. Nhừng lâm thổ thu hái được từ tự nhiên thực sự đã góp vào bữa ăn hàng ngày của đồng bào, thậm chí những gỗ quý còn được dùng vào việc dựng nhà cửa, quan tài, làm nhiều loại công cụ sản xuât khác nhau.

Nghề đánh bắt cá khá phát triển. Do sinh sống dọc theo bờ sông. Thầy, cho nên đồng bào có nguồn cá, tôm khá dồi dào. Họ thường xuyên đánh bắt cá và chính nguồn lợi từ dòng sông mang lại cho đồng bào thu thập đáng kể: vừa giúp cải thiện bữa ăn, vừa có thể đem bán ở chợ.

2.4. Ngành nghề thủ công
Ngành nghề thủ công ở người Rơ Măm được phát triến khá. Trong các ngành nghề thủ công, nghề dệt được chú ý nhất và được coi là phát triển hơn cả. Trước đây ở làng Rơ Măm, các gia đình đều có mảnh vườn để trồng bông. Nương này được chăm sóc cẩn thận, nhất là thời chuẩn bị vào mùa thu hoạch bông.

2.5. Trao đổi, mua bán
Với kinh tế tự túc tự cấp, việc trao đổi, mua bán trong dân tộc Ho Măm ít phát triển. Người thường đi chợ trong vùng trao đổi, mua bAn một số mặt hàng với các dân tộc ở Lào hoặc người Brâu ở Căm-pu-chia.trao đổi hàng với người Ba Na, Xơ Đăng ở ngay trong vùng để lấy mặt hàng cần thiết cho đời sống và sản xuất như: muối ăn, dao, rìu, đồ làm đẹp cho phụ nữ: khuyên tai. Người Rơ Măm thỉnh thoảng cũng có hàng sang nước bạn để tìm đổi lấy hàng theo nhu cầu của mình. Mọi hàng người Rơ Măm hay mang ra chợ đổi lấy hàng, hoặc bán lấy tiền mua hàng là: lâm, thổ sản, gia súc, gia cầm. Thuốc lá là mặt hàng được người Rơ Măm đưa ra chợ trao đổi. Một ống thuốc lá khô, dài khoảng 1 gang tay người Rơ Măm đem ra chợ được một chiếc khố có thêu hoa vfm đẹp. Riêng đối với hoa tai bằng ngà voi, đồng bào Rơ Măm phải đổi bằng nồi đồng, hoặc chiêng, ché đi đổi lấy.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng người Rơ Măm được gọi là đê, dựng chủ yếu dọc theo sông Sa Thầy, mỗi làng có độ chục ngôi nhà, kể cả nhà rông. Mỗi làng có đất sản xuất và đất rừng chung của cả làng. Do kinh tế chậm phát triển. cho nên đất rừng của mỗi làng thường rất rộng, để người dân làng thường ngày vào rừng kiếm nhiều loại lâm thổ sản khác nhau.

ở Bắc Tây Nguyên, làng của người Rơ Măn, người Brâu, người Xơ Đăng được cấu trúc tương tự như nhau. Nhà rông đưực dựng ở giữa, vùng quanh nhà rông là nhà ở của từng hộ gia đỉnh. Các ngôi nhà riêng t lia gia đình đều hướng vào nhà rông. Xung quanh nhà rông là bãi đất rộng, có thể chứa được cả dân làng khi cần thiêt. Trẻ con thường lấy sân làm nơi vui chơi hàng ngày. Xung quanh làng được rào giậu cấn lh(in, chỉ để một cổng ra vào. Hàng rào này có tác dụng chống trộm cướp, thời ngăn không cho trâu làng khác vào trong làng.

3.2. Nhà ở
Nhà ở của người Rơ Măm là nhà sàn nhỏ, dài, được dựng bằng tre, nứa, lá. Những nguyên vật liệu này là sản phẩm của tự nhiên, không mất tiền mua, mà chỉ mất công đi thu hái lấy về dựng nhà. Kỹ thuật dựng nhà đơn giản, thô sơ: dùng cây cột chôn xuống sử dụng luôn ngoãm của cây làm chỗ gác xà nhà, quá giang; dùng lỗ ô để làm sàn ở, làm vách xung quanh nhà. Các nhà đều mở cửa so ở đầu hồi, có sàn ngoài mái nhà, có cầu thang lên sàn, rồi vào nhà.

Ngôi nhà được cấu trúc gồm nhiều gian. Nhìn từ ngoài vào, đếm hàng cột ở dưới gầm sàn ta có thể biết được chính xác ngôi nhà có mấy gian. Thông thường có một gian to nhất ở giữa, còn tiếp đó ở hai bên gian to là những gian nhỏ. Gian to là nơi tiếp khách, nơi sinh hoạt chung, còn gian nhỏ là của từng đôi vợ chồng. Từng gian nhỏ được ngăn thành buồng. Mỗi buồng đó được chia thành hai nửa: một nừa để ngủ, nữa kia dể làm bếp nấu ăn và để một số dụng cụ gia đình. Cả nhà dài có một đường đi qua giữa nhà thông từ đầu này đến đầu kia của ngôi nhà.

