Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Pà Thẻn
Showing posts with label ₪ Dân tộc Pà Thẻn. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Pà Thẻn. Show all posts

Monday, August 29, 2016

Trang phục dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang (Hoang Thị Lê)

Người dân tộc Pà Thẻn rất ưa sử dụng gam mầu đỏ. Điều đó nổi bật nhất là trang phục của họ từ khăn, áo, thắt lưng cho đến váy, tạp dề đều có sử dụng mầu đỏ.
Chiếc khăn đội đầu của người dân tộc Pà Thẻn thường có 2 loại: khăn trong (ke sọ) và khăn ngoài (sừ chỉ). Khăn trong thường làm bằng vải tự dệt rồi nhuộm chàm dài khoảng 3,5 – 5m chiều rộng của khăn khoảng 30cm nhưng khi gấp nhỏ chỉ vào 5cm.
Khi sử dụng khăn được vấn thành nhiều vòng xung quanh đầu để tạo thành một vành rộng như cái nón. Lớp khăn vấn ngoài được làm bằng vải màu đỏ dệt xen kẽ là những sợi sọc trắng để tạo hình trang trí.


Áo người dân tộc Pà Thẻn chỉ có duy nhất một áo mặc cho cả bốn mùa và trong mọi hoàn cảnh ngày thường cũng như ngày hội. Áo (ke ơ pơ) được may theo kiểu không có cổ, khi mặc hai thân vắt chéo với nhau. Thân sau dài hơn thân trước. Mầu chủ đạo của áo là mầu đỏ nhưng có phối với các mầu sáng trắng khác bằng cách ghép vải hoặc dệt thành các đường kẻ sọc. Cách cắt may và trang trí trên áo của phụ nữ Pà Thẻn cũng khác hoàn toàn so với các dân tộc khác.


Đi cùng với áo là chiếc váy (két tanh) là một loại váy hở cũng được làm bằng vải màu đỏ. Phần giáp với cạp váy được xếp thành từng nếp. Chiếc cáy được chia thành các phần trang trí khác nhau theo chiều dài của chiếc váy: hai phần ngoài là lớp vải đen không trang trí hoa văn và khi mặc hai phần này sẽ được vắt chồng lên nhau về phía sau (và đuôi áo sẽ che khuất). Tiếp đến là hai phần được trang trí rất nhiều thường ghép vải đỏ, trắng, xen kẽ với những dải vải thêu hoa văn. Phần còn lại chia làm hải mảng: nửa trên để nền đen không trang trí, nửa dưới màu đỏ và có thêu hoa văn.
Đi theo váy và áo là chiếc yếm (a thứ): một mảnh vải hình vuông, nó gần giống như cái tạp dề, khi mặc chỉ cần đeo vào cổ. Gọi là Yếm nhưng nó không có tác dụng để che ngực, nó được đeo như cái tạp dề nhưng lại không có chức năng như cái tạp dề.


Ngoài ra phự nữ dân tộc Pà Thèn dùng hai loại dây lưng: Màu đen và mầu trắng. Trong sinh hoạt hàng ngày họ thường dùng màu đen, còn mầu trắng chỉ dành cho các dịp lễ hay cưới xin.
Cũng giống như nhiều dân tộc khác. Phụ nữ dân tộc Pà Thẻn có trang điểm và để tóc để phân biệt người đã lậpgia đình và người chưa lập gia đình. Những phụ nữ lậpgia đình thường tết tóc đuôi sam quấn quanh đầu tạo thành vòng và ghim lại. Còn những người phụ nữ chưa lập gia đình thì chỉ cần cặp tóc ra đằng sau theo kiểu tết tóc đuôi gà.
Người dân tộc Pà Thẻn có sử dụng đồ trang sức bằng bạc như các loại vòng cổ (a lắng), vòng tay (a lepô) và hoa tai (a lamzô). Các loại trang sức này thường được sử dụng nhiều trong các dịp lễ và sinh hoạt cộng đồng còn ngày thường họ chỉ đeo hoa tai.
 Hoàng Thị Lê (sưu tầm)

Tổng Quan Dân Tộc Pà Thẻn (Hồng Văn)

1.    Vài Nét Về Dân Tộc Pà Thẻn
Dân số : 6.811 người
Ngôn Ngữ: Thuộc ngữ hệ Hmông – Dao.
Tên gọi khác: Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Ðỏ
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: Hà Giang, Tuyên Quang, Đồng Nai, Thái Nguyên, Hà Nội
Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Pà Thẻn ở Việt Nam có dân số 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Pà Thẻn cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (5.771 người, chiếm 84,7% tổng số người Pà Thẻn tại Việt Nam), Tuyên Quang (877 người), Đồng Nai (27 người), Thái Nguyên (25 người), Hà Nội (20 người).
2.    Kinh Tế Truyền Thống

2.1.    Trồng trọt
Một cánh đồng lúa của người Pà Thẻn
(Ảnh sưu tầm)
Người Pà Thẻn trước đây sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy.Cây lương thực chính là cây lúa và cây ngô. Lúa có nhiều loại: lúa tẻ (mô ha la, mô cò nhà, mô ta tớ, mô nhơ) và lúa nếp (mô cằm đi, bôn tri, bù mr khó). Trên một đám nương, người Pà Thẻn chỉ canh tác 2 – 3 năm, tuỳ vào độ màu mỡ của đất, rồi sau đó bỏ hóa, đi tìm đất làm nương mới. Việc tìm đất làm nương mới thường do người già, người có nhiều kinh nghiệm sản xuất đảm nhiệm. Họ thường chọn nơi có rừng già, có lớp mùn dày, không dốc lắm để làm nương lúa và những vùng đất có pha sỏi để làm nương ngô. Khởi đầu cho việc khai phá nương mới là chặt cây:


Họ phát các loại cây nhỏ, dây leo, rồi chặt cây to. Việc phát nương được thực hiện vào mùa khô. Sau khi phát nương được vài ba tháng, cây đã khổ, đồng bào tiến hành đốt, thu dọn sạch nương. Để trồng hạt lúa, người Pà Thẻn dùng gậy chọc lỗ – tra hạt. Người đàn ông cầm gậy đi trước chục lỗ, người đàn bà theo sau tra hạt. Khi lúa chín, người Pà Thẻn dùng I li chác – một loại nhíp nhỏ cắt từng bông một. Hàng ngày đi thu hoạch lúa, họ để lúa lại ở trên nương phơi luôn. Khi gặt hết vụ mới mang về để trên gác bếp. Sau cây lúa là cây ngô. Cây ngô được trồng trên những nương ít màu mỡ hơn, có thể là những nương đã trồng lúa vụ trước, nhưng nay đã cằn, không còn trồng lúa được nữa. Ngoài lúa và ngô, người Pà Thẻn còn trồng thêm các loại bầu, bí, đậu đồ, khoai sọ, khoai lang, sắn…
Từ ngày Nhà nước thực hiện chính sách định canh, định cư (1968), người Pà Thẻn đã xuống núi, định cư ở vùng núi thấp cùng đồng bào khác . Từ khi xuống núi người Pà Thèn vẫn làm nghề nông, trồng lúa, ngô, khoai, sắn, nhưng không dùng gậy chọc lỗ nữa, mà dùng trâu kéo cày trên các thửa mộng bậc thang.
2.2.    Chăn nuôi
Người Pà Thèn chăn nuôi gia súc, gia cầm như các dân tộc khác trong vùng. Con trâu, con bò được nuôi trong mọi gia đình theo phương thức chăn thả. Sáng thả trâu, bò lên núi rừng tự tìm cỏ ăn, chiều lùa 1 lùa về chuồng. Con lợn, con gà, con vịt được nuôi nhiều để vừa làm, hiến sinh trong lễ tết, cúng bái và kết hợp ăn thịt.
2.3.    Khai thác tự nhiên
Người Pà Thẻn cư trú ở vùng rừng núi, đã thu hái lâm thổ sản cải thiện đời sống của mình. Những ngày mùa đói kém, gặp những năm múa màng thất bát, đồng bào vào rừng tìm củ mài, củ nâu và những loại cây có củ về ăn. Hàng ngày đi làm lên rừng, lên núi, mùa nào thức ấy, đồng bào hái măng, rau rừng các loại, hoa quả trên rừng, nấm hương, mộc nhỉ, mật ong, củi đóm… mang về sử dụng. Những ngày nhàn rỗi, thanh niên nam giới khoẻ mạnh thường đi săn bắn, đánh bắt cá ở các sông suối về cải thiện bữa ăn.

2.4.    Ngành nghề thủ công
Nghề dệt của người Pà Thẻn (Ảnh sưu tầm)
Người Pà Thèn có hai nghề thủ công được tồn tại lâu, đó là dệt và nghề đan lát. Nghề dệt có từ lâu đời, gắn với đặc điểm trang phục của đồng bào. Sản phẩm dệt của họ cũng được các dân tộc xung quanh ưa thích, cho nên còn được đem bán, trao đổi với dân tộc khác. Nghề đan lát ở người Pà Thẻn cũng khá phát triển. Họ tự túc đồ đan như chiếc gùi, chiếc dậu, cót phơi thóc lúa.

