Dân tộc La Hủ, còn có các tên gọi khác như Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy; trong đó La Hủ hay Ladhulsi (La Hủ tộc) hay Kawzhawd là những tên tự gọi. Tộc La Hủ sinh sống tại Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan, Myanma và Lào.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người La Hủ ở Việt Nam có dân số 9.651 người, cư trú tại 16 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Tuyệt đại đa số gười La Hủ cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (9.600 người, chiếm 99,47% tổng số người La Hủ tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Thái Nguyên (20 người), các tỉnh còn lại có không nhiều hơn 10 người.
Câu chuyện về nguồn gốc xuất xứ của tộc người La Hủ cho đến nay cũng chưa có câu trả lời chính xác. Theo truyền thuyết của những người dân Hà Nhì đi cùng đoàn kể lại thì tộc người La Hủ có nguồn gốc từ phía Bắc. Đây là tộc người trước đây cũng biết làm lúa nước, thêu thùa dệt vải. Rồi chiến tranh xảy ra do tranh giành lãnh thổ đất đai, người La Hủ cứ lên cao, lên cao mãi, rồi rút dần, rút dần về phía Nam. Trong số đó, có một bộ phận lưu lạc xuống vùng đất của người Đại Việt, cũng vì những năm tháng chạy loạn, phải ẩn mình trên núi cao rừng sâu, tộc người La Hủ từ tộc người biết làm lúa nước đã trở thành tộc người chỉ còn biết làm lúa nương. Cũng vì nỗi sợ mỗi khi có chiến tranh xảy ra khi tranh chấp đất đai, tộc người La Hủ đã hoàn toàn chấm dứt sinh sống ở các vùng đất thấp. Cứ thế, đời này qua đời khác, tộc người La Hủ trở thành tộc người chỉ quen với lối sống và lối canh tác du canh du cư, sống lang thang trên các triền núi cao, trong các thung lũng mà ít có quan hệ với các cộng đồng tộc người xung quanh.
Cũng còn có một câu chuyện theo dạng giả thuyết. Rằng, ngày xưa người La Hủ và người Hà Nhì có chung một nguồn gốc. Nhưng do mâu thuẫn nội bộ nên hai anh em đã tách ra thành 2 tộc người. Tuy là 2 tộc người khác nhau nhưng họ vẫn có nét chung cơ bản trong ngôn ngữ và trang phục.
Tết Mùa Mưa là một trong những hội lớn của dân tộc La Hủ, thường được tổ chức vào tháng 6 âm lịch. Đây là dịp để người La Hủ thực hành các nghi lễ cúng tế mong sự bình an, may mắn, sức khỏe và mùa màng bội thu. Đồ cúng tế thường có thịt heo, gà, trà, rượu, cơm.
Tết Nguyên Đán “Hô Chà” là tết quan trọng nhất trong năm của người La Hủ. Bên cạnh đó, người La Hủ còn có một cái Tết quan trọng khác, đó là Tết cơm mới (vào đầu tháng 10 hoặc tháng 11 âm lịch).
Trước kia, người La Hủ sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy du canh với nhịp độ luân chuyển cao và săn bắt, hái lượm với công cụ thô sơ. Gần đây, họ chuyển sang trồn lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ lấy canh tác nương rẫy làm nguồn sống chính. Họ trồng lúa nước, dùng trâu làm sức kéo. Đặc biệt, đàn ông La Hủ đan ghế, mâm, chiếu, nong nia, v.v. bằng mây rất giỏi và đa số biết nghề rèn. Ngoài ra, người La Hủ còn nuôi gà, trâu… Dân tộc La Hủ hầu hết trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác bằng các vật dụng, nông sản.
Người La Hủ không có truyền thống trồng bông. Trước đây, phụ nữ thường đem thịt thú rừng, nấm hương, thuốc phiện và các lâm thổ sản quý đổi lấy vải của các dân tộc khác hoặc đổi lấy bông để tự dệt thành vải. Nam giới La Hủ mặc quần áo giống như các dân tộc khác ở vùng Tây Bắc. Phụ nữ mặc quần, ngày thường mặc áo dài xuống tới cổ chân, hai lớp áo, áo trong tay dài, cài khuy bên nách phải, ngày lễ tết mặc thêm áo ngắn, cài khuy giữa ngực. Ở cổ áo, nẹp ngực, ống tay có thêu hoặc đáp vải các màu, có đính thêm xu bạc, xu nhôm và các bông chỉ đỏ.