3.3. Y phục, trang sức
Trang phục của người Rơ Măm được làm bằng vải bông. Đồng bào tự làm ra quần áo từ khâu trồng bông dệt vải đến khâu cắt may, làm ra bộ y phục. Bộ y phục của phụ nữ Rơ Măm gồm váy và áo cộc tay. Váy của chị em có chiều dài quá đầu gối hoặc dài lắm là đến ngang bắp chân. Đây là loại váy mở, khi mặc quấn váy quanh người. Chiếc váy truyền thống của phụ nữ Rơ Măm ít được trang trí hoa văn, mà thường chỉ một mầu nền. Đàn ông Rơ Măm thường đóng khổ, ở trần. Khố có vạt trước và vạt sau đều dài, vạt trước buông dài tới đầu gối, vặt sau dài đến bắp chân. Bộ y phục của nam, nữ Rơ Măm đa phần chỉ có màu trắng tự nhiên của bông.

Phụ nữ Rơ Măm có tập quán thích đeo hoa tai. Người nhà giàu đeo hoa tai bằng ngà voi, nhà nghèo đeo hoa tai bằng tre, bằng gỗ. Phụ nữ cũng thường đeo vòng tai bằng đồng to có những chiếc vòng tai 1 đường kính 5 – 6cm. Những trường hợp đeo hoa tai nặng như vậy, dái tai xệ xuống gần chấm vai. Theo tập quán cũ, nam nữ thanh niên Rơ Măm đều cà 4 – 6 răng cửa hàm trên để làm đẹp và cũng là để đánh dấu bước trưởng thành trong đời người. Cà răng xong được cộng đồng tôn trọng được coi là người lớn, được quyền giao thiệp với xã hội, tiếng nói có giá trị trong cộng đồng.

3.4. Ầm thực
Người Rơ Măm ăn cơm như các dân tộc khác ở Tây Nguyên. Thực phẩm trong bữa ăn chủ yếu là rau và cá, thu hái và đánh bắt được trong rừng và trên các dòng sông suối, gần nơi cư trú của đồng bào Trước đây khi đất rộng, người thưa, nguồn thực phẩm thu hái. đánh bắt được từ tự nhiên khá phong phú. Thịt thú rừng săn bắn được nguồn thức ăn thịt quan trọng của đồng bào. Những con vật nuôi trong gia đình như trâu bò, lợn, gà,… thường dùng vào việc hiến sinh cúng than sau đó ăn thịt. Nhìn chung, bữa cơm thường ngày thì nhiều rau xanh, còn bữa ăn ngày tết nhất, lễ hội thì nhiều thịt hơn rau xanh.

3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Rơ Măm sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng

3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói của dân tộc Rơ Măm thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, gần với tiếng của các dân tộc cư trú trong vùng, cùng nhóm ngôn ngữ. Tiếng nói của đồng bào chỉ sử dụng trong cộng đồng dân tộc mình. Tuy nhiên, dân tộc Rơ Măm không chỉ sinh sống nước ta, mà họ còn sinh sống ở nước láng giềng Căm-pu-chia. Tiếng nói của người bên này và bên kia biên giới đều như nhau, cho nên họ có giao tiếp với nhau một cách bình thường bằng ngôn ngữ của chính mình.

Dân tộc Rơ Măm chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình. Ngày nay, con em của đồng bào đi học ở các trường, sử dụng chữ Quốc ngữ.

3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Rơ Măm tin vào đa thần giáo, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật như: ngọn núi, dòng sông, mô đất, gốc cây cổ thụ, cây lúa, cây sắc,… đều có linh hồn. Linh hồn của mọi vật được đồng bào gọi bằng tên chung là Jàng – thần linh. Các thần linh này đều có thể tác động đến đời sống con người và mọi sinh vật: cây trồng, vật nuôi. Chính từ quan niệm như vậy, người Rơ Măm đã có nhiều nghi lễ cúng bái các thần linh, nhất là các thần linh liên quan đến nghề trồng trọt cây lúa trên rẫy.

Mỗi lần phải tổ chức thực hiện, từ khi phát, đốt rẫy cho đến khi gieo hạt, thu hoạch, đưa thóc vào kho. Vị thần cần cúng trong các nghi lễ này là thần lúa. Choi xic là lễ cúng khi đốt rẫy, với vật cúng là gà và rượu. Ét choi may, là lỗ cúng khi trỉa lúa. Tập quán cúng thần khi trỉa lúa , chủ gia đình trỉa tượng trưng một nắm lúa ở khoảnh đất đầu lối vào lầy. Tiếp theo, chủ nhà cắm ống rượu tại nơi trỉa lúa. Ống rượu này có hoà thêm máu lợn hay gà, rồi rắc một ít gan, thịt con vật hiến tế xung quanh ống rượu. Chủ nhà khấn mời Jàng Sri về bảo vệ rẫy lúa, cầu xin một vụ mùa bội thu. Sau lễ Ét choi may, cả nhà mới được đi trỉa lúa. Nghi lễ tiếp theo liên quan đến cây lúa là khi lúa lên đồng, lúc đó phải cúng ở trên rẫy và ở nhà. Đến vụ thu hoạch, để được lên rẫy suốt lúa, người Rơ Măm cũng cần thực hiện một nghi lễ gọi là xet. Thông thường, đồng bào trồng lúa sớm và lúa muộn, cho nên, lề xet phải thực hiện hai lần: một lần cho suốt lúa sớm và một lần cho suốt lúa muộn. Trong lễ cúng xin Jàng cho suốt lúa sớm – et xet may, bà chủ gia đình suốt chừng một gùi lúa và làm cốm rồi gói một nắm giắt lên mái nhà, ý là cúng mời Jàng Sri về ăn lúa sớm. Có nhà không làm cốm mà làm cơm lam để cúng Jàng Sri. Lễ vật cúng đặc trưng cho lễ này là cốm hoặc cơm lam, còn có một ché rượu hoà tiết lợn hoặc gà. Tim, gan con vật hiến sinh được thái nhỏ và bày xung quanh ché rượu. Theo tục lệ người Rơ Măm, chỉ con cháu trong nhà mới được ăn cơm mới. Khách được mời đến chỉ được uổng rượu và ca hát vui cùng gia đình. Lễ cúng suốt lúa muộn thường được tố chức ở trên rẫy và linh đình hơn lễ cúng suốt lúa sớm.