2.5.    Trao đồi, mua bán
Dân tộc Pà Thẻn ít người cho nên họ không có chợ riêng nên thường họp chợ chung với các dân tộc trong vùng. Ra chợ, người Pà Thẻn thường bán các lâm sản quý như nấm hương, mộc nhỉ, mật ong, măng khô. Những con vật nuôi như gà, vịt, lợn, thậm chí cả trâu đều được người Pà Thẻn đem bán. Ở chợ, họ thường mua muối ăn, kim khâu và những đồ dùng cần thiết liên quan đến trang sức cho phụ nữ
3.    Văn hoá truyền thống
3.1.    Làng
Một góc làng dân tộc Pà Thẻn (Ảnh sưu tầm)
Người Pà Thẻn sinh sống thành từng làng, nhưng làng của người Pà Thẻn có đặc điểm là chịu nhiều chi phối của trình độ sản xuất, hoàn cảnh kinh tế – xã hội. Theo các cụ già kể lại, ngày mới di cư đến Việt Nam trước sự cạnh tranh của cư dân bản địa, họ phải dựng làng trên nhiều triền núi cao. Mặt khác lúc đó họ sống bằng nghề trồng trọt theo phương thức phát đốt, chọc, trỉa trên các triền đất dốc, đất nhanh chóng bạc máu thường xuyên phải thay đổi nương sản xuất. Do đó làng của họ là làng du canh, du cư, không ổn định, làng ít hộ, cư trú thưa thớt. Từ những năm 60 của thế kỷ XX sau khi thực hiện định canh, định cư, người Pà Thẻn xuống núi, làm ăn ổn định. Ở vùng núi thấp, họ dựng làng ở gần khe suối, có khả năng bắc máng tre dẫn nước về đến nhà. Tuỳ theo từng địa plnrơng, số lượng nhà ở trong làng khác nhau. Ở vùng hữu ngạn sông Lam, các xã Tân Trịnh, Tân Lập, Yên Bình, nơi số dân số chiếm 4/5 dân số của người Pà Thẻn, có làng đông tới 30 – 40 nóc nhà. Những nơi khác, làng người Pà Thẻn thường sống rải rác dọc theo các con sông suối.
Trong một làng người Pà Thẻn thường có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó một dòng họ lớn nhất: đông người, có uy thế về kinh tế – xã hội trong cộng đồng làng.
3.2.    Nhà ở
Người Pà Thẻn cũng như các dân tộc khác rất quan tâm đến ngôi nhà ở. Dù là môi trường tự nhiên thế nào, đã ở đó làm ăn là phải làm nhà để ở. Khi chọn đất làm nhà, người Pà Thẻn thường quan tâm đến hướng nhà. Đất được chọn làm nhà thường là chân núi, để khi dựng nhà, nhà (lựa lưng vào núi và mặt trước nhà là khoảng không gian rộng rãi, có tầm nhìn xa, nhưng đồng bào kiêng, ở tầm xa đó có núi hoặc sông hướng thẳng vào phía trước nhà. Đồng bào quan niệm rằng làm nhà vào những hướng đó thì các thành viên trong nhà hay bị đau yếu, các con vật nuôi trong nhà không phát triển.
Người Pà Thẻn ở nhà đất. Nguyên vật liệu làm nhà là gồm tre, nứa là những nguyên vật liệu sẵn có ở trong rừng, tại địa phương, không cần mua mà chỉ đi lấy về dùng. Để dựng một ngôi nhà ổn định, chủ nhà phải tự đi vào rừng chọn gỗ, chặt cây, dùng trâu kéo gỗ về gần nhà tập trung. Khi nào những cây cột, kèo, xà đã lấy về đủ, đến ngày dựng nhà, chủ nhà mới nhờ sự giúp đỡ của xóm giềng cả về công sức cũng như của cải.
Nhìn từ khía cạnh tâm linh, người Pà Thẻn làm nhà chỉ cấn xem ngày, chứ không cần xem giờ. Họ tránh ngày trùng với ngày chết của bồ mẹ và ngày Thân. Khi làm nhà, đồng bào thường chọn con vật lớn như ngày con Trâu, ngày con Hổ. Vì cho rằng chọn những ngày đó, khi làm làm xong vào ở sẽ khoẻ mạnh và may mắn hơn. Người Pà Thèn cũng không chọn ngày trùng với năm tuổi của chủ nhà để dựng nhà. Liên quan lịch chọn đất làm nhà, đồng bào Pà Thẻn còn sử dụng giải pháp mang lính tâm linh khác. Tại mảnh đất định chọn làm nhà, người ta đào một hố nhỏ, là phẳng đáy hổ, người ta đặt xuống hố một đĩa nhỏ có chứa gạo được nhóm thành các nhóm: nhóm tượng trưng cho người, mỗi người là một hạt, các nhóm tượng trưng cho gia súc, gia cầm, mỗi loại được tượng con trưng bằng 5 hạt gạo, rồi lấy bát úp lại và vàng mã. Chủ nhà tháp cúng. Thầy cúng hoặc chủ nhà tự khấn vái lạy, rồi đốt vàng mã gửi cho thổ thần. Sáng sớm hôm sau, chủ nhà ra xem, nếu thấy hương cháy không hết, hoặc các hạt gạo trong bát ở dưới hố bị xê dịch, hoặc bị côn trùng ăn mất, có nghĩa là đất dữ, không làm nhà ở được. Nếu hương cháy hết, các hạt gạo trên đĩa vẫn nguyên vị trí, thì đó là đất lành, có thể làm nhà ở tốt. Cách xem đất như trình bày trên, nghe giải thích đầy màu sắc mê tín, duy tâm, nhưng thực chất đấy là việc làm có tính khoa học cao. Hiện tượng những hạt gạo trong đĩa bị xê dịch, chính là sự báo hiệu về mảnh đất cỏ nhiều côn trùng làm hại cho người, không nên đến làm nhà ở đó.
Nhà ở của người Pà Thẻn là nhà bốn mái, nhà có hai cửa ra vào nhà. Cửa chính mở chính giữa phía trước cửa nhà, nhìn thẳng vào bàn thờ; cửa phụ mở ở gian chái nhà, đi vào gian bếp. Bố trí bên trong nhà ở của người Pà Thẻn: sát vách sau, gian giữa nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, nhưng bàn thờ này không được dựa vào vách sau nhà. Có hai bàn để thờ, bàn thờ chính, đặt cao hơn là nơi để bát hương, nơi trú ngụ của tổ tiên, bàn thờ phụ, đặt thấp hơn là chỗ bày thức ăn cúng, là nơi tổ tiên ăn uống. Vì có hai bàn thờ, cho nên có người nhầm tưởng là thờ hai loại khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một.
Tục vào nhà mới của người Pà Thẻn là đưa bếp lửa vào trước, tiếp đó là bàn thờ tổ tiên, rồi đến lương thực, thực phẩm.
3.3.    Y phục, trang sức
Trang phục của người Pà Thẻn, ngoài sự phân biệt theo giới tính, trang phục lao động hàng ngày, không có trang phục mang chức năng xã hội. Trong các dịp cưới xin, lễ tết, hội hè người ta mặc những bộ y phục mới hơn và khâu đẹp hơn.
Bộ y phục đặc trưng nhất cho dân tộc Pà Thẻn là bộ y phục của phụ nữ, còn bộ y phục của nam giới đã bị thay đổi nhiều. Bộ y phục phụ nữ nổi lên với cách dùng màu đỏ tươi làm màu nền. Bộ nữ phục bao gôm khăn, áo, váy, thắt lưng, tạp dề. Phụ nữ Pà Thẻn để tóc dài, được quấn quanh đầu bằng khăn đội đầu. Khăn đội đầu có hai loại: khăn trong – ar sọ và khăn ngoài – sừ chi. Khi đội đầu, chiếc khăn trong có vai trò giữ tóc, còn khăn ngoài được vấn nhiều vòng tạo cho khăn có hình dáng tương tự như khăn xếp của nam giới dân tộc Kinh, nhưng rộng hơn và trang trí các màu đỏ, trắng, kẻ sọc xen kẽ. Áo nữ kẻ ô là loại áo cắt không cổ, xẻ thẳng xuống trước ngực, không cúc, thân sau dài hơn thân trước, khi mặc vắt chéo hai vạt áo trước với nhau. Màu chủ đạo của toàn bộ chiếc áo là màu đỏ tươi. Váy – két tanh là loại váy mở, dài quá chân, phần cạp váy được xếp nếp để khi mặc vừa với vòng bụng, nhìn tổng thể, chiếc váy cũng là một màu đỏ tươi. Thắt lưng – tơ he to có Mi dụng giữ váy bám sát eo lưng, nhưng đồng thời cũng là một vật trang trí… Thắt lưng có hai màu: đen và trắng. Thường ngày đi làm trên ruộng, mương, chị em dùng thắt lưng màu đen, trong các dịp lễ hội, đi chợ, hay mới sinh, chị em dùng loại thắt lưng màu trắng. Trên y phục – váy, áo của phụ nữ Pà Thẻn được trang trí nhiều hoa văn. Hoa văn trên váy, áo thường có nhiều mô típ:
Vòng cổ trang sức của phụ nữ Pà Thẻn
(Ảnh sưu tầm)
mô típ hoa văn hình học (hình vuông, hình thoi, hình tam giác, hình răng cưa, hình sao, hình lược… ), mô típ hoa văn động vật (con chó, chân chó, nghé con, chân gà, mắt cua, con tằm…).
Bộ y phục của nam giới có nhiều nét chung với y phục của nam giới trong vùng như: áo người Nùng, người Mông. Đó là chiếc áo bà ba, cài cúc vải. Quần nam giới được cắt may theo kiểu chân què. Đồ trang sức của phụ nữ Pà Thẻn có: khuyên tai, vòng cổ, vòng nhẫn và túi đeo.
Trẻ em gái được mẹ và chị trổ lỗ tai từ khi lên 5, lên 6 tuổi. Tuổi còn nhỏ, bắt đầu các em dùng chỉ màu để giữ lồ tai. Bước vào tuổi 13, tuổi dậy thì, các em bắt đầu đeo khuyên tai bằng bạc và đôi khuyên tai này sẽ được đeo suốt đời. Vòng cổ của chị em phụ nữ được làm từ những sợi dây bạc có tiết diện tròn hay lục lăng. Chiếc vòng cổ thường có đường kính khoảng từ 25 cm cho đến 30 cm. Vòng tay mà chị em phụ nữ sử dụng có hai loại: vòng kép có tiết diện tròn và vòng đơ có tiết diện vuông. Chất liệu làm vòng tay cũng là bạc. Nhẫn thì đối với chị em phụ nữ người Pà Thẻn cũng là vật trang sức, nhưng không mang tính phổ biến như khuyên tai. Họ chỉ dùng loại nhẫn có bản •K’I. Túi đeo thường được chị em dùng để chứa đựng đồ dùng mang theo như trầu, vỏ, vôi, thuốc… Nhưng về sau, túi đeo thêm chức năng thẩm mỹ cho đồng bộ với bộ váy, áo, khăn đẹp mang trên người.
Nam giới Pà Thẻn ít khi dùng đồ trang sức. Họ thường dùng tủi đeo giống như túi đeo của phụ nữ và có người đeo nhẫn bạc.
3.4.    Ẩm thực
Người Pà Thẻn nấu cơm lam trong hội thi (Ảnh sưu tầm)
Nguồn lương thực chính của người Pà Thèn là lúa gạo – mồ chi, khi thiếu ăn thì họ dùng cả ngô. Cơm gạo tẻ được nấu bình thường và nấu ăn thường xuyên. Người Pà Thẻn thỉnh thoảng có nâu cơm nếp, thổi xôi nhưng ít. Gạo nếp được sử dụng nhiều hơn trong các dịp lễ tết hội lễ cưới xin, ma chay. Ngô – cà xị, tuy là lương thực có vai trò phụ so với lúa gạo, nhưng ngô lại được sử dụng theo nhiều cách khác nhau:
với ngô non thì ăn luộc, ngô già thì ăn nướng, ngô còn được nấu độn với cơm. nấu cháo ngô ăn thay gạo trong mùa đói kém. Thực phấm được sử dụng trong bữa ăn hàng ngày là các loại rau, đậu, bầu bí; thỉnh thoảng có ăn cá, trứng. Rau xanh có loại thu hái từ tự nhiên, có loại hái ngay trong vườn nhà; thịt gia cầm, gia súc và thịt do đánh bẫy, săn bắt được từ rò từ sông, suối.
Cách chế biến thực phẩm: Rau xanh đồng bào Pà Thẻn thường nấu canh. Canh rau xanh, canh đỗ tương là những món ăn thường trong bữa ăn của người Pà Thẻn. Với các loại thực phẩm là thịt, củ, thức ăn của đồng bào thường ăn nướng hoặc làm thành món chua. Món ăn nướng làm đơn giản, thịt, cá nướng không tẩm ướp gia vị mà chỉ muối rồi đem nướng trên than củi hồng. Nướng chín bốc mùi thơm là ăn ngay. Món ăn chua làm cầu kì hơn. Thịt thú rừng (nai, hoẵng), thịt gia súc (lợn, trâu, ngựa), gia cầm (gà) đều có thể làm thành món chua để dành ăn trong vài ngày. Cách chế biến món ăn chua là thịt thái lát mỏng, cá chặt khúc, ướp muối, trộn với thính gạo rang, sau đó nhét vào óng nứa, lèn chặt, để ra chô thoáng khoảng 15-20 ngày là có thê ăn được. Người Pà Thẻn còn có cách bảo quản thực phẩm bằng cách sấy khô: thịt sấy khô, măng khô, mộc nhỉ khô…
3.5.    Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Pà Thẻn sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng hóa phổ biến.
3.6.    Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của người Pà Thẻn thuộc người hệ Mông nhưng do một thời gian dài chung sống với người Tày, tiếng nói có pha trộn nhiều tiếng Tày trong vùng mà họ tiếp xúc hàng ngày.
Chữ viết: Trước đây người Pà Thẻn dùng chữ Hán để ghi chép các sách cúng, làm văn tự: giá thú, khai sinh, khai tử, các văn tự về nơi đất đai khác.