Trước đây người La Hủ thường làm nhà, lều, rải rác ở ngay trên nương, trên núi cao thuộc hai xã Pa Ủ & Pa Vệ Sủ, Huyện Mường Tè (Lai Châu). Nhà lợp lá, lá vàng lại chuyển đi nơi khác nên người La Hủ mới có tên Xá lá vàng. Hiện nay, họ ở nhà trệt hoặc trình tường bằng đất hoặc ván. Bếp, nhà thờ và giường ngủ của gia đình bao giờ cũng ở chung một gian rất phổ biến.
Người La Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay đổi thường xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hoá giàu nghèo. Phụ nữ được tôn trọng trong gia đình song có ít vai trò xã hội. Quan hệ dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ cúng bái cho cả họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ ý nghĩa.
Trai gái La Hủ được phép tự do yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi được tiến hành qua nhiều bước. Trong số lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc phải có thịt sóc. Sau lễ cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại với những chàng trai không sắm đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.
Khi nhà có người chết, người ta bắn súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm biết. Quan tài thường là một khúc gỗ bổ đôi, khoét rỗng cả hai nửa. Ngày giờ đi chôn được lựa chọn cẩn thận. Người La Hủ không có nghĩa địa cố định. Thời hạn để tang của con cái đối với cha mẹ là ba năm song không có các dấu hiệu đặc biệt trên trang phục hay đầu tóc.
Người La Hủ có nhiều truyện kể dân gian, đặc biệt có khiếu hài hước thể hiện qua nhiều câu chuyện cười để tự giễu bản thân. Dân tộc La Hủ có đời sống dân ca, dân vũ khá phong phú. Thanh niên thường dùng khèn và nhất là đàn môi khi tâm sự tìm hiểu bạn gái. Vì thế, người La Hủ có hàng chục điệu múa khèn. Các cô gái La Hủ thường thổi sáo để bày tỏ nổi niềm. Sáo của người la Hủ có 4 loại: Sáo 4 lỗ (Í la la), sáo 6 lỗ (Li la lồ), sáo 3 lỗ (Chsu chsu đà), sáo dọc (Tu pê).
Nghệ thuật sáo trong đời sống người La Hủ
Ở nước ta, dân tộc La Hủ có khoảng 9.651 người, tập trung chủ yếu tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu (có 9.600 người, chiếm 99,47 %). Người La Hủ có những nhạc cụ riêng của dân tộc mình như: Sáo, khèn, đàn tre, đàn đơ đờ đơ, đàn ta tò ta. Những nhạc cụ này phục vụ trong dịp lễ, tết, lúc vui buồn, lên nương, vào rừng và gọi bạn tình, tìm hiểu giữa người con gái và con trai. Chơi và nghe các loại nhạc cụ như món ăn tinh thần không thể thiếu được của người La Hủ… Mỗi nhạc cụ đều có một âm điệu khác nhau, tạo nên một nét riêng trầm bổng du dương lôi cuốn lòng người, trong đó nhạc cụ sáo rất phong phú, đa dạng và vẫn còn lưu giữ, phổ biến trong đời sống hiện nay.
Sơn nữ La Hủ say sưa gọi bạn tình bằng tiếng sáo du dương.
Sáo có nhiều loại như: Sáo 4 lỗ (Í la la), sáo 6 lỗ (Li la lồ), sáo 3 lỗ (Chsu chsu đà), sáo dọc (Tu pê). Sáo 3, 4, 6 lỗ thì gọi theo lỗ trên cây sáo, còn sáo dọc thì gọi theo cách sử dụng của sáo. Mỗi loại sáo đều có một âm điệu khác nhau và không phân ra sáo nào thổi riêng và sáo nào thổi chung. Trong các loại sáo thì thích thổi riêng cũng được và thổi chung cũng được, nếu thổi chung thì tạo nên một dàn âm thanh sôi nổi.
Mọi người trong bản vẫn quây quần để thổi sáo vui vẻ.