3.8. Lễ hội
Lễ cúng mừng lúa mới là lễ to nhất và cũng là tết của người Rơ Măm nhằm tạ ơn Yàng đã cho một vụ mùa bội thu, lúa đầy gùi, có bắp đầy kho. Thời gian diễn ra khi việc thu hoạch của người dân đã diễn ra xong xuôi và chuẩn bị đưa lúa xuống kho.

3.9. Gia đình, dòng họ
Mỗi ngôi nhà là nơi ở của một gia đình. Gia đình người Rơ Măm là gia đình nhỏ. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể gặp ngôi nhà dài, trong đó, hố mẹ và các cô gái hay cả các anh em ruột, các con dì. con già cùng chung sống. Song trong các ngôi nhà lớn đổ, lại có các gia đình nhỏ, có nguồn kinh tế riêng: từng cặp vợ chồng hay từng hộ đã tổ chức trồng Irọl riêng, chăn nuôi riêng, ăn uống riêng. Giữa các gia đình có quan hệ vay mượn, trao đổi, mua bán những sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, hàng thủ công,… do họ tự làm ra. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số gia đình trong đó con cái đã có vợ, có chồng, sống chung trong một ngôi nhà vẫn có nguồn kinh tế chung với bố, mẹ: làm rẫy chung, kho thóc chung, nhưng có bếp riêng, nấu ăn riêng, tự túc thực phẩm cho bữa ăn riêng của gia đình nhỏ.

3.10. Tục lệ cưới xin
Hôn nhân của dân tộc Rơ Măm là ngoại hôn dòng tộc. Hôn nhân giữa con chú với con bác, con dì với con già, con cô với con cậu đều bị nghiêm cấm. Có một số trường hợp, mức độ tự nguyện, khi chồng chết, em chồng có thể lấy chị dâu làm vợ, nhưng phong tục không chấp nhận anh chồng lấy em dâu. Ngược lại, khi vợ chết, người chồng có thể lấy em gái vợ làm vợ, nhưng ngăn cấm hôn nhân với chị vợ. Tuy nhiên, phong tục lại chấp nhận việc hai anh em trai nhà này lấy hai chị em gái nhà kia.

Hôn nhân của người Rơ Măn là hôn nhân một vợ một chồng bền vừng. Đồng bào trọng chung thuỷ vợ chồng, đã yêu nhau, lấy nhau có con rồi là gắn kết với nhau suốt đời. Ngoại tình coi là một thứ tội phạm, bị dư luận cộng đồng lên án và bị xử phạt nặng theo luật tục.

Việc cư trú sau hôn nhân của người Rơ Măm thường diễn ra theo hình thức cư trú luân phiên: ở bên cha mẹ vợ 4-5 năm, sau đó chuyển sang ở bên gia đình bố mẹ chồng 4-5 năm. Việc luân phiên cư trú như vậy kéo dài cho dến khi một bên cha mẹ chết hết thì về ở hẳn bên cha mụ còn sống. Tình trạng cư trú luân phiên sau hôn nhân chấm dứt. Trường hợp kết hôn với người Rơ Măm ở nước ngoài cũng phải thực hiện cứ luân phiên như vậy.

Trước đây, người Rơ Măm chỉ kết hôn với người cùng dân tộc. Càng về sau, do việc giao lưu giữa các dân tộc được mở rộng, thì hôn nhân cũng được mở rộng theo. Trong làng người Rơ Măm, thậm chí trong nhiều gia đình, xuất hiện những người dâu, rể khác dân tộc. Những cô dâu, chú rể khác dân tộc thì dùng tiếng và sinh hoạt theo phong tục, tập quán của gia đình dân tộc mà họ đến làm dâu, làm rể.

3.11. Tập quán tang ma
Nhà mồ của người Rơ Măm
Tập quán dân tộc Rơ Măm, khi có người chết, sau khi làm một thủ tục: rửa sạch sẽ, thay quần áo mới cho người chết xong người Rơ Măm không có tục lệ quàn người chết ở trong nhà, mà đưa thi hài ra ngoài nhà, đặt trước cửa nhà, đầu hướng vào nhà, mặt nhìn nghiêng. Sau một hoặc hai ngày mới đưa đi mai táng ở nghĩa địa chung của làng. Trong nghĩa địa, các ngôi mộ được xếp theo một trật tự nhất định. Quan tài được đặt sao cho mặt người dưới mộ không nhìn vào làng, với ngụ ý những điều không lành cho hàng xóm. Nghĩa địa của làng người Rơ Măm thường đặt ở phía tây của làng, cách làng không xa lắm. Bởi vì quan niệm của đồng bào, mặt trời chạy từ đông sang tây, nếu đến nghĩa địa ở phía Đông, sợ cái chết hang ngày theo mặt trời đi qua làng.

Thời xa xưa, người Rơ Măm cũng như một số dân tộc khác ở Bắc Tây Nguyên có tập quán chôn chung 2-3 người trong một mộ. Những ngôi mộ như vậy thường là vợ chồng, bố mẹ và con cái, hoặc anh em một. Việc chôn chung chỉ có thể xảy ra khi những người chết cách nhau từ một năm trở lên. Những người chết cách nhau chưa đày một năm phải chôn riêng.Ngày nay tục này đã bị bãi bỏ từ lâu.