3.7.    Tín ngưỡng tôn giáo
Chữ Hán được người Pà Thẻn sử dụng (Ảnh minh họa)
Người Pà Thẻn tin vào vạn vật hữu linh, mọi vật từ sinh vật sống đến vật vô tri vô giác đều có linh hồn. Những linh hồn này đều là những “vật sống” tàng hình, nhưng chúng có tác động lẫn nhau và tác động đến cuộc sông của con người, của cây trồng, vật nuôi của con người. Những linh hồn có khá năng “siêu nhiên” như vậy được đồng bào gọi bằng một tên chung là quơ – ma hay là pa quơ – con ma Những con ma này trường tồn ở cả ba tầng: trên trời, trên mặt đất và dưới mặt đất. Ma có hai loại: ma lành và ma dữ. Ma lành là ma phù hộ cho con người, che chở cho con người mồi khi gặp điều khó khăn trắc trở. Ma lành gồm có ma trời, ma thổ địa, ma bản, ma tổ tiên. Ma dữ là ma chuyên làm hại người, hại cây trồng, vật nuôi. Để trị loại ma này phải là những thầy cúng cao tay. Theo quan niệm dân gian ma này gồm: ma rừng già, ma gà, ma lói, ma hòn đá, ma của những người bất đắc kỳ tử, ma thuồng luồng, ma chó sói. Trong các loại ma này, đáng sợ nhất là ma thuồng luồng.
Những quan niệm về ma như trình bày ở trên đây làm cơ sở cho sự hình thành các nghi lễ hội hè, thờ cúng trong dân gian như: thờ cúng tổ tiên, các lễ tết hội hè…
Thờ cúng tổ tiên: Theo quan niệm của đồng bào Pà Thẻn, người ta có 5 hồn, trong đó có một hồn ngự trốn đỉnh đàu, các hồn còn lại ngự ở tứ chi và ở cơ thể con người. Khi các hồn đó rời khỏi xác là người ta chết lúc đó hồn biến thành ma. Đồng bào cũng quan niệm rằng, khi người chết đi thì chỉ còn hai hồn. Hai hồn này cũng rất dữ nếu không được chăm sóc cẩn thận. Do vậy khi làm tang ma, thầy cúng phải cúng và tiễn đưa cả hai hồn: một hồn đưa lên mộ, một hồn đưa về với tổ tiên. Xuất phát từ quan niệm như vậy, cho nên người Pà Thẻn có phong tục thờ cúng tổ tiên.
Bàn thờ cúng tổ tiên của người Pà Thẻn gồm hai bàn: bàn thờ chính, bàn thờ phụ. Bàn thờ chính được đặt ở gian giữa đối diện với cửa chính ra vào nhà. Trên bàn thờ chính thường chỉ có một bát hương. Nếu gia đình nào trên bàn thờ chính có hai bát hương thì gia đình đó đã lấy rể. Trong hai bát hương trên bàn thờ chính, bát bên phải bàn thờ, thờ tổ tiên nhà vợ, còn bát bên trái bàn thờ, thờ tổ tiên người ở rể. Nét đặc trưng chính việc thờ tổ tiên của người Pà Thẻn là trên bàn thờ chính luôn có hai bát nước lã. Bát nước này được đậy bằng một chiếc đĩa và luôn phải co1 nước. Thông thường cứ 6 tháng mới được mở xem và tiếp nước một lần cho đầy. Hết năm, thay toàn bộ nước trong bát đó. Trên vách bàn thờ hình có dán một tờ giấy đỏ, kích thước 50cm X 70cm. Neu gia đình làm lễ cúng thì trên bàn thờ chính còn bày thêm hoa thờ. Hoa thờ có thể vẽ ngay trên tờ giấy đỏ. Hoa thờ tượng trưng cho âm binh cùa thầy cúng Bàn thờ phụ được bài trí đơn giản hơn. Đó là một tấm ván được để ngang trước cửa buồng ngủ của chủ nhà. Đây là nơi bày các lỗ vật khi cúng (gà, lợn, các thức ăn khác…). Người Pà Thẻn có tập quán không bao giờ bày đặt lễ vật cúng lên bàn thờ chính.
3.8.    Lễ hội
Lễ tết, hội hè: Dân tộc nào cũng có lễ tết, hội hè nhằm tạo ra một không khí mới, giải toả phần nào những bức xúc trong đời sống và là dịp con người có cơ hội giao lưu, thăm hỏi, vui vẻ với nhau. Trong một năm, người Pà Thèn có nhiều ngày lễ tết, nhưng có một số lễ tết đáng biết sau: tết Nguyên đán, tết Thanh minh, tết 15/ 5 (Tết Rau kiệu)
Tết Nguyên đán: là tết mở đầu năm mới, tết to nhất trong năm. Tết này được chuẩn bị nhộn nhịp từ ngoài 20 tháng Chạp: các gia đình mổ lợn, làm món thịt lạp, lạp xường, người Pà Thèn không gói bánh chưng ăn tết mà làm bánh giầy – tộ gộ; sửa chữa công cụ sản xuất (như cày, cuốc) để sẵn sàng bước vào năm mới sản xuất được may mắn.30 tết làm lễ tất niên, gia đình nào cũng thắp hương lên bàn thờ, bày mâm thờ tổ tiên (mâm cúng chỉ có thịt gà, không có thịt lợn), thay nước trên thờ (thay nước trong bát, chứ không thay bát và đĩa đậy). Khi cúng tổ tiên người ta khép cửa lại. Cũng trong tối 30 tết, người Pà Thẻn còn ngoài hiên nhà nhằm ngăn chặn không cho các loại ma khác vào . Cúng lễ này xong cửa nhà được đóng kín đến sáng hôm sau. Sáng mùng 1 Tết, từng gia đình tự làm lễ xin nước mới (gả ỏ). Lễ vật đi xin bao gồm 1 nén hương, 2 củ thạch sương bồ (loại củ mọc trên núi đá, Iilé người Pà Thẻn phải mất công đi tìm lấy về từ những tháng trước đó) một tờ giấy bản (vàng mã). Họ cầu mong nguồn nước luôn sạch sẽ quanh năm, suốt tháng.. Khoảng gần ngày mồng 1 Tết, người Pà Thẻn có tục ăn cháo gà. Tục ăn cháo gà vào khoảng 4 giờ sáng và liên quan đến sự tích: ngày xưa, có một gia đình nghèo, tết đến bố chẳng có gì cho con cái ăn. Theo phong tục tối 30 tết các gia đình đều đóng kín cửa, ông bố mò mẫm trong đêm đến nhiều xóm ăn trộm gà. Trộm được gà về ông bố làm gà, nấu cháo gà. Đến sáng cháo gà đã nấu xong, ông bố gọi vợ, các con dậy ăn trong cảnh trộm ăn, trộm uống không để cho hàng xóm biết. Tục ăn cháo gà này còn lưu giữ lại trong phong tục ăn tết của người Pà Thẻn. Ngày mồng 1 Tết, người ta thường hay đi chúc tết các gia đình trong họ hàng, làng xóm thân thiết. Tục ăn tết năm mới kéo dài từ 29 tết đến hết 15 tháng Giêng, ngày 15 thủng Giêng không làm lễ tiễn đưa tổ tiên về.
Tết Thanh minh: tổ chức vào ngày 3/3 hàng năm. Tết này không cúng vào buổi trưa, mà cúng vào buổi tối. Đồng bào giải thích rằng, cúng vào buổi tối, ma tổ tiên và ma người thân mới kịp về. Mâm cỗ tết này có bánh, thịt, xôi 4 màu: màu trắng tự nhiên của gạo nếp, màu vàng (nhuộm vàng nước ngâm củ nghệ), màu tím (nhuộm bằng nước ngâm lá da líu), màu đỏ (nhuộm bằng nước ngâm lá da tớ), rau. Mâm cúng còn bày thêm 5 chén đĩa. Nơi đặt mâm cúng là ngoài hiên, bởi vì đây là tết mồ mả. (cúng xong ở ngoài hiên, người ta dọn mâm cúng vào nhà hưởng lộc. Sáng ngày 4/3, đồng bào mới đi tảo mộ với vật cúng là gà, xôi, rượu.
Tết 15/5: Đây là tết Rau kiệu – tế ủ chúng. Dịp tết này, người đào lấy hết củ kiệu mang về nhà. Mâm cúng lúc đầu bày ở bàn thờ tổ tiên, sau đó đem ra cúng ở hiên, rồi mới được đưa vào nhà để ăn.
Tết 27/9: Đây là tết Cơm mới, mâm cúng như tết năm mới.
Tục nhảy lửa của người Pà Thẻn (Ảnh sưu tâm)
Tục nhảy lửa – Pồ di: Tục này được tổ chức vào sau ngày 15/10 âm lịch hàng năm, tức là sau ngày thu hoạch xong vụ mùa. Để tổ chức nhảy lửa cần có thầy cúng cao tay người Pà Thẻn, cần 1 con lợn khoảng 30 kilôgam để cúng trời (Ngọc Hoàng), chuẩn bị một đống củi khô, bãi rộng – thường là ruộng của làng vừa thu hoạch vụ mùa xong, đất ruộng khô ráo, mời một số nam thanh niên sẵn sàng đến dự, tham gia vào cuộc nhảy lửa.
Vào chập tối, thầy cúng, thanh niên, dân làng đến nơi tổ chức nhảy lửa – chỗ chất đống củi, khá đông đủ, dân làng đứng vòng ba phía của đống củi, phía còn lại là nơi để thầy cúng làm việc và một số nam thanh niên chuẩn bị sẵn sàng nhảy lửa ngồi. Thầy cúng tay trái cầm que gõ đàn, tay phải lắc đàn pà sán tàu, miệng niệm thần chú, khấn mời Ngọc Hoàng, mời thần đất đến nhập vào những thanh niên, có vía nhẹ ngồi đó. Khi thầy cúng làm việc thì đống củi được châm lửa đốt lên. Thầy cúng mời được “ma’ trời nhập vào ai thì người đó tự nhiên đứng dậy, đi về phía đống lửa đang cháy, đi vòng quanh đống lửa, rồi bất thình lình nhảy vào đống lửa, hất tung củi đang cháy, hất tung than đang hồng, lao vào đống lửa xuyên từ bên này sang bên kia, mấy lần liên tục. Khi nhảy lửa như vậy, họ đi chân không, không giầy, dép, không mũ, nón, mặc quần áo bình thường, nhưng khi ra khỏi đống lửa, chân không bị bỏng, tóc không bị cháy, quần áo vẫn nguyên vẹn.