Nguyên liệu để làm các loại sáo rất đơn giản là cây nứa, cây lau nhưng để có một cây sáo thổi hay thì phải biết lấy đúng mùa, đúng kích cỡ và gióng cây… và do tài khéo léo của người thợ làm ra nó. Nếu làm sáo bằng cây nứa (bù đô) thì phải lấy cây nứa trên rừng cao, ống to bằng ngón tay út của trẻ con. Nứa lấy làm sáo vào tháng 9 đến tháng 10, vì khi ấy mọi người mới nhàn rỗi, mùa màng thu xong, chuẩn bị đến tết, mọi người cùng nhau vào rừng lấy nứa về làm sáo để thổi. Vào rừng chọn những cây nứa gióng dài và có tuổi khoảng 3 năm; chọn lấy phần ngọn để bề dài của thân mỏng sẽ cho âm thanh trong trẻo. Chọn được gióng làm sáo rồi đặt trên gác bếp 2 – 3 ngày mới đem ra làm. Sáo nứa sử dụng và bảo quản tốt thì giữ được 3 – 4 năm. Làm sáo bằng cây lau rất khó, vì thân mềm không cứng như cây nứa, khó điều khiển được lưỡi gà của sáo. Vì vậy, phải chọn ống nhỏ như cây nứa, vào tầm tháng 9 – 10 khi bông lau nở xòe thì lấy đoạn phía dưới bông lau, đoạn này dài và mỏng. Khi lấy về thì làm luôn lúc tươi, và chỉ làm được sáo 3, 4, 6 lỗ. Sáo bông lau bảo quản tốt thì chỉ dùng được dưới 1 tháng, nó sẽ bị hỏng lưỡi gà.
Phụ nữ La Hủ tự làm cho mình một cây sáo để sử dụng là một niềm vui.
Theo như lời của bà Phản Me Ly nghệ nhân 56 tuổi, ở bản Pa Ủ (xã Pa Ủ, huyện Mường Tè): Việc làm và sử dụng nhạc cụ sáo cũng có những kiêng kị. Sáo 6 lỗ kiêng không được đưa ra rừng thổi, vì âm điệu của sáo này là “ly la lồ”, mà “la” là hổ, nên thổi sáo tức là mình đang gọi con hổ đến ăn thịt người thổi sáo. Cây sáo dọc 4 lỗ thì chỉ người biết làm mới dám làm, vì người La Hủ ngày xưa quan niệm rằng nếu người nào làm mà thổi chiếc đầu tiên không kêu thì con cái sau này của người đó sẽ bị câm điếc. Nếu người không biết làm thì mượn của người biết làm để thổi. Các lứa tuổi đều dùng được các loại sáo, và nó có cùng chung một mục đích thổi lúc vui, lúc buồn, đi nương, đi rừng, tìm hiểu nhau, vui tết. Không phân biệt loại sáo nào là dành cho lứa tuổi nào, và sáo nào phải dùng vào mục đích gì.
Những người già và trung niên vẫn giữ kỹ thuật điêu luyện để làm sáo.
Nhạc cụ sáo chủ yếu là phụ nữ, con gái sử dụng. Con gái lên 10 tuổi ngày xưa đã biết thổi sáo để gọi bạn tình. Nhưng nếu thổi trong nhà thì bố và anh trai phải đi vắng, buổi ngày không thổi, vì sợ xấu hổ; nếu đi nương vắng người thì thổi được. Khi tiếng sáo của cô gái cất lên thì các cô gái khác cũng mang sáo đến để thổi cùng. Các chàng trai nghe thấy thì rủ nhau đến chơi, tìm hiểu, ai thích ai mà cảm thấy hợp nhau thì tỏ tình, hẹn hò nhau. Nhiều đôi trai gái nên duyên chồng vợ cũng bởi tiếng sáo, họ sống thật hạnh phúc. Tiếng sáo là sự minh chứng cho tình yêu và sự thủy chung son sắt giữa người với người, nhất là sinh hoạt tình cảm trong gia đình và sự cố kết cộng đồng làng bản thêm bền chặt.
Sơn nữ La Hủ rực rỡ váy áo ngày tết.
Lễ thức thiêng ngày tết ở bản La Hủ
Thời điểm mà đồng bào người Kinh ở miền xuôi bảo nhau: “Thế là lại sắp tết rồi!” thì giữa đại ngàn Tây Bắc hùng vĩ, người La Hủ đã đồ xôi, mổ lợn, mổ bò, mổ dê, mổ gà… để ăn tết thiêng của cộng đồng mình.