3.12. Văn nghệ dân gian
Người Rơ Măm có kho tàng văn học dân gian phong phú. Nhiều Iruyện cổ mang tính thần thoại huyền bí liên quan đến Jàng. Hệ thống dân ca nghi lễ của người Rơ Măm có giá trị văn hoá, nghệ thuật cao. Tuy nhiên, văn nghệ dân gian của người Rơ Măm còn ít được đề cập trong các sách, báo.
 Nông Minh Lý  (sưu tầm)

Người Rơ Măm ăn Tết Nguyên đán (Đặng Thi)

Trước đây, người Rơ Mâm ở Sa Thầy chỉ biết đến Tết lúa mới, Tết xuống giống, còn Tết Nguyên đán rất xa lạ với bà con. Từ khi xuống núi lập nghiệp, giờ đây người Rơ Mâm đã biết đón Tết cổ truyền như bao dân tộc khác.
Người Rơ Măm tập trung tại nhà rông của làng ăn tết.

Đặng Thi (sưu tầm)

Cá gỏi kiến vàng của dân tộc Rờ Măm (Hoàng Hồng Hải)

Người Rơ Mâm là một trong những dân tộc có số dân ít ỏi tại Việt Nam, địa bàn cư trú chính tại làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy. Đến với dân tộc Rơ Măm bạn phải thưởng thức món cá gỏi kiến vàng độc và lạ. Món ăn mới nghe tên nhiều người cảm thấy sợ, nhưng khi được ăn rồi muốn ăn nữa.

Người Rơ Mâm dùng kiến vàng và trứng để nấu canh, trộn gỏi, xào với thịt thú rừng,…nhưng giữ được hương vị thơm ngon nguyên chất nhất chính là cá gỏi kiến vàng.

Kiến vàng có rất nhiều quanh khu vực cư trú của người Rơ Mâm. Khi lấy tổ kiến vàng xuống, người ta đặt một chậu nước phía dưới, lấy gọng dao gõ nhẹ cho kiến rơi xuống chậu, rồi nhẹ nhàng tách đôi, lấy trứng kiến ra để riêng. Trứng kiến vàng màu trắng đục, to bằng hạt gạo, có mùi thơm nhè nhẹ.

Cách làm cá gỏi kiến vàng khá đơn giản: Cá suối bắt loại vừa phải, bằng ba ngón tay, đem về làm sạch, băm nhuyễn, vắt cho cạn nước để đỡ mùi tanh. Kiến vàng và trứng giã sơ qua, để ngoài nắng một lúc cho se se lại. Lấy muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn chung cá với kiến vào, thêm chút thính gạo (bột gạo rang cháy xém), dậy lên mùi thơm. Khi ăn lấy lá sung cuốn lại vừa miếng và thưởng thức, vị ngọt của cá suối hòa vào vị béo của trứng kiến, vị cay xé của tiêu ớt tạo nên món ăn ngon tuyệt vời.

Hoàng Hồng Hải (sưu tầm)

Dân tộc Rơ Măm (Hoàng Thao)

1- Tên Dân tộc: Rơ Măm
2- Địa bàn cư trú: Sống tập trung ở làng Le, xã Morai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
3- Văn hóa:

Lễ đâm Trâu của người Rơ Măm







Nhà Mồ của dân tộc Rơ Măm




5- Trang phục:



Trang phục người Rơ Măm.






6- Sinh hoạt cộng đồng:


Hoàng Thao (sưu tầm)

Chiếc ngà voi hóa thạch thần bí của người Rơ Măm (Nông Quang Khải)

Ở giữa nhà rông, già làng A Reng long trọng mang Yang Plút từ cái giỏ ra đặt giữa sàn nhà rông. Đó là một chiếc ngà voi hóa thạch, dài chừng 0,5 m, to như bắp đùi người trưởng thành.
Người Rơ Mâm gọi chiếc ngà voi hóa thạch là Yang PLút, xem nó như báu vật bất khả xâm phạm của dân tộc mình. Chiếc ngà voi thần bí này được thờ tại một căn nhà rông giữa làng Le, xã Mô Rai, H.Sa Thầy, Kon Tum.

Rước thần về làng
Nghe nhiều chuyện từ cái ngà voi (Yang Plút) này, nhưng phải đến lễ hội mừng lúa mới năm nay (diễn ra từ ngày 29-31/10) do Sở VH-TT-DL Kon Tum kết hợp với chính quyền địa phương phục dựng, chúng tôi mới có dịp đến tận nhà rông của người Rơ Mâm ở làng Le để chờ xem Yang Plút.

Anh Hạnh, một người Huế sinh sống tại đây 4 năm, có quán buôn bán trước nhà rông bảo nhà rông không có cửa, nhưng đố ai dám vào nhà này tự tiện xem Yang Plút chứ đừng nói chi đến chuyện trộm cắp nó. Già trẻ làng Le này, ai cũng xem đó là báu vật bất khả xâm phạm, ngay cả người trong làng cũng chỉ thấy nó qua lễ hiến tế thần.

Già A Blong (63 tuổi) kể Yang Plút là vật thiêng của làng có cách đây hàng trăm năm. Ngày trước, dù rời làng bao nhiêu lần đi chăng nữa, nhưng Yang Plút vẫn không rời dân làng.