Hiện tượng đi chân không, giẫm lên than hồng, không chỉ có ở dân tộc Pà Thẻn, mà còn có ở dân tộc Tày (Bắc Kạn), dân tộc Chăm (Ninli Thuận), dân tộc Dao (Lào Cai) và dân tộc Bulgari ở nước Bulgari .
3.9.    Gia đình, dòng họ
Gia đình của người Pà Thẻn là gia đình nhỏ phụ hệ. Con cái sinh ra được tính theo dòng bố, chỉ con trai được kế thừa tài sản do bố mẹ để con trai cũng là người có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, chăm sóc mồ mả dòng họ. Gia đình người Pà Thẻn cũng là gia đình phụ quyền. Người chồng và người con trai trưởng có được quyền lực lớn trong việc giải quy 1 những vấn đề trong nhà cũng như trong cộng đồng. Theo quan niệm phụ quyền, một gia đình có nhiều con trai thì bố mẹ rất đáng tự hào, một dòng họ có nhiều con trai là dòng họ mạnh.
Người Pà Thẻn tự gọi mình là người “tám họ”. Những họ đó là: họ Phù, họ Tẩn, họ Táy, họ Húng, họ Sình, họ Là, họ Dư… Họ coi đây là những họ gốc. Tuy nhiên trong thực tế, ta thấy người Pà Thẻn còn có các họ khác như: họ Bàn, họ Triệu. Có học giả cho rằng họ Bàn là họ của dân tộc Dao. Các họ của người Pà Thẻn mang tính huyết thống cho nên bị cấm kết hôn với nhau. Tên những họ nêu trên là tên theo họ Hán. Cũng những tên họ đó, nhưng theo tiếng Pà Thẻn phát âm như họ Phù là Ca bô, họ Sình là Ca sơ, họ Đừ là Ca đo, họ Làn là Ca lu Mỗi họ gốc hiện nay lại chia ra thành các chi lớn, chi nhỏ như Họ Phù rân Trịnh chia thành ba chi: Ca bỏ cộ là họ Phù to, Ca bô ca đe là họ Phù dê và Ca bô ca xi là họ Phù gio bep. Trong tên chi họ trên, những từ: I ộ, ca đe, ca xi là đe phân biệt các chi với nhau. Tên mỗi chi họ đều gắn với một truyền thuyết riêng. Thí dụ, chi họ Phù ca bô ca đe liên quan đến truyền thuyết con dê cứu người họ này. Họ Húng có truyền thuyết về một con rắn – puốc ke, chuyên đi săn ăn thịt người, rồi bị một người họ Húng giết chết. Hiện nay họ Húng có chi Húng puốc ke.
3.10.    Tục lệ cưới xin
Lễ rước dâu của người Pà Thẻn (Ảnh sưu tầm)
Người Pà Thẻn thực hiện hôn nhân ngoại tộc hôn nhân dòng tộc (dòng họ). Việc hôn nhân trong dòng tộc bị nghiêm cấm, thậm chí những họ lớn, có nhiều chi như họ Phù, họ Sình, việc hôn nhân giữa các chi họ vẫn bị cấm nghiêm ngặt. Hôn nhân của người Pà Thẻn là hôn nhân một vợ, một chồng bền vừng. Những trường hợp lấy vợ hai được coi như ngoại lệ và chỉ trong những tình huống cụ thể như vợ cả không có con hoặc vợ cả bị bệnh nặng lâu dài… Tập quán người Pà Thẻn ít có trường hợp vợ chồng ly dị và dư luận cộng đồng lên án mạnh mẽ những hành vi uy,ngoại tình. Sau lễ cưới, đôi tân hôn về cư trú bên nhà chồng. Tuy nhiên cũng có tục ở rể tạm thời và tục ở rể đời. Tục ở rể tạm thời thường do nhà gái yêu cầu. Thời gian ở rể dài nhất là 12 năm. Nếu không muốn ở rể thời hạn theo yêu cầu của nhà gái thì có thể thay thế bằng tiền. Mỗi năm ở rể có thể thay bằng một đồng bạc trắng, nhưng chỉ được thay thế nhiều nhất là nửa thời hạn, chứ không thể thay thế hết. Tục ở rể đời thường được thực hiện khi nhà gái không có con trai. Theo tục này, sau hôn nhân người chồng phải sang ở hẳn bên nhà vợ đế thừa hường tài sản thừa kế do bố mẹ vợ để lại và thờ ma hai nhà trên hai bàn khác nhau: một bàn thờ thờ ma nhà họ mình, một bàn thờ thờ ma nhà họ vợ; con cái sinh ta mang họ nhà vợ. Trong trường họp ở rể đời, thường tổ chức đám cưới giản hơn, lễ vật ít hơn.
3.11.    Tập quán sinh đẻ và nuôi con nhỏ
Dân tộc nào cũng yêu quý con, người Pà Thẻn cũng vậy, cho nên có em bé cả gia đình yêu quý, quan tâm nuôi nấng, dạy dỗ trẻ. Người Pà Thẻn có tục đặt tên cho con trẻ từ khi còn bé. Tên đặt theo thứ tự của I IU con do một bố mẹ sinh ra: cả, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy… và kèm tiiro tên bố. Người Pà Thẻn đặt tên chính thức cho con mình khi chúng lớn lên. Tên chính thức được dùng cho đến khi chết, đi về với tổ tiên. Vì vậy, việc đặt tên chính thức phải được tiến hành theo một nghi lễ do thầy cúng chủ trì. Thầy cúng viết một số tên định đặt cho đứa trẻ lên tròn mảnh giấy, rồi đặt những mảnh giấy đó lên bàn thờ trình thần linh, thắp hương cúng. Sau đó thầy cúng nhặt lấy một trong bất kì mảnh giấy ghi Tên trên mảnh giấy vừa nhặt ra sẽ là tên chính thức của đứa bé. Ớ nhiều nơi, người ta cũng tổ chức đặt tên cho con gái, nhưng không tiến hành theo các nghi lễ phức tạp như đặt tên cho con trai. Dù con gái có tên chính thức, nhưng trong cuộc sống thường ngày, người ta vẫn không gọi theo tên chính thức đó, mà gọi theo tên chồng. Nghi lễ đặt tên chính cho con trai có giá trị khi chết về tổ tiên mới được tổ tiên thừa nhận vì đã có tên đăng ký với tổ tiên từ trước rồi.
3.12.    Tập quán tang ma
Người Pà Thẻn quan niệm rằng, chết là kế tục” sự sống ở một thế giới khác – sự sống của linh hồn con người ở thế giới bên kia. Việc làm ma cho người chết là ước mong của người sống, của thân nhân, giúp cho linh hồn người chết có được sự an lành ở thế giới mới.
Khi có người chết, người Pà Thẻn ra sân bắn ba phát súng chỉ trời để báo cho tổ tiên biết, cho “trời” biết dưới trần gian có người đã ra đi vĩnh viễn. Nếu người chết là thầy cúng thì người ta không ra sân bắn súng, mà phải trổ nóc nhà ra để bắn. Thi hài được đặt trên một tấm giết đan bằng tre ở trước bàn thờ. Người nhà rửa mặt, thay quần áo sạch cho người chết, ở phía đầu người chết đặt một bát cơm và một quả trứng luộc đã bóc vỏ. Người ta úp lên thân người chết 12 cái bát tượng trưng cho 12 hồn người. Lễ vật dùng trong đám ma do con cái họ hàng thân thích của người chết đóng góp. Mỗi người con đẻ khi về chịu tang bố phải mang theo một con lợn khoảng 25 kilôgam trở lên để góp vào các nghi thức tang lễ. Đứa con nghèo không có lợn, cũng phải mang theo ít nhất 7 con gà, trong đó có một con gà trống to. Đối với con gái khi cha mẹ chết không nhất thiết phải đóng góp lễ vật. Quan tài người Pà Thẻn là khúc gỗ độc mộc bổ đôi, khoét rỗng giữa. Thi hài được cho vào quan tài khi nửa dưới của quan tài đã đặt ở dưới huyệt, đầu người chết quay về hướng núi. Cuốc xẻng dùng đào, lấp huyệt, sau ba ngày mới được mang về nhà.
3.13.    Văn nghệ dân gian
Dân tộc Pà Thẻn có một vốn văn học nghệ thuật dân gian phong phú. Có nhiều truyện cổ, các làn điệu dân ca, ca dao, tục ngừ, câu đố, giải đố. Truyện về nguồn gốc cây lúa nói lên tình thân giữa con người và con chó, con lợn với con người. Như sáng kiến của các con chó, mèo, lợn mà có được cây lúa để người Pà Thẻn gieo trồng, sản xuất, nhân lên, phát triển cây lúa, nuôi sống con người và các con vật. Truyện cổ lên án chàng trai lười, không chịu quét sạch đường cho hạt lúa tự lăn về nhà, cho đến bây giờ con người mới phải khổ sở ra đồng gặt lúa, mang lúa về nhà.