Ngày tết của đồng bào dân tộc La Hủ được tổ chức từ những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12 âm lịch. Bao giờ tết ở các bản cũng được khởi đầu bằng lễ cúng rừng và lễ cúng bản. Lễ cúng rừng là cúng tất cả các vị chư thần từ thần suối, thần sông, thần cỏ cây, hoa lá, chim muông đến thần đại ngàn, thần núi…
Trong quan niệm cổ sơ của người La Hủ, bất cứ ở chỗ nào cũng có thần linh trú ngụ. Người ta có thể chạm với thần rừng ngay khi rời bậu cửa nhà mình. Người La Hủ không bao giờ phá rừng bởi họ cho rằng rừng là thần bảo mệnh của cả tộc người. Trong lễ cúng rừng trước ngày tết chính, đại diện các gia đình trong bản phải mang đến phiến đá lớn, bằng phẳng trước cửa rừng một con vật bất kỳ do gia đình nuôi được trong năm để dâng lên thánh thần.
Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, vật hiến tế đã kiểm kê xong, già bản hạ lệnh cho phép giết thịt ngay tại cửa rừng. Thủ cấp con bê lớn được giữ nguyên cả lông đặt giữa phiến đá, những con vật hiến tế khác được bày xung quanh, tất cả đều hướng vào trong rừng với một thái độ nghiêm trang, kính cẩn lạ lùng. Sau thủ tục cúng vái, người ta chia ra từng bếp luộc, nấu chín rồi trải lá chuối, lá vả ra ngay bìa rừng mà ăn, mà uống rượu.
Cả bản La Hủ quây quần ăn thịt, uống rượu túy lúy đến tận lúc no say người ta mới bắt đầu nói lên những lời nguyện cầu, lời hứa giữ và bảo vệ rừng. Lời những người đàn ông rắn rỏi cất lên kèm theo những tiếng reo hò của dân bản. Họ thề rằng sẽ không phá rừng, không tiếp tay cho người xấu đốn gỗ nghiến, gỗ lim trên núi đá, không ham tiền bạc để phá hoại thiên nhiên, cướp màu xanh của rừng…
“Người La Hủ ai cũng thành tâm trong tết thề giữ rừng mỗi năm mới có một lần nên những điều bà con cầu thường linh ứng. Những lời thề nghe nguyên sơ thế nhưng kỳ thực rất có tính thời sự đấy…” – người già trong các bản đều nói như vậy. Tiếp sau lễ cúng rừng là lễ cúng bản. Bà con đã chuẩn bị dựng sẵn một chiếc cổng ở đầu bản theo hình thức cổng chào và trồng một cây bồ kết tua tủa gai nhọn ngay bên lối đi để ngăn không cho quỷ, ma xâm nhập bản.
Những tua rua xanh – đỏ, những nan phên bùa chú hình thù kỳ quái được trang trí dọc cổng để hù dọa tà ma. Lễ cúng bản ngày xưa kéo rầm rĩ, hát ầu ơ đưa đẩy suốt 9 ngày, còn bây giờ thực hiện đời sống văn hóa mới nên thu gọn lại trong 1 hoặc 2 ngày. Trong những ngày diễn ra lễ, cấm mọi người ra khỏi bản.
Sau lễ cúng bản, các gia đình sẽ được về nhà mình để làm tết tại gia với những món ăn truyền thống. Thường thì trong đêm giao thừa, tất cả các thành viên trong gia đình phải tham gia một nghi lễ đặc biệt quan trọng. Đó là lễ tưởng nhớ tổ tiên, dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Nhiều dòng họ còn nhắc tới mười mấy đời trong đêm giao thừa này. Và nhất nhất, con cháu phải nhớ ghi như tạc những lời truyền dạy mà tổ tiên để lại…
Công việc này do người phụ nữ đảm nhiệm, họ sẽ làm cho mỗi người trong nhà một quả trứng nhuộm đỏ.
Tục nhuộm trứng đỏ của người La Hủ ở Lai Châu
Trong các dịp lễ tết, đặc biệt là lễ cúng bản, người La Hủ ở Lai Châu thường nhuộm trứng thành màu đỏ sẫm làm quà tặng nhau với mục đích chúc phúc, cầu may.
Người La Hủ (còn có các tên gọi khác như Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy) sống tập trung ở các xã Pa ủ, Pa Vệ Sủ, Ka Lăng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Nhuộm trứng đỏ (Gá u nhi) là một trong những tập tục lâu đời của đồng bào dân tộc nơi đây, mang nét đẹp độc đáo, thú vị.