Già A Blong nói, ông bà đời trước kể lại rằng có một người dân làng dắt chó đi săn trong rừng, con chó cứ đến một vị trí trong rừng là sủa liên tục. Sau đó, cả ngày, con chó và chủ nó đi quanh quanh trong rừng, cuối cùng cũng đến điểm con chó sủa hồi sáng.

Người dân làng vào bụi xem thì thấy có ngà voi tại đó mới mang về giấu ở rìa làng, rồi báo chủ làng ra xem. Khi chủ làng xem xong thì tối ấy nằm mơ thấy Yang Plút hiện về bảo “tao muốn ở lại với làng mày, sẽ phù hộ cho dân làng mày. Có điều muốn rước tao về thì phải cho tao uống máu từ tim con trâu, con dê, con heo, con gà...”.

Ngày hôm sau, chủ làng họp hội đồng già làng lại và làm theo lời Yang Plút nói trong mơ. Từ khi rước về, Yang Plút được “ở” trong nhà rông của làng, hằng ngày tịch mịch, không ai được tự tiện vào ra ồn ào, mà để cho thần nghỉ ngơi. Từ đó cho đến giờ, cứ tới lễ hội ăn lúa mới (lễ hội lớn nhất của người Rơ Mâm) thì dân làng lại tế thần bằng huyết tim từ trâu, dê, heo, gà và rượu ghè (rượu cần) cầu mong Yang Plút phù hộ cho dân làng cơm no áo ấm, không có tai ương hỏa hoạn xảy ra với dân làng.

Và cũng từ đây, ngôi mộ nào của người Rơ Mâm sau lễ bỏ mả cũng đều có khắc tượng nhà mồ có hình sừng voi ở trên. Đến rừng ma của làng Le, chúng tôi thấy dưới tán rừng rậm rạp cây gòn, cây nứa, dù mộ cũ hay mới cũng đều có biểu tượng ngà voi trên tượng nhà mồ.

Những chuyện ly kỳ
Chứng kiến lễ hiến tế trước Yang Plút, mới biết người Rơ Mâm quý linh vật này như thế nào. Buổi chiều trước ngày hiến tế, dân làng “xin đất” rồi dựng 3 cây nêu, sau đó dắt con trâu trắng, con dê cột vào cây nêu và trói con lợn treo ở cây nêu lớn. Tiếp theo, già làng A Reng dẫn đội cồng chiêng vào nhà rông mời thần Yang Plút ra ngoài “vui chơi” với dân làng.

Chiều tối hôm ấy, tất cả dân làng Le đều mang gạo đi xung quanh 3 cây nêu ném vào trâu, dê, heo và khấn vái Yang Plút chứng giám. Từ chiều đến suốt đêm, quanh ánh lửa bập bùng, dân làng già trẻ trai gái nhảy múa, uống rượu cần ngây ngất.

Uống rượu suốt đêm, nhảy múa suốt đêm nhưng đến sáng hôm sau, dân làng Le vẫn không quên lễ hiến tế thần Yang Plút. Dân làng Le sau khi lấy huyết từ tim của các con vật trâu, dê, heo và gà liền trộn chung trong cái thau làm lễ “tắm” cho Yang Plút.

Hôm ấy, trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng nhưng không kém trang nghiêm ở nhà rông làng Le, khách thập phương và cả dân làng tụ tập để chứng kiến Yang Plút, bởi đây là cơ hội không dễ gì có được.

Ở giữa nhà rông, già làng A Reng long trọng mang Yang Plút từ cái giỏ ra đặt giữa sàn nhà rông. Đó là một cái ngà voi hóa thạch, dài chừng 0,5 m, to như bắp đùi người trưởng thành. Sau đó, già làng A Reng lấy máu heo gà... tắm cho Yang Plút, miệng thì thầm “nói chuyện”, đại khái đây là lòng tôn kính của dân làng, Yang Plút hãy “ăn” đi và phù hộ, độ trì cho dân làng.
 Nông Quang Khải (sưu tầm)

Chuyện ly kỳ về hòn đá biết "đẻ" của người Rơ Măm (Hoàng Duy Trần)

Họ tôn nó là Yang Ngà (Thần Ngà) bởi hình thù khác thường, lại biết "đẻ" và ứng nghiệm với bao điều may mắn trong cuộc sống. Điều khó tin nhưng là sự thật.
Sự thật nhưng lại khó cắt nghĩa bởi bao điều tưởng như là mê tín dị đoan…

Một "mẹ" và 9 "con"
Trước khi kể về hòn đá kỳ bí này, xin được thoáng qua đôi nét về tộc người Rơ Mâm.
Người Rơ Mâm hiện chỉ còn 89 hộ với 342 nhân khẩu, cư trú độc lập tại làng Le, xã Mo Ray, huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum. Trong số 89 hộ này, người Rơ Mâm "thuần chủng" thực ra chỉ khoảng vài chục hộ. Người ta nhận ra họ ở dáng người thấp đậm, tóc xoăn và môi hơi dày… Trước những năm 1990 người Rơ Mâm sống biệt lập giữa đại ngàn Chư Mo Ray heo hút.

Để đưa được họ "hạ sơn", các cấp chính quyền phải trải qua một quá trình vận động gian khổ. Lúc xuống định canh định cư, người Rơ Mâm gần như chỉ biết trồng mỗi cây lúa rẫy. Lác đác có người còn mặc khố áo vỏ cây và giữ một tập tục lạ: Hễ săn được con thú nào, việc đầu tiên là họ mổ bụng, lôi quả tim ra ăn sống…

Đồng bào dân tộc Rơ Mâm.
Về hòn đá bí ẩn này, chúng tôi biết đến nó hết sức tình cờ… Số là hôm đó Công ty 78 - một đơn vị quân đội làm kinh tế ở khu vực này đang giúp làng Le mấy chiếc bễ trữ nước mưa nên ông Hệ - Phó giám đốc dẫn chúng tôi xuống làng chơi.

