“Báu vật” của Mường Lò- ông Lò Văn Biến và vợ
Tới đất Mường Lò (Văn Chấn, Yên Bái ), có một nghệ nhân mà khi hỏi tới, bạn sẽ được chỉ tới tận nhà…Ông đang gìn giữ những báu vật thiêng liêng của người Thái đen …
Qua cánh đồng Mường Lò xanh miên man vào thị xã Nghĩa Lộ, nhà ông ở tận cuối bản Cang Nà. Nói là phường, nhưng những mái nhà sàn giản dị nơi này vẫn mang bóng dáng của những bản làng miền sơn cước…
Một bung thóc và… đắm say
Mới gặp, khó ai đoán ông Lò Văn Biến đã bước sang tuổi 83 bởi vẻ ngoài nhanh nhẹn, hài hước và đầy chất nghệ sỹ. Vợ ông – bà Lò Thị Poong - kém gần 20 tuổi, vốn là một trong những cô gái Thái đen xinh đẹp nhất đất Mường Lò trong đội múa xoè do ông làm đội trưởng. Ngót 50 năm nên nghĩa vợ chồng, họ vẫn giữ được tình yêu như thưở nào. Giờ bà làm trưởng nhóm đội xoè, và 6 điệu xoè cổ do ông nhiều năm tìm kiếm nay đã “nở hoa” trên mảnh đất này…
Mời ly rượu này đắm say…
Mường Lò chính là đất tổ của người Thái Tây Bắc Việt Nam, là quê hương của sáu điệu xòe cổ, khởi nguồn cho hơn ba mươi điệu xòe của người Thái Tây Bắc. Từ thuở thơ bé, ông Biến muốn nuốt lấy từng lời những điệu khắp - hát, ngâm, hò của bà, của mẹ. Thấy con thông minh, lại ham học hỏi, bố mẹ cho ông đi học.
Ngày ấy cả vùng chỉ có ông mo Lò Văn Phớ là giỏi chữ Thái, mỗi đêm học phải trả công một bung thóc 15 kg. Chữ Thái cổ khó học bởi không có dấu ngắt câu và dấu thanh điệu, hệ thống phụ âm thay thế cho dấu thanh lại rất phức tạp. Ðược hai đêm, người bạn cùng học bỏ dở vì không theo được; còn ông chỉ sau năm đêm miệt mài với than củi viết trên mo cau đã biết ghép vần và đọc được.
Học hết tiểu học, sau khi Nghĩa Lộ được giải phóng tháng 10/1952, ông Biến tham gia dạy bình dân học, rồi đi học sơ cấp Sư phạm đặt tại Khu Tự trị Thái Mèo. Năm 1956 ra trường, ông về Than Uyên (nay thuộc Lai Châu) dạy học, dạy song ngữ - chữ Thái và chữ quốc ngữ. Đến năm 1963, ông về Mường Lò dạy học rồi làm Trưởng ban Văn hóa Giáo dục của xã.
Ông dành nhiều thời gian sưu tầm những pho sách cổ viết bằng chữ Thái trên những tờ giấy dó, hay những cuốn sách màu thời gian đã nhuộm đen, rách nát không còn nhìn rõ chữ. Ông lang thang khắp các thôn bản sưu tầm những câu dân ca, điệu múa, những bài cúng bản, cúng ma… rồi ghi chép dịch ra thành sách. Lo sự mai một về chữ viết của người Thái đã được sáng tạo từ ngàn năm trước do cha ông để lại, ông mở lớp dạy chữ Thái ngay tại nhà cho con cháu và những ai yêu mến chữ Thái.
Năm 2006, ông soạn thành giáo trình 100 tiết dạy chữ Thái. Khi nghe tin ông Lò Văn Biến dạy chữ Thái cổ, hai sinh viên người Nhật là Hakiga Namasao và Okada Masasi từ Hà Nội tìm lên học; rồi Du Tỷ - người Thái Lan- và tiến sĩ người Pháp tên là Răcđơmon cũng xin được làm học trò.