Lễ cúng bản (Gạ Ma Te) là một trong những ngày lễ truyền thống, thường diễn ra vào ngày Dần trong tháng 3 âm lịch hằng năm để cầu bình an đến với dân làng. Vào ngày này, các gia đình trong bản sửa soạn đồ tế lễ gồm cơm vàng, trứng đỏ và các lễ vật như ngô, khoai, bạc trắng, rượu… để cùng nhau cúng bến thuyền (Ca tà hứ), bến nước (Ló khọ sò hứ), Thổ địa (Thủ tý hứ) và cổng bản (Cá tu hứ). Chủ trì Lễ cúng là Mí Cù, người coi sóc rừng thiêng của bản. Lễ cúng được diễn ra 2 lần, lần thứ nhất cúng đồ sống, lần thứ 2 cúng bằng đồ chín.
Công tác chuẩn bị đồ cúng tế cho tới thi hành lễ cúng bản đều có sự tham gia của tất cả bà con dân bản, thể hiện tính cấu kết cộng đồng cao. Nhuộm trứng đỏ là một trong những phần việc quan trọng thường được làm trước ngày diễn ra lễ, tết.
Để nhuộm trứng, phụ nữ La Hủ vào rừng tìm lấy rễ cây ‘dè pó’ – một loại cây dùng để nhuộm màu, đem về rửa sạch và nấu sôi để tạo ra loại dung dịch màu đỏ và có độ bám dính. Trứng gà sau khi được luộc chín sẽ được nhuộm bằng nước rễ cây ‘dè pó’ đã đun kỹ, khi nhúng vào dung dịch này, trứng sẽ có màu đỏ sậm, trở nên cứng và khó vỡ hơn.
Trứng sau khi được nhuộm đỏ, sẽ được đựng trong các giỏ làm bằng chỉ đan (gá u khạ sự). Cách đan giỏ đựng khá đơn giản. Giỏ đan theo chiều đầu nhỏ của quả trứng quay lên trên đầu to. Với bàn tay khéo léo của phụ nữ La Hủ, khi đan xong bầu giỏ, trứng đã nhuộm đỏ sẽ nằm ở giữa giỏ. Giỏ trứng thường được đan mắt cáo. Có nhiều cách để đan giỏ khác nhau, miễn sao giỏ trứng không làm tuột trứng, sau khi đan xong thì phần dây dài để đeo vào cổ, tránh rơi vỡ.
Trong quan niệm của người La Hủ, quả trứng đỏ tượng trưng cho sự viên mãn, may mắn và sung túc, quả trứng ấy phải được đặt trong giỏ đan bằng chỉ các màu đỏ, xanh, vàng, trắng và đen, tượng trưng cho: kim, mộc, thủy, thổ, hỏa – các nguyên tố cơ bản hình thành trái đất để mong điều may mắn ấy được bền vững.
Ngày nay, tục nhuộm trứng đỏ không còn phổ biến nhiều, ít thấy trong cộng đồng dân tộc La Hủ. Tuy nhiên, vào dịp lễ, tết người dân ở một số bản làng vẫn thường nhuộm trứng đỏ để làm quà tặng cầu may, chúc phúc cho những vị khách quý của gia đình.
Trang điểm cho cô dâu trong ngày cưới.
Tục lệ cưới xin của độc đáo của người La Hủ ở Lai Châu
Lễ cưới truyền thống của đồng bào La Hủ ở Lai Châu cũng trải qua nhiều nghi thức đặc sắc nhưng lại mang đậm bản sắc riêng biệt của dân tộc.
Tháng 11, 12 hàng năm là dịp tết của người La Hủ – cũng là mùa cưới của các đôi trai gái yêu nhau. Chàng trai tìm hiểu cô gái, đã tới độ “chín muồi”, anh có thể tới nhà cô gái ngủ một vài tối. Tục lệ cho phép chàng trai, cô gái La Hủ có thể ngủ chung giường.
Cũng giống như phong tục cưới xin của các dân tộc khác. Đầu tiên trong phong tục cưới xin của người La Hủ là lễ dạm hỏi. Ông “mối” cùng bố mẹ và anh em nhà trai sang nhà gái để “có lời”. Lễ vật mang theo là rượu và một thứ “quà quý” của rừng – (“quà quý” này nhất thiết phải có thịt sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai bên cùng uống rượu, nhắm thịt sóc.