Quanh quẩn mấy vòng giữa những dãy nhà tôn lóa nắng, tôi chợt nhận ra sự lạ: Ngay giữa trung tâm làng có một căn chòi vách gỗ, mái lợp tôn theo kiểu nhà sàn nhưng chỉ cao chừng 1,5m, đứng chơ vơ giữa thảm cỏ rậm rịt. Ông Hệ bảo: Đấy là căn chòi thờ hòn đá thiêng của làng… Chuyện về hòn đá kỳ bí này, ông cũng chỉ biết lõm bõm - bởi dù là người quen thân với ông A Giói, bí thư chi bộ thôn và bây giờ là già làng - ông Hệ cũng chưa từng được tiết lộ. Họ kiêng người lạ biết điều bí mật của mình…

Và quả nhiên phải khéo léo nài nỉ đến suốt buổi, chúng tôi mới được ông A Giói tiết lộ đôi chút về hòn đá bí ẩn này…

Gọi là "hòn", thực tế đó là một phiến đá lớn bằng cỡ chiếc rổ, màu nâu xám. Đầu mỏm chìa ra một mẩu màu trắng hình tròn, dài độ một gang tay nhẵn bóng, trông hệt chiếc ngà voi ai đó cắm vào. Tuy nhiên điều mà họ tôn thờ chưa phải là hình thù kỳ dị đó. Phép lạ mà phiến đá thể hiện mới chính là điều khiến họ phải bái làm "Yang": Cứ vào một khoảng thời gian không nhất định - thường là hai, ba mùa rẫy, phiến đá lại "đẻ" con.

Một mẩu đá kích thước không giống nhau, màu sắc cũng không giống nhau (lớn nhất là cỡ nắm tay người lớn) tròn trịa được tách ra từ hòn đá mẹ. Và mỗi lần "đẻ", đương nhiên hòn đá mẹ lại nhỏ dần đi… Cho đến nay nó đã "đẻ" được 9 "con" tất cả. Chừng ấy lần "Yang" đẻ cũng là ngần ấy lần làng Le có niềm vui lớn: Người, gia súc không xảy ra dịch bệnh; lúa được mùa chất đầy kho, đi săn thường gặp thú lớn…

Nhà thờ "Yang Ngà".

Thêm một điều kỳ bí khác: thỉnh thoảng "Yang" lại dẫn lũ con đi đâu mất biệt. Đã có lần già làng phải huy động già trẻ, lớn bé vào rừng vạch từng gốc cây ngọn cỏ để tìm mà không thấy. Khi mọi người đinh ninh là trong làng có ai đó làm điều gì phật ý "Yang" thì bỗng nhiên "Yang" lại dẫn lũ con nguyên vẹn trở về…

Vì những điều huyền bí ấy, hàng bao nhiêu năm nay phiến đá đã trở thành "Yang" hộ mệnh của làng Le. Người ta làm nhà để "Yang" và lũ "con" ở. Năm nào "Yang" cho được mùa, làng phải tổ chức đâm trâu và việc đầu tiên là phải lấy máu tắm cho "Yang" cùng với lũ "con". Ngoài dịp này không ai được vô cớ đến gần. Người ta tin rằng nếu tự tiện xâm phạm nơi "Yang" ở, ngài sẽ nổi giận cho mưa làm ngập lụt đất đai; người, vật mắc dịch bệnh mà chết… Ai muốn mở cửa nhà "Yang" phải đâm một trâu để lấy máu tắm…

Sau màn sương huyền thoại
Một huyền thoại đã được truyền đời cho dân làng Le rằng "Yang Ngà" đã có từ thời người đẻ ra làng (và ta cứ tạm gọi là "cụ tổ" vậy): Hôm đó làng tổ chức đi săn. Lùng sục mãi đến lúc mặt trời gần khuất núi mà chẳng dính được con thú nhỏ nào… Đã toan quay về, đoàn người bỗng thấy lũ chó châu cả vào một lùm cây sủa dữ dội.

Nghi có thú ẩn nấp, họ bao vây lùm cây rồi chỉa nỏ bắn. Chẳng thấy gì đoàn người suỵt chó về nhưng chúng lại càng sủa dữ hơn. Thấy sự lạ, cụ tổ đích thân vén lùm cây vào xem thử. Và trước mắt cụ là phiến đá hình thù kỳ dị miêu tả trên đây… Cho là Yang mang lại điềm gì đó, cụ tổ hạ lệnh cho mọi người cõng nó về làng…

Đêm đó đàn ông làng tổ chức uống rượu "giải sầu" một ngày đi săn thất bại. Đang lăn lóc quanh đống lửa lớn, mọi người bỗng choàng dậy vì tiếng thét thất thanh của cụ tổ: Hòn đá họ cõng về lúc chiều đã "đẻ" một đứa con bằng nắm tay người lớn!