 Hồng Văn (sưu tầm)

Tết cổ truyền đậm đà bản sắc của dân tộc Pà Thẻn (Minh Tâm)

Hà Giang, mảnh đất cực Bắc địa đầu của Tổ quốc, nơi hội tụ 22 dân tộc anh em cùng chung sống với sự đa dạng về văn hóa.
Đến với Hà Giang những ngày Tết Nguyên đán, không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của Cao nguyên đá Đồng Văn, được ngắm những cánh rừng hoa đào, hoa mận, hoa lê đua nhau khoe sắc mà mỗi du khách còn được tìm hiểu nét văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc Pà Thẻn, được tận mắt chứng kiến phong tục đón Tết cổ truyền đậm đà bản sắc dân tộc.

Hiện nay, dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang (đứng thứ chín về tỷ lệ dân số theo Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang) hiện có 6.055 người, sống tập trung ở các huyện Quang Bình, Bắc Quang, Xín Mần và Hoàng Su Phì.
Khác với dân tộc Mông thường sinh sống ở trên các triền núi cao, dân tộc Pà Thẻn lại thường sinh sống, cư trú ở vùng tương đối thấp so với các huyện vùng cao của Hà Giang.
Các hoạt động kinh tế của người Pả Thẻn chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, nguồn thu chính từ nông nghiệp nương rẫy. Từ những năm 1960 trở về trước, người Pà Thẻn vẫn tồn tại hình thức sống du canh du cư. Những năm gần đây, được sự tuyên truyền, vận động, quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, dân tộc Pà Thẻn bắt đầu định cư ổn định cuộc sống.
Tết Nguyên đán là một cái tết lớn và có một ý nghĩa rất quan trọng đối với dân tộc Pà Thẻn. Sau một năm lao động vất vả, thành quả của bà con dân tộc là thóc đầy bồ, ngô đầy gác bếp và gia súc đầy chuồng.
Cũng như bao dân tộc khác, dân tộc Pà Thẻn luôn háo hức đón tết và mong chờ tết đến. Tết đến vừa là dịp nghỉ ngơi của bà con sau một năm lao động vất vả, vừa là dịp để những người thân đi xa lâu ngày về đoàn tụ.
Ngày tết còn là dịp để mọi người làm trọn nghĩa vụ với dòng tộc, gia đình, tổ tiên. Chính vì vậy, vào dịp Tết Nguyên đán, dân tộc Pà Thẻn chuẩn bị kỹ lưỡng mọi lễ vật dâng tiến tổ tiên để mời các cụ thể thưởng tết cùng con cháu.
Cứ đến chiều 30 Tết, cả bản dân tộc Pà Thẻn lại tổ chức cúng thổ công làng mình để mong muốn các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho dân bản luôn mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi, mưa thuận gió hoà.
Địa điểm cúng là trước cửa nhà ông trưởng bản hoặc ở nơi cao nhất trong bản. Lễ vật thường là một miếng thịt lợn, một chai rượu, một đôi bánh dày, hai tờ giấy bản, hai bó hương.
Lễ cúng ma bản không chỉ có ý nghĩa sinh hoạt văn hóa mà con nhằm củng cố tinh thần đoàn kết của dân tộc Pà Thẻn trong xây dựng bản làng, xây dựng nông thôn mới.
Khác với các dân tộc thiểu số khác, dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang có một phong tục độc đáo là thờ bát nước lã quanh năm trên bàn thờ tổ tiên của gia đình, bên trên bát nước lã này được úp một chiếc đĩa.
Theo các già làng dân tộc Pà Thẻn: Bát nước đó tượng trưng cho biển, bát nước chứa đựng hồn tổ tiên và các thành viên trong gia đình. Bát nước này không bao giờ được cạn vì nếu để cạn thì gia đình sẽ có người ốm đau, bệnh tật hoặc gặp điều không may.
Bàn thờ tổ tiên chỉ được cúng chính thức một lần vào đêm 30 Tết Nguyên đán. Lễ vật sẽ được các gia đình dân tộc Pà Thẻn chuẩn bị gồm năm chén rượu, một con gà trống thiến luộc chín và 10 cặp bánh dày.
Vào đêm 30 Tết, tất cả bản dân tộc Pà Thẻn, gia đình nào cũng cửa đóng, then cài. Tất cả các cửa trong ngôi nhà đều được bà con bịt kín. Sau khi đóng kín mọi ô cửa, chủ nhà mới lấy bát nước trên bàn thờ xuống lau chùi, cọ rửa và thay nước mới và cứ sáu tháng một lần mới được đổ thêm nước. Lúc đó, nghi thức cúng giao thừa mới được bắt đầu.
Trong đêm giao thừa, trong nhà thường bí mật nấu một nồi cháo gà để cả gia đình cùng ăn. Ăn cháo xong, gia chủ mới làm lễ xin nước mới vào bát nước thờ. Việc làm này giữ bí mật trong nhà không lộ ra ngoài, theo tín ngưỡng của bà con nếu lộ ra thì trong năm mới gia đình làm ăn vất vả, con cái ốm đau bệnh tật.
Sáng sớm mùng một Tết, người trong nhà xách súng kíp ở lách cửa phụ, cửa hậu ra sân bắn ba phát. Dứt tiếng nổ, mọi người trong nhà mở toang các cửa để cùng vui đón năm mới.

Cũng trong buổi sáng ngày mùng một Tết, gia chủ làm lễ xin nước ở nguồn nước để mong mong ma nguồn nước cho nước sạch, cho nước đều quanh năm cho bản và cho gia đình.
Đến với Hà Giang, đến với dân tộc Pà Thẻn trong dịp Tết Nguyên đán, du khách sẽ còn được xem lễ hội ''kéo chày,'' lễ hội ''nhảy lửa'' thật độc đáo. Được tận mắt chứng kiến các hội thi gói bánh sừng trâu, bánh dài, bánh xường, bánh ốc; được thưởng thức những món ăn truyền thống của dân tộc Pà Thèn.
Qua lễ hội này, dân tộc Pà Thẻn luôn cầu mong các thần linh phù hộ mưa thuận gió hòa, cho dân bản được mùa, đời đời no ấm.
Đặc biệt, du khách còn được chiêm ngưỡng các bộ trang phục truyền thống đặc sắc riêng có của các chàng trai, cô gái Pà Thẻn.
Nổi bật hơn trong trang phục truyền thống của mình, các cô gái Pà Thẻn luôn mặc cho mình bộ trang phục màu đỏ tươi, một bộ nữ phục của các cô gái gồm khăn, áo, thắt lưng, váy, tạp dề.
Màu chủ đạo trên trang phục của các cô gái Pà Thẻn là màu đỏ, với một hình thức trang trí của áo, kết hợp với những đường thêu và ghép vải khéo léo đã tạo nên cho các cô gái Pà Thẻn một sự độc đáo riêng có.
Gìn giữ nguyên vẹn nét văn hóa độc đáo của dân tộc trong cuộc sống của người Pà Thẻn ở Hà Giang nói chung và phong tục đón Tết Nguyên đán truyền thống của dân tộc Pà Thẻn là kho tàng văn hóa hết sức phong phú và độc đáo, chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần đậm nét nhân văn.
Dẫu rằng cuộc sống của đồng bào dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang vẫn còn rất nhiều khó khăn, song những ngày Tết đến Xuân về, tất cả bà con nơi đây đều gác lại mọi bộn bề, lo toan, họ vui chơi thoải mái để chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất mới.
Bên bếp lửa hồng ấm cúng, gia chủ và du khách cùng uống những chén rượu ngô thơm ngây ngất chúc nhau mọi điều tốt đẹp, bình an, may mắn.
Khám phá những nét văn hóa riêng biệt của mỗi dân tộc thiểu số trong ngày Tết cổ truyền, mỗi chúng ta càng thêm yêu, thêm quý mảnh đất biên giới cực Bắc Tổ quốc vẫn lưu truyền những cái tết đơn sơ, giản dị mà ấm cúng, chan chứa yêu thương./. 

Minh Tâm (sưu tầm)

Rực rỡ trang phục phụ nữ Pà Thẻn (Nông thế Lượng)

Lưu giữ hát ví của dân tộc Dao. Cồng chiêng âm vang những đêm hội làng. Phát huy vai trò của người có uy tín

Với số dân trên 5.000 người, dân tộc Pà Thẻn định cư và sinh sống trên những đỉnh núi cao của tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Trong suốt cuộc mưu sinh trên những núi đá đầy nắng và gió, người Pà Thẻn đã tạo cho mình một sắc màu văn hóa mang đặc trưng của dân tộc mình. Trong sắc màu độc đáo ấy, trang phục của người phụ nữ Pà Thẻn là niềm tự hào và trở thành truyền thống của họ.

Khi mới gặp và nhìn qua trang phục của phụ nữ Pà Thẻn, hẳn có nhiều người sẽ nhầm với trang phục của phụ nữ Dao hoặc Mông. Song, quan sát kỹ, sẽ thấy nét riêng đặc sắc trong mỗi bộ trang phục của người phụ nữ Pà Thẻn.

Do định cư trên núi cao, thường xuyên phải chống chọi với thiên tai, nắng gió nên trang phục truyền thống của người phụ nữ Pà Thẻn hết sức kín đáo từ bàn chân, ống chân cho đến đỉnh đầu. Mặc dù có màu đỏ, màu sắc sặc sỡ nhưng khi lại gần, người ta sẽ nhận ra nét riêng và những hoa văn in trên đường vải.

Thiếu nữ Pà Thẻn trong ngày hội.

Theo truyền thống của dân tộc Pà Thẻn ở Bắc Quang (Hà Giang), một thiếu nữ Pà Thẻn trưởng thành, chuẩn bị đi lấy chồng thì phải tự tay mình thêu, dệt được bộ khăn, váy, áo để về nhà chồng cùng các vật dụng khác như chăn, gối. Vì vậy, trang phục của phụ nữ Pà Thẻn không chỉ là chuyện ăn mặc mà còn đánh dấu sự trưởng thành của người con gái mới lớn, là truyền thống trong mỗi gia đình.

Sự độc đáo trong trang phục của phụ nữ Pà Thẻn được thể hiện khá tỉ mỉ từ khăn đội đầu cho đến yếm, áo, váy, quần và xà cạp. Khăn đội đầu có vẻ giống khăn xếp của người Kinh nhưng được cuốn nhiều lớp tạo nên bề rộng của cạp lên tới 30 cm, dài tới 500 cm. Khi thiết kế khăn, người Pà Thẻn dùng vải gấp lại nhiều lần tạo thành nhiều nếp gấp theo chiều bé dần tới đỉnh đầu tạo thành một vòng tròn. Phía ngoài cùng được bọc một vòng vải đỏ xen lẫn màu đen sặc sỡ có thêu hoa văn, kim tuyến, hai đầu khăn để tua tạo trang trí cho khăn.

Trước khi đội khăn, người phụ nữ Pà Thẻn thường vấn tóc cho gọn thành vòng tròn ở đầu tạo nên thế chắc chắn để đỡ lấy khăn. Hai bên phía sau khăn để hai tua rua bằng vô số những sợi chỉ nhiều màu tạo sự cân đối cho khuôn mặt.

Thiếu nữ Pà Thẻn duyên dáng và cởi mở chào đón du khách.

Công phu và tốn thời gian nhất là may áo. Áo của phụ nữ Pà Thẻn xưa kia được dệt thủ công khá công phu bằng nhiều loại chỉ. Nhưng hiện nay, người ta có thể mua vải ngoài chợ về để may áo. Cổ áo được tiếp nối với nẹp ngực, viền mép bằng vải màu xanh.

Thân áo trước chia làm 3 phần, ngực áo ghép bằng vải thổ cẩm màu đỏ, phần bụng là một mảnh vải trắng công nghiệp, vạt nhỏ dần tạo thành hai dải dây dài. Phía bên trong, phụ nữ Pà Thẻn mặc áo hoa màu hồng nhạt để lộ cổ áo ra phía ngoài rất cân đối.

Thiếu nữ Pà Thẻn Hà Giang giới thiệu ẩm thực của dân tộc mình.

Cũng giống như các dân tộc khác, phụ nữ Pà Thẻn cũng dùng yếm trước ngực để tạo nên sự kín đáo và duyên dáng. Không dùng riêng một màu trắng, yếm của phụ nữ Pà Thẻn có hình vuông, có thêu hoa văn màu đỏ, màu vàng xen lẫn những đường kẻ trắng làm tôn thêm vẻ sặc sỡ của thân áo ngoài. Để cho thân hình gọn gàng, không vướng víu vào cây rừng mỗi khi lên nương rẫy, phụ nữ Pà Thẻn sử dụng thêm đai bó thân phía thắt lưng. Dây buộc được kết từ nhiều màu chỉ khác nhau nên rất hài hòa với vải áo và làm cho thân hình thon gọn. Góp phần làm nên sự duyên dáng của thiếu nữ Pà Thẻn là váy.