Sau lễ dạm là lễ hỏi, hai lễ này cách nhau khoảng bảy, tám ngày. Theo tục lệ, lễ hỏi gồm hai chai rượu và số con sóc phải là số chẵn chứ không được số lẻ, chừng 6 đến 8 con. Nhà trai phải “tuân theo” số lượng con sóc của nhà gái: 6 hoặc 8 con, vì theo lệ từ xưa, số sóc không được ít hơn 4 nhưng cũng không được nhiều hơn 8. Người làm mối trong lễ hỏi còn là người “đầu bếp”, tự tay làm thịt sóc, trình bày các món ăn này sao cho ngon để mời nhà gái.
Trong khi ăn uống vui vẻ hai bên trao đổi về tiền cưới và thời gian ở rể. Ngày xưa, tiền cưới khá “nặng túi”: những 70 đến 80 đồng bạc trắng. Trường hợp nhà rể nghèo, không có bạc trắng, thì anh phải ở lại làm rể ngay tối hôm đó. Thời gian ở rể bây giờ rút xuống còn từ 2 đến 4 năm, thời trước từ 8 đến 12 năm.
Nếu lễ ăn hỏi có số con sóc phải chẵn, thì lễ cưới quy định: đoàn đi đón dâu phải là số lẻ, trong đó có hai ông “mối” và chàng rể. Khi nhà trai đón dâu đi, ông “mối” trao tiền cưới cho nhà gái. Trên đường đi, dù có nhớ bố mẹ, cô dâu cũng không được ngoảnh lại nhìn ngôi nhà cô sinh ra và lớn lên, vì nếu vấp ngã, e sau này vợ chồng có chuyện cãi cọ không hay.
Rước dâu về đến nhà, bà mẹ chồng đã đứng đợi ở cửa. Bà lấy một nắm gạo xoa lên lưng con dâu, ngụ ý “xóa hết cỏ để con dâu không mang cỏ về, trên nương sẽ không có nhiều cỏ mọc”. Lại còn tục lệ: bà mẹ chồng trồng hai cây riềng ở hai bên cửa vào nhà, rồi buộc sợi chỉ trắng qua hai cây riềng. Lúc vào nhà, cô dâu đi phía tay trái, chú rể đi phía tay phải, rồi chú rể dùng tay trái, cô dâu dùng tay phải “cắt” đứt sợi chỉ đó, bước vào nhà. Xong thủ tục này hai họ cùng nâng chén chúc những câu tốt lành và ăn uống vui vẻ.
Mặc dù ngày nay những phong tục, nghi thức cưới của người La Hủ đã được cải tiến gọn nhẹ hơn để phù hợp với cuộc sống mới nhưng vẫn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa giàu tính nhân văn góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa phi vật thể đặc sắc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thiếu nữ La Hủ duyên dáng trong tà áo dài truyền thống.
Chiếc áo dài truyền thống của người La Hủ, Lai Châu
Chiếc áo dài truyền thống không chỉ thể hiện sự khéo léo của người phụ nữ La Hủ sinh sống ở Mường Tè (Lai Châu), nó còn tôn lên vẻ đẹp cơ thể của họ.
Phụ nữ La Hủ ở Mường Tè mặc áo dài tà đen. Nét đẹp của chiếc áo dài truyền thống ngoài việc mặc ôm sát làm nổi bật lên đường cong của cơ thể, nó còn đẹp ở cách phối màu sắc, cách trang trí và kỳ công của người làm.
Thời gian để người La Hủ may một chiếc áo dài, có khi phải mất gần một tháng mới xong. Trước khi cắt may, họ tạo đường chỉ ở giữa làm gân áo và độ cân bằng sao cho cho tà áo làm thân trước và sau. May tay áo là công đoạn chiếm nhiều thời gian nhất, có thể tận dụng vải cũ làm lớp lót bên trong, phía ngoài được may ngược, tuỳ vào sở thích cá nhân của mỗi người mà khâu những viền vải hoa các loại.
Con gái La Hủ thường mặc loại áo cánh tay có nhiều sắc đỏ thể hiện sức sống tươi trẻ và niềm tin yêu cuộc sống. Còn phụ nữ lớn tuổi thì màu chủ đạo là viền xanh đen xen kẽ. Đường viền là dải vải nhỏ thêu tay trên nền vải màu xanh và trắng kết hợp dùng chỉ đỏ tạo nét đường diềm viền hai mép. Nhìn từ phía sau cánh tay và thân áo nối với nhau như một chiếc đai cân đối, ngang hông được ghép thêm một mảnh vải có thể may một chiếc túi nhỏ.