Kinh hãi vì điều kỳ dị xảy ra, theo lời khuyên của cụ tổ, họ đâm một con trâu đực lấy máu tắm cho phiến đá và đứa con của nó. Thấy hình dạng phiến đá như đang ngậm chiếc ngà voi, họ tôn là "Yang Ngà" và tin chắc đây là điềm sinh sôi nảy nở mà Yang mang đến. Niềm tin ứng nghiệm và "Yang Ngà" trở thành vị thần hộ mệnh cho làng Le đã không biết bao đời nay…

Với quan niệm "Vạn vật hữu linh", bất cứ vật gì khi đã thành đối tượng để thờ cúng, đồng bào dân tộc vẫn thường khoác lên nó một màn sương huyền thoại như thế. Gạt qua một bên giai thoại xuất xứ và những "ứng nghiệm" có thể ngẫu nhiên, xin nói một điều rằng: chuyện phiến đá biết "đẻ" là hoàn toàn có thật.

Chính ông A Giói từng là cán bộ xã, hiện đang là bí thư chi bộ thôn - người có vốn văn hóa nhất định - cũng không tin chuyện huyền bí, ma quỷ. Tuy nhiên ông cũng không thể giải thích vì sao lại có những điều bí ẩn lạ lùng này…

Với tôi, điều huyền bí này phải chăng có thể cắt nghĩa: Do sự cấu tạo đặc biệt nào đó của phiến đá (Có thể là sự tập hợp của những loại đá có thành phần và màu sắc khác nhau) khi gặp những biến động đột ngột về thời tiết trong những khoảng thời gian nào đó, chúng sẽ giản nở và tự tách ra. Như thế đương nhiên dưới con mắt của dân làng thì đó là đá "đẻ".

Nhưng liệu trong tự nhiên có chăng những viên đá có cấu tạo đặc biệt như thế? Lại còn chuyện phiến đá này thỉnh thoảng bỗng biến mất cùng với "lũ con" rồi đột nhiên trở về nguyên vẹn? Liệu có một bàn tay nào dám đùa giỡn với niềm tin tâm linh của một cộng đồng? Xem ra tất cả những huyền bí này phải cần đến sự tận thấy của các nhà khoa học…

Hoàng Duy Trần (sưu tầm)

Ẩm thực của dân tộc Rơ Măm Kontum (Sầm Thị Phong)

Nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, với những ngọn núi xanh cao, và những thung lũng êm đềm, Kon Tum hiện ra như một miền đất xinh đẹp, vừa rực rỡ vừa hoang sơ. Từ bao đời nay, các dân tộc thiểu số Kon Tum đã chung tay xây dựng cho mình vốn văn hóa độc đáo: quyến rũ vô cùng mà cũng bí ẩn thâm sâu. Trong đó, văn hóa ẩm thực nổi bật lên là đại diện tiêu biểu, gây nhiều tò mò và thú vị cho du khách.

Văn hóa ẩm thực các dân tộc thiểu số Kon Tum đã được chắt lọc, tinh túy từ thiên nhiên để tạo thành bản sắc riêng, độc đáo, cuốn hút mà không một miền đất nào có được. Đó có thể là sản vật của núi rừng như: nấm mối, đọt mây, rau dớn, thịt thú rừng,… đến sản vật dưới nước như: cá suối, tôm, cua, cá,… Đặc biệt là côn trùng: kiến, dế, … Ẩm thực các dân tộc thiểu số Kon Tum gắn với các giá trị tâm linh, thờ cúng, lễ hội, không chỉ là món ăn thức uống hàng ngày mà còn là đồ lễ quan trọng tế thần, thể hiện tấm lòng của con người, dân làng đối với thần linh.

Ẩm thực đang trở thành kênh quan trọng để góp phần đa dạng hóa, hoạt động du lịch Kon Tum, dẫn dắt du khách trải nghiệm những khía cạnh văn hóa truyền thống, quảng bá hình ảnh Kon Tum ra các địa phương trong nước và quốc tế. Hãy một lần đến phố núi một lần, trải nghiệm văn hóa ẩm thực các dân tộc thiểu số, chắc chắn sẽ để lại trong bạn những dư âm không thể nào quên.

Ẩm thực người Rơ Mâm
Người Rơ Mâm là một trong những dân tộc có số dân ít ỏi tại Việt Nam, chỉ với 462 người (Niêm giám Thống kê 2011, Cục Thống kê Kon Tum), địa bàn cư trú chính tại làng Le (xã Mo Rai, huyện Sa Thầy). Làng của tộc người dân tộc Rơ Mâm theo chế độ tự quản, đứng đầu là già làng, người có tư cách đạo đức tốt, hiểu rõ luật tục, được dân làng tín nhiệm và tôn trọng.

Nơi người Rơ Mâm ở thuộc vùng núi cao, có những dãy đồi lượn sóng bị chia cắt bởi nhiều sông suối nhỏ tạo nên thung lũng hẹp, khung cảnh yên bình. Nhờ đó, ẩm thực của người Rơ Mâm có đầy đủ các sản vật của núi rừng, sông suối, từ các loại rau quả đến côn trùng, thịt thú rừng. Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, người dân tộc Rơ Mâm tin tưởng vào sự tồn tại của linh hồn. Do vậy, họ cũng xây dựng nền văn hóa ẩm thực mang tính tôn thờ thần linh, thể hiện rõ sự ngưỡng vọng, tôn kính, cầu mong thần linh phù hộ cho dân làng có cuộc sống ấm no. Có thể kể đến một số món ăn tiêu biểu cho ẩm thực người Rơ Mâm như: Gỏi kiến vàng, Mây đắng nấu cá nhép, Thịt và tiết canh dúi.

1. Gỏi kiến vàng
Có những món ăn nghe tên đã có cảm giác sợ sợ, nhưng nếm một miếng lại muốn ăn miếng nữa, và say mê lúc nào không hay, là Gỏi kiến vàng của người Rơ Mâm.