Thường váy của phụ nữ Pà Thẻn có màu đỏ giống như màu của thân áo. Các viền váy được khâu bằng vải phin trắng. Thân váy ghép từ 5 mảnh vải theo chiều dọc, bố cục đăng đối trước sau, bắt đầu từ màu đen, thổ cẩm, mô típ kẻ ngang, ô trám, sóng nước, móc xích. Phía dưới buông xuống tận quá đầu gối những vạt vải trắng, đỏ tạo nên nhiều lớp vải của chân váy. Phía dưới ống chân là xà cạp được may bằng hai lớp vải. Phía trong là màu trắng, phía ngoài là màu sọc đỏ xen lẫn màu đen. Xà cạp quấn chân là cho thân hình gọn gàng, kín đáo.

Người phụ nữ Pà Thẻn luôn tự hào về trang phục của mình.

Phụ nữ Pà Thẻn thường đeo 4 chiếc vòng bạc có bán kính nhỏ dần về phía cổ. Màu trắng của vòng bạc nổi bật trên nền đỏ của hoa văn áo. Phía trước ngực thường gắn một hình vuông những hàng đồng tiền xu tạo nên âm thanh leng keng mỗi khi đi. Trang phục của người phụ nữ Pà Thẻn thường được mặc vào những dịp quan trọng của bản như lễ Tết, lễ cưới, ngày hội văn hóa dân tộc và những dịp họ đi ra phố lớn… Đây là một nét đẹp văn hóa từ lâu đời của người phụ nữ Pà Thẻn ở Hà Giang nói riêng và khu vực Đông Bắc nói chung. Một nét đẹp cần sự giữ gìn và phát triển.
 Nông thế Lượng (sưu tầm) 

Trang phục của người dân tộc Pà Thẻn (Hoàng Thị Khuyên)

Người dân tộc Pà Thẻn trước đây sống du canh du cư trên những vùng núi cao, hẻo lánh vùng núi phía Bắc. Người dân tộc Pà Thẻn nay đã xuống đồng bằng, sống định canh định cư thành làng bản ở những khu vực tương đối bằng phẳng, gần khe suối, giao thông thuận tiện.

Trang phục của người dân tộc Pà Thẻn ngoài chức năng bảo vệ cơ thể còn có chức năng xã hội và thẩm mỹ rõ rệt. Hiện nay trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Pà Thẻn hầu như còn giữ nguyên, còn nam giới đã có nhiều thay đổi. Hầu hết nam giới dân tộc Pà Thẻn hiện nay đều mặc áo sơ mi và quần âu may sẵn.Chỉ trong ngày cưới chú rể mới mặc quần chân què, áo bà ba đen trang điểm thêm 2 chiếc khăn vắt chéo qua ngực và dùng thắt lưng màu trắng.

Bộ nữ phục dân tộcPà Thẻn nổi bật nhờ cách dùng màu của họ. Đó là màu đỏ tươi, vì vậy một số dân tộc gọi họ là người Mèo đỏ. Bộ nữ phục bao gồm đầy đủ khăn, áo, thắt lưng, váy, yếm.
Phụ nữ Pà Thẻn xưa nay vẫn để tóc dài, được vấn quanh đầu bằng khăn đội đầu. Khăn thường có hai loại: khăn trong (Ke sọ) và khăn ngoài (Sừ chỉ). Khăn trong làm bằng vải tự dệt nhuộm chàm, dài khoảng 30 cm nhưng được gấp nhỏ chỉ còn khoảng 5 cm. Khi sử dụng khăn được vấn thành nhiều vòng xung quanh đầu, tạo thành một vành rộng như cái nón. Lớp khăn vấn ngoài được làm bằng vải màu đỏ dệt xen những sọc trắng.

Người Pà Thẻn chỉ có một loại áo dùng cho cả 4 mùa và trong mọi hoàn cảnh, ngày thường cũng như ngày hội hè. Váy được may theo kiểu không cổ, khi mặc hai thân vắt chéo với nhau, thân sau dài hơn thân trước. Màu chủ đạo của áo là màu đỏ nhưng có phối màu với các màu sáng như màu trắng bằng cách ghép vải hoặc dệt thành các đường kẻ sọc. Cách cắt may và trang trí áo của phụ nữ Pà Thẻn hoàn toàn không giống với dân tộc nào. Hình thức trang trí của của áo kết hợp thêu và ghép vải để phối màu đã tạo nên một phong cách riêng cho trang phục Pà Thẻn.

Váy của phụ nữ Pà Thẻn là loại váy hở, được làm bằng vải đỏ. Phần giáp với cạp váy được xếp thành nếp. Có thể chia các phần trang trí của váy thành năm phần: hai phần ngoài chỉ là vải đen, không trang trí hoa văn, khi mặc phần này sẽ được vắt chồng lên nhau về phía sau. Tiếp đến là hai phần được trang trí rất nhiều, thường được ghép vải đỏ, trắng, xen kẽ những dải thêu hoa văn. Phần ở giữa được chia làm hai mảng: nửa trên để viền đen không trang trí, nửa dưới màu đỏ và có thêu trang trí hoa văn.

Cùng với váy, còn có yếm, là một mảnh vải hình vuông, khi mặc chỉ cần đeo vào cổ, trông giống cái tạp dề nhưng không có chức năng như tạp dề mà là một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ Pà Thẻn.

Phụ nữ Pà Thẻn dùng hai loại dây lưng: màu đen và màu trắng. Trong sinh hoạt hàng ngày họ dùng màu đen, trong các dịp lễ hội hay cưới xin mới dùng loại dây lưng màu trắng.
Cũng như dân tộc Thái, người phụ nữ Pà Thẻn cũng có kiểu trang điểm bằng tóc để phân biệt người có chồng và người chưa có chồng. Những phụ nữ đã có gia đình thường tết tóc đuôi sam, vấn quanh đầu thành vòng và lấy kẹp ba lá ghim lại. Những người chưa có chồng thì chỉ cặp tóc đằng sau theo kiểu đuôi gà.

Đồ trang sức của người Pà Thẻn gồm các loại như vòng cổ, vòng tay, hoa tai được cả nam và nữ sử dụng, nhưng nhìn chung phụ nữ sử dụng nhiều hơn.Các loại trang sức này thường được đeo nhiều vào các dịp lễ hội, các sinh hoạt cộng đồng, cưới xin… còn ngày thường họ chỉ đeo hoa tai.

Túi đeo cũng được coi là một vật trang sức với phụ nữ Pà Thẻn khi xuống chợ hay đi chơi xa và là vật không thể thiếu của cô dâu khi về nhà chồng.
 Hoàng thị Khuyên (sưu tầm)

Dân ca Pà Thèn (Đàm Minh Phiếu)

Dân tộc Pà Thẻn tự gọi mình là Pà Hưng, Tống. Các dân tộc anh em khác thì gọi người Pà Thẻn là Mèo Lài, Mèo Hoa, hoặc Mèo Dỏ. Trong thư tịch cổ xưa, người dân tộc Pà Thẻn được nhắc đến với tên Bát Tiên Tộc. Một số học giả người Pháp gọi người dân tộc Pà Thẻn là Mán Pa Seng hay Mán Pa Teng và họ xếp vào nhóm Mản với người Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu,tiếng nói thuộc ngữ hệ H'mông – Dao.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dân tộc Pà Thẻn ở Việt Nam có dân số 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dân tộc Pà Thẻn cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (5.771 người, chiếm 84,7% tổng số người Pà Thẻn tại Việt Nam), Tuyên Quang (877 người), Đồng Nai (27 người), Thái Nguyên (25 người), Hà Nội (20 người).

Theo truyền thuyết xưa của người dân tộc Pà Thẻn kể lại rằng:
Trước kia tổ tiên của họ ở vùng Than Lò (Trung Quốc), các dân tộc xung quanh gọi họ là Húng Dao hoặc là Thầu Dao. Người dân tộc Pà Thẻn di cư đến nước ta cách ngày nay vào khoảng từ 200 làm đến 300 năm, cùng với các nhóm người Dao khác ở nhiều đoạn và những thời điểm khác nhau.

Thiếu nhi dân tộc Pà Thẻn trong trang phục truyền thống.

Truyện kể về quá trình vượt biển di cư đến Việt Nam của người dân tộc Pà Thẻn ngày nay vẫn được các cụ già nhắc đến. Căn cứ vào địa bàn cư trứ của người Pà Thẻn, họ cư trú phân chia ra làm ba vùng, vùng nhất gồm các xã Lĩnh Phú (Chiêm Hoá), Trung Sơn (Yên Sơn) ở đây họ sống xen kẽ với người Tày, mọi sinh hoạt, văn hoá, xã hội cũng gần giống người Tày quanh vùng, như cách ăn mặc thể hiện trong trang phục, nhà ở, v.v…

Vùng thứ hai gồm các xã Hữu Sản, Bắc Quang, Hồng Quang (Chiêm hoá) tại đây người Pà Thẻn sống rải rác xen lẫn với người Dao, người Tày và người Thuỷ. Vùng thứ ba bao gồm các xã Tân sinh, Tân Lập, Yên Bình ở tả ngạn sông Gậm huyện Bắc Quang (Hà Giang) ở đây họ sống tương đối tập trung nên giữ được nét văn hoá, phong tục tập quán, cổ truyền gần như nguyên vẹn.

Nhà ở của người dân tộc Pà Thẻn có 3 loại: nhà sàn, nhà nền, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất. Mỗi làng của người Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Trong làng có một dòng họ to nhất. Người dân tộc Pà Thẻn nhận mình là con cháu của tám họ như (Phù, Tần, Táy, Hưng, Sình, v.v…) ngoài ra còn là họ Bàn, họ Triệu. Mỗi họ có hai tên gọi, một theo âm Hán, và một được dùng giao tiếp xưng hô giữa những người đồng tộc, thí dụ họ Phù gọi theo tiếng dân tộc Pà Thẻn là Ca Bồ, họ bình là Ca Sơ, họ Dừ là Ca Đo.

Sơn nữ Pà Thẻn.

Trong mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên (a xe), ngoài ra họ còn thờ cúng nhiều vị thần khác như thần sấm, thần sét, thần mưa, thần gió, các thần có liên quan đến nền sản xuất nông nghiệp. Ngày nay do được học tập, sự nhận thức của người dân tộc Pà Thẻn cũng khác xưa rất nhiều. Cuộc sống định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo, đã làm thay đổi bộ mặt bản làng của người Pà Thẻn, tạo điều kiện cho sự phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục.

Người dân tộc Pà Thẻn giữ vai trò chủ đạo trong quan hệ xóm giềng. Thôn xóm hoà thuận, các gia đình thường quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, đổi công cho nhau những lúc thời vụ hay những công việc cần lao động. Khi có người chết thì người nhà bắn ba phát súng báo hiệu, sau đó tiến hành việc khâm liệm.
Xã hội cũ của người Pà Thẻn trai gái kết hôn rất sớm, ở lứa tuổi 15 đến 16. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người làng dòng họ bị ngăn cấm tuyệt đối, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững, có trách nhiệm nuôi dạy con cái, ít có hiện tượng ly hôn, ngoại tình, trừ một số là trường hợp vì không có con. Ai vi phạm về đạo đức xã hội là bị cả cộng đồng lên án, cho nên ít xảy ra những hiện tượng trái với đạo đức, luân thường đạo lý.