Người La Hủ khâu ngực áo rất cẩn thận, đây là công đoạn tách rời những đường viền xếp chồng lên nhau của các loại vải. Họ khâu chìm trước ngực hình cánh sen lệch và đường viền quanh cổ có mép dựng lên khoảng 1cm, điểm nhấn là đường viền vòng cung sau vai.
Giữ các mối cắt khép kín cho chiếc áo ôm sát lấy cơ thể là một đường kéo ngang sườn có bốn khuy cúc giúp cân đối cho thân áo. Muốn bền và chắc chắn thì ở các mối được khâu gá thêm những miếng vải nhỏ.
Trang phục thể hiện đặc trưng văn hoá của từng vùng, từng dân tộc với những nét đặc thù riêng. Các hoạ tiết, hoa văn… trên mỗi bộ trang phục nói lên sự gắn bó giữa cơ thể con người trong sự vận động của cuộc sống. Để tạo ra bộ trang phục truyền thống với bản sắc riêng của dân tộc mình, ngoài đôi bàn tay tài hoa, người La Hủ đã phối hợp giữa ý tưởng sáng tạo, nghệ thuật trang trí lên những chiếc áo.
Để làm đẹp cho thân áo họ đã cài các hoa văn làm bằng nhôm hình tròn, hình tam giác. Một chiếc áo đẹp, giá trị còn là ở cách trang trí, bài trí những đường diềm tỉ mỉ chạy dọc theo tà và thân áo nổi bật lên trên nền vải đen với ba màu chỉ: đen, đỏ, vàng. Màu đỏ thường nhiều nhất và cách khâu cũng biến hoá không có chiếc nào giống nhau hoàn toàn, mỗi chiếc là một tác phẩm, cái vốn riêng của người tạo ra nó. Họ gửi ý nguyện và tâm tình riêng của mình vào những đường may uốn lượn, đường thêu khéo léo uốn cong.
Mỗi người con gái La Hủ đến tuổi thành niên đều ý thức tự may cho mình một bộ áo dài. Chiếc áo dài không chỉ làm tôn vẻ đẹp cơ thể họ mà nó còn là nét đẹp truyền thống của dân tộc La Hủ (Lai Châu).
Ngắm bắn.
TẬP QUÁN SĂN BẮT CỦA NGƯỜI LA HỦ Ở MƯỜNG TÈ
Săn bắt là một hình thái kinh tế quan trọng của nhân loại cách nay khoảng 1 vạn năm. Hiện nay, một số tộc người trên thế giới vẫn duy trì duy trì hoạt động săn bắt như là một kế mưu sinh hữu hiệu nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm hàng ngày, trong đó có người La Hủ và các phong tục về săn bắt cho đến nay vẫn là một sắc thái văn hóa điển hình của tộc người này.
Nếu như ở hầu hết các dân tộc thiểu số khác, hoạt động săn bắt chỉ diễn ra vào dịp nông nhàn hay khi mùa màng sắp được thu hoạch thì với người La Hủ, hoạt động này diễn ra thường xuyên hơn. Các hình thức săn bắt của họ đơn giản, công cụ săn bắt thô sơ gồm có nỏ (khạ), súng kíp (chủ) và các loại cạm bẫy (va) như bẫy dúi (khẹ chô va), bẫy gấu (bô chô va), bẫy kẹp (va nhú), bẫy cần thắt (ha cà má va), bẫy sập (ka va), bẫy thắt (va nhúc), bẫy chuồng (mộ khố va), bẫy lao (gô va)… Bộ công cụ săn bắt tuy thô sơ như khá phong phú về chủng loại cho thấy vai trò của săn bắt trong đời sống người La Hủ. Có thể nói, với kỹ thuật sản xuất lạc hậu, khả năng chinh phục tự nhiên còn hạn chế; nhưng do sống ở nơi rừng còn tương đối nhiều, muông thú chưa bị cạn kiệt nên việc săn bắt của người La Hủ còn được duy trì ở mức cao và các sản phẩm thu được từ săn bắt vẫn chiếm tỷ trọng khá trong tổng thu nhập của nhiều gia đình.