Những pho sách cổ mà ông gìn giữ
Không chỉ yêu chữ Thái cổ, ông Lò Văn Biến còn say mê sưu tầm, dịch sách cổ viết bằng chữ Thái: Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng; Tìm hiểu tục cúng vía dân tộc Thái đen Mường Lò; Cúng mường, cúng bản; Lễ hội Hạn Khuống; Cúng người chết về Mường trời (Xống phi tai); Cúng vía trâu (Tam khuôn quai)…
Ông kể, thông điệp của người xưa được ghi trong sách cúng cũng như được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác: Mường Lò là đất tổ của người Thái đen ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Hàng năm, nhiều người Thái đen ở Mỹ, Thái Lan, Lào… đã tới Mường Lò thăm quê cha đất tổ (đin pẩu pú) của người Thái đen, thăm thác Nặm Tốc Tát - nơi người Thái đen khi băng hà linh hồn đều tới đó tắm rửa trước khi ngược theo dòng thác lên Mường Trời.
Chỉ khi nào không “xoè” được nữa…
“Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in những buổi theo mế đi xem múa xòe, khiến tôi có niềm say mê đi khắp nơi truyền dạy lại những mình chắt lọc được, mặc cho những đêm ướt sũng người rong xe 4 - 5km đường đồi để về đến nhà”. Giờ, ông vui khi cứ tối đến, chị em trong bản tạm gác lại những lo toan đồng áng, gia đình để thắt lưng ong, mặc áo cóm, quấn dây xà tích sẵn sàng cho buổi tập. Phụ nữ Thái vẫn thường bảo nhau “váy áo phải đẹp thì xòe mới dẻo, mới hay được”. Hằng năm cứ vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10, khi mùa vụ đã gặt xong cây ngô đông phủ màu xanh trên các thửa ruộng là khi thị xã mở hội xoè.
Mường Lò là cánh đồng lớn thứ hai ở miền núi phía Bắc, chỉ sau Mường Thanh - Điện Biên (còn hai cánh đồng nhỏ hơn là Mường Than - Than Uyên và Mường Tấc - Phù Yên). Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò đã thành danh từ lâu. Hương thơm của hạt gạo nơi này đã bay xa, vượt núi non đến nhiều nơi được rất đông người biết đến.
Những cô bé Thái đen nhỏ xíu đã thuộc điệu xoè cổ
Điệu múa “Khắm khăn mơi lẩu” nghĩa là “Nâng khăn mời rượu” chỉ có ở người Thái đen đất Mường Lò và cũng chỉ có ở đây, bạn mới có thể được nâng chén cùng lời ca mời rượu, cùng điệu Xòe Thái dập dìu bên bếp lửa nhà sàn. Bởi không ai có thể từ chối chén rượu do những người phụ nữ chưng cất từ hạt gạo họ làm ra, men rượu và men tình người đã kết nối tình thân giữa chủ và khách, tình đoàn kết anh em của các dân tộc ngày càng bền chặt hơn.
Một buổi chiều chân núi, bên mâm rượu với canh rêu suối, châu chấu rang khô và thịt trâu sấy bản Đêu, Mường Lò bạn sẽ chẳng thể cầm lòng bên ly rượu đầy: “Ly rượu đầy như tấm lòng không bao giờ vơi / Anh có muốn làm quen / Anh hãy uống cạn ly này / Một ly là để em chào / Hai ly là để làm quen / Em không biết hát / Em hát không hay / Em vẫn hát mời anh ly rượu này...”.
Đó cũng là lời tâm sự gan ruột của người nghệ sỹ già một đời đau đáu với những báu vật của Mường Lò: “Sống cả đời với khèn bè, áo cóm, với múa xòe rồi, đâu có cần phải được vinh danh nghệ nhân. Lúc nào mòn chân, mỏi gối, mắt mờ tay chậm mà không “xòe” được nữa, lúc ấy mới thực sự đáng buồn…”