Người dân tộc Pà Thẻn tin vào sự tồn tại của các siêu linh, vạn vật có linh hồn. Ma quỷ, thần thánh gồm hai loại: lành dữ. Loại lành gồm các thần ở trên trời, tổ tiên, thổ địa…; loại ma dữ như ma sông, ma suối, ma của người chết bất đắc kỳ tử… chúng thường phá hoại mùa màng, làm hại gia súc. Chủ yếu là họ thờ cúng tổ tiên trong nhà.

Có đặc điểm tộc người đậm nét khác phong cách các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ hay khu vực. Cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng.

Nam thường mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tọa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày…


Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. Áo có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Áo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liền với hai vạt trước. Áo này thường mặc với váy rộng nhiều nếpgấp, màu chàm. Áo dài là loại xẻ ngực, có thể gọi là áo lửng, cổ thấp liền hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chính của thân trước. Ông tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Áo này mặc với váy hở dệt thuê hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám…). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thuê hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay,… Cùng với áo và váy, phụ nữ có a thứ (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đỏ, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt.

Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú và đa dạng, thể hiện qua kho tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ: khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc… Người Pà Thẻn thích ca hát, thổi sáo và những trò chơi dân gian, có tính chất cổ truyền. Có nhiều truyện kể và truyền thuyết về cây lúa kể rằng: ”Ngày xửa ngày xưa sau nạn hồng thuỷ trên trái đất không còn sinh vật, loài người không biết lấy gì để ăn, một gia đình nghèo có ba con vật là con chó, con mèo, và con heo, chúng bàn nhau lên trời lấy trộm lúa giống của Ngọc Hoàng để cứu giúp loài người thoát khỏi cơn nguy khốn (xưa người Pà Thẻn tin trời và đất ở gần nhau), từ đó loài người mới có cây lúa ở ruộng nước, cây lúa ở trên nương trên rẫy, có cái để mà ăn cho nên người ta mới gọi là ”hạt lúa trời”.

Dưới đây mình có các bài:
– “Kéo chày” – Lễ hội độc đáo của dân tộc Pà Thẻn
– Kỳ bí “Lễ nhảy lửa” của người Pà Thẻn ở Tuyên Quang
– Trang phục dân tộc Pà Thẻn

Chữ cổ Pà Thẻn.

Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn
Dân tộc Pà Thẻn còn gọi là Pà Hưng, Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Ðỏ, Bát Tiên tộc… với dân số có khoảng gần 4.000 nghìn người, sống chủ yếu ở 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Ngôn ngữ: Thuộc ngữ hệ Mông – Dao.

Trước kia người dân tộc Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nương rẫy. Phương thức canh tác là phát đốt rồi chọc lỗ, tra hạt. Cây trồng gồm lúa, ngô và các loại rau, đậu, khoai sọ, khoai môn… Công cụ sản xuất là rìu, cuốc, dao.

Do sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, nhất là những lúc mất mùa, giáp hạt, người Pà Thẻn vẫn phải lên rừng đào củ mài, củ nâu… Vì thế hái lượm còn đóng vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế. Nghề dệt của họ có từ lâu đời, sản phẩm dệt được nhiều dân tộc ưa thích.

Ðàn ông thường đan lát, làm mộc… Người Pà Thẻn chăn nuôi các loại gia súc và gia cầm như: Trâu, bò, dê, lợn, gà… Ngoài phục vụ nhu cầu sức kéo, chăn nuôi còn nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và lễ nghi tôn giáo.

Người Pà Thẻn tin vào sự tồn tại của các siêu nhiên, vạn vật đều có linh hồn. Ma quỷ, thần thánh gồm hai loại: Lành dữ, loại lành gồm các thần ở trên trời, tổ tiên, thổ địa…; loại dữ như ma sông, ma suối, ma của người chết bất đắc kỳ tử… chúng thường phá hoại mùa màng, làm hại gia súc.

Dân tộc Pà Thẻn nổi tiếng với nghi lễ nhẩy lửa, đây là một lễ hội độc đáo mang đậm nét huyền bí, hoang sơ, được người tổ chức 1 năm/ lần, thường vào dịp tháng 10 sau mùa gặt và được coi như lễ mừng lúa mới. Mở đầu bằng việc thầy mo vào đàn lễ cúng các thần linh, rồi đến các nam thanh niên nhảy múa trên lửa đầy than hồng. Song ít người biết dân tộc Pà Thẻn còn giữ được một số văn bản chữ viết cổ.

Dân tộc Pà Thẻn có truyền thuyết về chữ viết, chữ ấy không giống chữ Hán, chữ Việt, chữ Thái…song đã bị thất truyền do những yếu tố lịch sử. Song vẫn còn dù rất ít những văn bản chữ cổ. Đó là một tập 64 trang ghi lại những bài cúng ở Thượng Minh (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) và một bản 32 trang gồm những bài cúng ở (Bắc Quang, Hà Giang). Đây là hình thức chữ viết hình vẽ, mỗi hình vẽ biểu thị một sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, trong đó có cả những hiện tượng siêu nhiên, như: Ma, thiên đường…

Chữ cổ Pà Thẻn.

Sau khi nghiên cứu, giải mã, các nhà nghiên cứu thấy rằng: Các hình vẽ được đọc theo trình tự từ phải sang. Với số lượng hình vẽ còn lại là 538 lượt hình. Trong đó có tới 290 hình biểu thị một sự vật, một hiện tượng (81 hình tập hợp nhiều sự vật; 209 hình biểu thị một sự vật), còn 248 hình chưa giải mã được.

Những sự vật được biểu thị gồm: Chỗ thờ ma và ma nhà; con người và hành động kèm theo; các loại cây khác nhau; đường rẽ; cổng ra vào; cửa; cổng trào; gốc đa; thùng nhuộm vải; bếp lửa; ruộng bậc thang; nơi cọp bắt người; nhà mẹ mặt trời; chỗ rửa chân của ma…

Năm 1908 Bonyfacy chụp lại được một con dấu của người Pà Thẻn ở vùng thượng lưu sông Lô, dùng trong những cuộc khởi nghĩa chống lại bọn thống trị địa phương và thực dân. Trên con dấu ngoài sáu chữ Hán (đây có lẽ là trường hợp ngoại lệ duy nhất), thì có hình vẽ những con vật bốn chân và hai chân, tương tự như chữ viết hình vẽ đã nêu ở trên.

Người Pà Thẻn cho biết, xưa tất cả đàn ông đều có quyền học chữ của dân tộc mình. Song do thiên tai địch họa liên miên, họ phải rời quê cha đất tổ đi tìm miền đất mới. Họ đồng lòng đốt sách, lấy tro hòa vào nước chia đều cho những người trưởng họ uống.

Từ đó người Pà Thẻn không có quyền sử dụng chữ viết, mà chỉ ghi nhớ và cũng không dùng chữ viết của dân tộc khác. Song vẫn còn dù rất ít những văn bản chữ cổ được giữ gìn như báu vật, mà những văn bản nêu trên là một trong những giả thiết.

Giả thiết này có cơ sở vì một số ít thầy mo cao niên và một số người khác vẫn đọc được và chữ viết hình vẽ ấy phù hợp với phong tục, tập quán và mọi mặt đời sống văn hóa, xã hội, tâm linh… của người Pà Thẻn.

Ngày nay do quan điểm tiến bộ, người Pà Thẻn đã đi học chữ Quốc ngữ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào cuộc sống. Song nhiều phong tục tập quán của tổ tiên vẫn được lưu giữ như một tinh hoa văn hóa.

Những văn bản chữ viết cổ quí hiếm này, tuy mới được các nhà nghiên cứu giải mã được một phần nhưng đã cho ta thấy được nét văn hóa độc đáo trong mọi mặt đời sống của người Pà Thẻn, phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, quan niệm về vũ trụ, thiên nhiên, con người, những ước mơ về một cuộc sống ấm no hạnh phúc… Những văn bản cổ này cần được các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm bảo quản, đầu tư nghiên cứu, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Pà Thẻn, một trong 54 dân tộc của đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Tết cổ truyền đậm đà bản sắc của dân tộc Pà Thẻn

Hà Giang, mảnh đất cực Bắc địa đầu của Tổ quốc, nơi hội tụ 22 dân tộc anh em cùng chung sống với sự đa dạng về văn hóa.

Đến với Hà Giang những ngày Tết Nguyên đán, không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của Cao nguyên đá Đồng Văn, được ngắm những cánh rừng hoa đào, hoa mận, hoa lê đua nhau khoe sắc mà mỗi du khách còn được tìm hiểu nét văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc Pà Thẻn, được tận mắt chứng kiến phong tục đón Tết cổ truyền đậm đà bản sắc dân tộc.

Hiện nay, dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang (đứng thứ chín về tỷ lệ dân số theo Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang) hiện có 6.055 người, sống tập trung ở các huyện Quang Bình, Bắc Quang, Xín Mần và Hoàng Su Phì.

Khác với dân tộc Mông thường sinh sống ở trên các triền núi cao, dân tộc Pà Thẻn lại thường sinh sống, cư trú ở vùng tương đối thấp so với các huyện vùng cao của Hà Giang.

Các hoạt động kinh tế của người Pả Thẻn chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, nguồn thu chính từ nông nghiệp nương rẫy. Từ những năm 1960 trở về trước, người Pà Thẻn vẫn tồn tại hình thức sống du canh du cư. Những năm gần đây, được sự tuyên truyền, vận động, quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, dân tộc Pà Thẻn bắt đầu định cư ổn định cuộc sống.

Tết Nguyên đán là một cái tết lớn và có một ý nghĩa rất quan trọng đối với dân tộc Pà Thẻn. Sau một năm lao động vất vả, thành quả của bà con dân tộc là thóc đầy bồ, ngô đầy gác bếp và gia súc đầy chuồng.

Cũng như bao dân tộc khác, dân tộc Pà Thẻn luôn háo hức đón tết và mong chờ tết đến. Tết đến vừa là dịp nghỉ ngơi của bà con sau một năm lao động vất vả, vừa là dịp để những người thân đi xa lâu ngày về đoàn tụ.

Ngày tết còn là dịp để mọi người làm trọn nghĩa vụ với dòng tộc, gia đình, tổ tiên. Chính vì vậy, vào dịp Tết Nguyên đán, dân tộc Pà Thẻn chuẩn bị kỹ lưỡng mọi lễ vật dâng tiến tổ tiên để mời các cụ thể thưởng tết cùng con cháu.

Cứ đến chiều 30 Tết, cả bản dân tộc Pà Thẻn lại tổ chức cúng thổ công làng mình để mong muốn các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho dân bản luôn mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi, mưa thuận gió hoà.

Địa điểm cúng là trước cửa nhà ông trưởng bản hoặc ở nơi cao nhất trong bản. Lễ vật thường là một miếng thịt lợn, một chai rượu, một đôi bánh dày, hai tờ giấy bản, hai bó hương.

Lễ cúng ma bản không chỉ có ý nghĩa sinh hoạt văn hóa mà con nhằm củng cố tinh thần đoàn kết của dân tộc Pà Thẻn trong xây dựng bản làng, xây dựng nông thôn mới.