Gỏi kiến vàng

Kiến vàng có rất nhiều quanh khu vực cư trú của người Rơ Mâm, không những là loài thiên địch giúp chống lại sự phá hoại của côn trùng mà còn là món ăn rất ngon, bổ dưỡng. Khi lấy tổ kiến vàng xuống, người ta đặt một chậu nước phía dưới, lấy gọng dao gõ nhẹ cho kiến rơi xuống chậu, rồi nhẹ nhàng tách đôi, lấy trứng kiến ra để riêng. Trứng kiến vàng màu trắng đục, to bằng hạt gạo, có mùi thơm nhè nhẹ. Người Rơ Mâm dùng kiến vàng và trứng để nấu canh, trộn gỏi, xào với thịt thú rừng,…nhưng giữ được hương vị thơm ngon nguyên chất nhất chính là Gỏi kiến vàng. Cách làm khá đơn giản: Cá suối bắt loại vừa phải, bằng ba ngón tay, đem về làm sạch, băm nhuyễn, vắt cho cạn nước để đỡ mùi tanh. Kiến vàng và trứng giã sơ qua, để ngoài nắng một lúc cho se se lại. Lấy muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn chung cá với kiến vào, thêm chút thính gạo (bột gạo rang cháy xém), dậy lên mùi thơm. Khi ăn lấy lá sung cuốn lại vừa miếng và thưởng thức, vị ngọt của cá suối hòa vào vị béo của trứng kiến, vị cay xé của tiêu ớt tạo nên món ăn ngon tuyệt vời.

2. Mây đắng nấu cá nhép
Đây là món ăn thể hiện sự độc đáo trong ẩm thực của người Rơ Mâm, khi họ kết hợp một cách khéo léo giữa sản vật núi rừng với sản vật của dòng sông: mây đắng và cá nhét. Mây đắng mọc chằng chịt trong rừng, dây leo dài đến hàng chục mét, có gai nhọn dày đặc quanh thân. Người dân tộc thường dùng những cây mây già để đan lát vật dụng như ghế, giỏ, rổ rá,…Còn phần đợt non, màu trắng ngà bụ bẫm dài khoảng 60-80 cm thì khéo léo ngắt về nấu ăn. Đọt mây được tước bỏ vỏ cứng bên ngoài đi, ngâm trong nước một lúc để không bị thâm đen, giữ màu trắng ngà đẹp mắt.

Mây đắng nấu cá nhép

Đọt mây nấu cá nhép có màu nâu sánh, thơm thơm, bùi ngậy rất ngon, cách nâu như sau: Cá nhép dưới suối bắt lên, sơ chế qua rồi tẩm chút muối hột, đem phơi nắng, đến khi bốc mùi ui ui (mùi thối) là dùng được. Đọt mây xắt nhỏ, trộn với cá nhét, thêm muối hột, bột ngọt, lá mthau (mội loại cây mọc trên rừng có mùi hơi hắc). Món đọt mây nấu cá nhép không thể thiếu một chút thính gạo (gạo rang cho chín rồi giã nhỏ), chính thính gạo tạo cho món ăn mùi thơm nồng, rất hấp dẫn. Nấu trong khoảng 15 phút là đem ra dùng được, vị đắng dịu của đọt mây non, ngọt mềm của cá nhép, mùi thơm của thính gạo, tất cả hòa quyện thành vị mềm ngon, bùi bùi rất vừa vặn. Ngoài ra, người Rơ mâm còn sử dụng đọt mây non để nấu canh hoặc nấu với các loại thịt rừng, làm gỏi, xào,… Dù chế biến theo cách nào thì đọt mây vẫn giữ được vị đắng dịu đặc trưng, tạo nên sức hấp dẫn riêng cho món ăn.

3. Các món ăn từ thịt dúi
Với người Rơ Mâm thì thịt dúi là loại thực phẩm thông dụng và được chế biến thành nhiều món ăn. Nhìn bên ngoài con dúi gần giống con chuột nhưng thân hình to và tròn trịa hơn một chút, mắt nhỏ, tai nhỏ, đuôi ngắn, có móng vuốt. Dúi có chiều dài thân 25-40 cm, trọng lượng 0,5-1,5kg/con. Con dúi thường ở những vùng đồi thấp, trên sườn núi đất thoai thoải với các loại cây như tre, trúc… Chúng sinh sống theo nhóm gia đình nhỏ gồm 3-5 thành viên trong những hang hốc tự đào, ban ngày không lên khỏi mặt đất nhưng ban đêm lại đi phá phách nương rẫy, cắn nát khu rừng tre trúc.

thịt Di

Nhưng độc đáo nhất phải kể đến tiết canh dúi: thịt được lọc ra đem luộc chín, băm nhỏ, trộn với tiết. Tiết canh dúi của người dân tộc Rơ Mâm không giống với tiết canh thông thường ở chỗ họ gia giảm thêm khá nhiều các loại gia vị như sả, ớt, muối, bột ngọt, và nhất định không thẻ thiếu chút bột bắp khô (bột ngô). Tiết canh dúi hơi khô chứ không ướt như các loại tiết canh khác, có màu đỏ thâm, gia vị át đi vị tanh khó chịu, mới đầu ăn có cảm giác hơi ngang ngang, khó chịu nhưng khá đậm đà và dễ ăn.

Chỉ bằng những sản vật thông thường nơi mình sống người Rơ Mâm cũng đã xây dựng cho mình nét ẩm thực độc đáo thú vị và ngày càng thu hút được du khách khắp nơi đến thưởng thức.

 Sầm Thị  Phong (sưu tầm)