Săn bắt của người La Hủ là hoạt động của các cá nhân đơn lẻ. Trong ngôn ngữ La Hủ, cụm từ Gạ pố (Đuổi bắn) được dùng để chỉ hoạt động săn bắt nói chung. Người săn mang theo súng đạn, dao và chó săn (nếu có) rời nhà vào lúc 5 – 6 giờ chiều, rình săn chim, gà rừng. Những đêm không trăng, họ đi rình săn hươu, nai vào khoảng 9 – 10 giờ sáng ở những nơi hươu thường đến ăn quả rừng hoặc ở những nơi có nguồn nước mặn. Trong nhiều trường hợp, sau khi bắn con thú bị thương bỏ chạy vào rừng sâu, người săn phải lần theo vết máu có khi tới vài ngày sau mới tìm thấy xác thú đã chết do mất máu. Khi đi săn, người ta phải kiêng không nói là đi săn vì sợ “xúi quẩy”, sợ muông thú “thấy động” sẽ bỏ chạy hết. Ghi nhận từ điền dã cho thấy trong cộng đồng người La Hủ trước đây có ông Vàng Gô Chơ (mất năm 1970) ở bản Xà Hồ, xã Pa Ủ là một thợ săn giỏi, được cộng đồng thừa nhận là người bắn súng và nỏ rất tài. Mỗi khi đi săn ông đều kẹp nỏ vào nách và súng thì cầm ở tay. Khi vào rừng, ông gặp con thú nào mà phải dùng súng thì ông dùng súng, còn gặp con nào chỉ cần dùng nỏ thì ông dùng nỏ để tiết kiệm đạn và thuốc nổ.
Săn bẫy là hình thức săn phổ biến của người La Hủ trong quá khứ. Hầu hết nam giới đều rất thành thạo trong việc làm các loại bẫy và thường xuyên đặt bẫy ở những nơi chim, thú thường hay đi qua. Đặc biệt là xung quanh bản và nương rẫy. Cách săn này có ưu điểm là không tốn nhiều thời gian, công sức mà vẫn có thể săn được chim, thú hàng ngày.
Người La Hủ ít săn vây, chỉ khi ai đó bất chợt phát hiện được một con thú lớn về gần bản thì người ta mới tổ chức vây đuổi. Đối tượng săn vây chủ yếu là các con thú lớn như gấu, lợn rừng, hươu, nai, sơn dương.v.v… Khí cụ dùng trong các cuộc săn vây là súng kíp, nỏ và chó săn. Vào cuộc săn, ngay khi phát hiện ra con mồi, người ta bố trí các tay súng thiện xạ thành vòng vây dưới sự chỉ huy của một người giàu kinh nghiệm. Số người còn lại cũng được chỉ huy bởi một người giàu kinh nghiệm khác lùa chó săn đi sâu vào rừng, theo dấu vết của con thú. Tìm được thú, người ta hò hét, hù dọa, điều khiển chó săn dồn thú về phía có vòng vây của tốp thiện xạ phục sẵn và các tay súng sẽ hạ gục con thú.
Lần theo vết thú. Ảnh: Tiểu Phong.
Thú bắn được ở đâu sẽ chia phần ở đó. Với mỗi con mồi săn bắt được, người phát hiện thú được hưởng cái đầu và 4 cái chân, nửa bộ lòng và một đùi sau. Nếu thú bắn được là con hổ thì người phát hiện thú được thêm bộ da và bộ xương. Nếu thú bắn được là con gấu thì người phát hiện thú được thêm túi mật. Số còn lại của con thú được chia hai phần theo chiều dọc. Một phần được chia đều cho những người tham gia cuộc săn. Trong phần ấy, người ta lấy ra một miếng thịt cỡ bằng 2 ngón tay nướng chín làm phần thưởng cho người bắn được thú ăn ngay tại chỗ. Ai được ăn miếng thịt ấy đều cảm thấy rất tự hào và chuyện ấy sẽ được kể lại với các thành viên trong bản trong bữa liên hoan sau đó. Sau khi chia đều số thịt ở phần nửa cho những thành viên tham gia cuộc săn, bao gồm cả chó săn. Phần nửa số thịt còn lại của con thú sẽ được mang về bản và chia đều cho các gia đình trong bản.
Sau cuộc săn vây, cả bản diễn ra tiệc rượu liên hoan mừng bắn được thú lớn. Rượu thịt trong cuộc liên hoan do các gia đình cùng đóng góp. Trong bữa liên hoan, người ta kể cho nhau nghe về diễn biến cuộc săn, tôn vinh người đã bắn được thú.
Đàm Minh Phượng (sưu tầm)