Khác với các dân tộc thiểu số khác, dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang có một phong tục độc đáo là thờ bát nước lã quanh năm trên bàn thờ tổ tiên của gia đình, bên trên bát nước lã này được úp một chiếc đĩa.

Theo các già làng dân tộc Pà Thẻn: Bát nước đó tượng trưng cho biển, bát nước chứa đựng hồn tổ tiên và các thành viên trong gia đình. Bát nước này không bao giờ được cạn vì nếu để cạn thì gia đình sẽ có người ốm đau, bệnh tật hoặc gặp điều không may.

Bàn thờ tổ tiên chỉ được cúng chính thức một lần vào đêm 30 Tết Nguyên đán. Lễ vật sẽ được các gia đình dân tộc Pà Thẻn chuẩn bị gồm năm chén rượu, một con gà trống thiến luộc chín và 10 cặp bánh dày.

Vào đêm 30 Tết, tất cả bản dân tộc Pà Thẻn, gia đình nào cũng cửa đóng, then cài. Tất cả các cửa trong ngôi nhà đều được bà con bịt kín. Sau khi đóng kín mọi ô cửa, chủ nhà mới lấy bát nước trên bàn thờ xuống lau chùi, cọ rửa và thay nước mới và cứ sáu tháng một lần mới được đổ thêm nước. Lúc đó, nghi thức cúng giao thừa mới được bắt đầu.

Trong đêm giao thừa, trong nhà thường bí mật nấu một nồi cháo gà để cả gia đình cùng ăn. Ăn cháo xong, gia chủ mới làm lễ xin nước mới vào bát nước thờ. Việc làm này giữ bí mật trong nhà không lộ ra ngoài, theo tín ngưỡng của bà con nếu lộ ra thì trong năm mới gia đình làm ăn vất vả, con cái ốm đau bệnh tật.

Sáng sớm mùng một Tết, người trong nhà xách súng kíp ở lách cửa phụ, cửa hậu ra sân bắn ba phát. Dứt tiếng nổ, mọi người trong nhà mở toang các cửa để cùng vui đón năm mới.

Cũng trong buổi sáng ngày mùng một Tết, gia chủ làm lễ xin nước ở nguồn nước để mong mong ma nguồn nước cho nước sạch, cho nước đều quanh năm cho bản và cho gia đình.

Đến với Hà Giang, đến với dân tộc Pà Thẻn trong dịp Tết Nguyên đán, du khách sẽ còn được xem lễ hội ”kéo chày,” lễ hội ”nhảy lửa” thật độc đáo. Được tận mắt chứng kiến các hội thi gói bánh sừng trâu, bánh dài, bánh xường, bánh ốc; được thưởng thức những món ăn truyền thống của dân tộc Pà Thèn.

Qua lễ hội này, dân tộc Pà Thẻn luôn cầu mong các thần linh phù hộ mưa thuận gió hòa, cho dân bản được mùa, đời đời no ấm.

Đặc biệt, du khách còn được chiêm ngưỡng các bộ trang phục truyền thống đặc sắc riêng có của các chàng trai, cô gái Pà Thẻn.

Nổi bật hơn trong trang phục truyền thống của mình, các cô gái Pà Thẻn luôn mặc cho mình bộ trang phục màu đỏ tươi, một bộ nữ phục của các cô gái gồm khăn, áo, thắt lưng, váy, tạp dề.

Màu chủ đạo trên trang phục của các cô gái Pà Thẻn là màu đỏ, với một hình thức trang trí của áo, kết hợp với những đường thêu và ghép vải khéo léo đã tạo nên cho các cô gái Pà Thẻn một sự độc đáo riêng có.

Gìn giữ nguyên vẹn nét văn hóa độc đáo của dân tộc trong cuộc sống của người Pà Thẻn ở Hà Giang nói chung và phong tục đón Tết Nguyên đán truyền thống của dân tộc Pà Thẻn là kho tàng văn hóa hết sức phong phú và độc đáo, chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần đậm nét nhân văn.

Dẫu rằng cuộc sống của đồng bào dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang vẫn còn rất nhiều khó khăn, song những ngày Tết đến Xuân về, tất cả bà con nơi đây đều gác lại mọi bộn bề, lo toan, họ vui chơi thoải mái để chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất mới.

Bên bếp lửa hồng ấm cúng, gia chủ và du khách cùng uống những chén rượu ngô thơm ngây ngất chúc nhau mọi điều tốt đẹp, bình an, may mắn.

Khám phá những nét văn hóa riêng biệt của mỗi dân tộc thiểu số trong ngày Tết cổ truyền, mỗi chúng ta càng thêm yêu, thêm quý mảnh đất biên giới cực Bắc Tổ quốc vẫn lưu truyền những cái tết đơn sơ, giản dị mà ấm cúng, chan chứa yêu thương.

Kéo Chày.

“Kéo chày” – Lễ hội độc đáo của dân tộc Pà Thẻn
Đến với Hà Giang những ngày trung tuần của tháng 10 Âm lịch, du khách sẽ được thưởng thức, đắm mình cùng lễ hội “kéo chày” – một lễ hội độc đáo, nguyên sơ và huyền bí của dân tộc Pà Thẻn.

Dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang hiện có 5.975 người sống tập trung ở các huyện Quang Bình, Bắc Quang, Xín Mần và Hoàng Su Phì. Khác với dân tộc Mông thường sinh sống ở trên các triền núi cao, dân tộc Pà Thẻn lại thường sinh sống, cư trú ở vùng tương đối thấp. Những năm 90 trở về trước, các hoạt động kinh tế của người Pả Thẻn chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, nguồn thu chính từ nông nghiệp nương rẫy, họ thường du canh du cư. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, những năm gần đây, dân tộc Pà Thẻn bắt đầu định cư ổn định cuộc sống. Rừng núi bạt ngàn, đất đai màu mỡ là điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Sau những ngày thu hoạch xong vụ lúa mùa, bà con dân tộc Pà Thẻn chọn ngày tốt, thường là ngày 16/10 Âm lịch hàng năm là ngày tổ chức lễ hội “kéo chày.” Theo các già làng dân tộc Pà Thẻn ở xã Tân Bắc (huyện Quang Bình), người thầy cầm chịch ở lễ hội “kéo chày” rất quan trọng. Người thầy phải là người giỏi về võ công, khỏe và phải luyện tập rất công phu, đồng thời phải biết niệm thần chú để cho chiếc chày được nâng lên khỏi mặt đất mặc dù rất nhiều thanh niên kéo chày xuống bằng mọi cách cũng không thể kéo được.

Trước khi vào buổi lễ “kéo chày” người thầy dùng một chiếc chày được làm bằng một đoạn gỗ hoặc vầu, có đường kính khoảng 10 cm, dài từ 2,5-3m. Sau đó, thầy cầm tay vào chiếc chày, xoay đi xoay lại mấy vòng và niệm thần chú.

Cùng đó, hai thanh niên người Pà Thẻn trai tráng, khỏe mạnh ôm chặt chày ở tư thế đối ngược nhau. Vừa xoay chày, người thầy vừa đọc thần chú, sau đó như có một phép thuật mà không ai có thể diễn tả nổi, chiếc chày khắc tự xoay và nâng lên khỏi mặt đất, mặc dù hai thanh niên ra sức kéo xuống cũng không thể kéo được. Lúc này hàng chục thanh niên trai tráng trong bản cùng nhau kéo chày xuống nhưng cũng không kéo nổi, chỉ khi nào có người bịt tay vào đầu trên hoặc dưới của chiếc chày thì chiếc chày mới chạm đất, khi đó lễ kéo chày kết thúc.

Ở lễ hội “kéo chày”, những chàng trai Pà Thẻn nào tham gia luôn nhận được sự tin yêu, thán phục và ngưỡng mộ của du khách nói chung và các cô gái Pà Thẻn nói riêng. Với dân tộc Pà Thẻn, lễ hội “kéo chày” là một tục lệ mang tính chất cộng đồng, là dịp để mọi người cùng nhau vui vẻ, thư giãn sau một ngày mùa bội thu. Qua lễ hội họ cầu mong các thần linh phù hộ mưa thuận gió hòa, cho dân bản được mùa, đời đời no ấm.Trong lễ hội “kéo chày,” các chàng trai Pà Thẻn ai cũng diện áo mới, mặc quần chân què, trang trí thêm hai chiếc khăn vắt chéo qua ngực và dùng thắt lưng màu trắng. Các cô gái Pà Thẻn lại nổi bật hơn trong bộ trang phục màu đỏ tươi, một bộ nữ phục của các cô gái gồm khăn, áo, thắt lưng, váy, tạp dề. Màu chủ đạo trên trang phục của các cô gái Pà Thẻn là màu đỏ, nhưng có phối màu với các màu sáng khác như màu trắng bằng cách ghép vải hoặc dệt thành đường kẻ sọc.

Nếu chú ý một chút, trong trang phục của các cô gái Pà Thẻn, du khách sẽ thấy cách cắt may và trang trí áo không giống với bất cứ một kiểu áo nào của dân tộc khác. Với một hình thức trang trí của áo, kết hợp với những đường thêu và ghép vải khéo léo đã tạo nên cho các cô gái Pà Thẻn một sự độc đáo riêng có. Đến với lễ hội, các cô gái Pà Thẻn không chỉ xúng xính đẹp hơn trong bộ quần áo mới mà họ còn đẹp hơn khi đeo các trang sức bằng bạc gồm vòng cổ, vòng tay và hoa tai.

Mỗi du khách đến với các làng bản của người Pà Thẻn, Hà Giang trong những ngày này không chỉ được chứng kiến lễ hội “kéo chày” mà còn được xem lễ hội nhảy lửa, xem các hội thi gói bánh dài, bánh xường, bánh ốc; được thưởng thức những món ăn truyền thống của dân tộc Pà Thèn.

Gìn giữ nguyên vẹn nét văn hóa độc đáo của dân tộc trong cuộc sống của người Pà Thẻn ở Hà Giang nói chung và lễ hội “kéo chày” nói riêng là một điều rất đáng trân trọng. Với tín ngưỡng tâm linh, lễ hội “kéo chày” truyền thống của dân tộc Pà Thẻn là kho tàng văn hóa hết sức phong phú và độc đáo, chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần đậm nét nhân văn. Với kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian và tri thức địa phương của dân tộc Pà Thẻn ở Hà Giang đã góp phần bảo tồn nền văn hóa Pà Thẻn trong nền văn hóa các dân tộc Việt Nam phong phú, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

Lễ hội Nhảy lửa.

Kỳ bí “Lễ nhảy lửa” của người Pà Thẻn ở Tuyên Quang
Mỗi dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đều có những bản sắc văn hóa riêng, đặc biệt dân tộc Pà Thẻn có lễ hội nhảy lửa mang ý nghĩa thiêng liêng và huyền bí mà không dân tộc nào có.

Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn thường diễn ra vào những lúc nông nhàn, được bắt đầu từ tháng 10 âm lịch cho tới tháng giêng năm sau. Trong đời sống tinh thần, người Pà Thẻn luôn quan niệm xung quanh họ luôn có các vị thần che chở, giúp đỡ họ vượt qua nguy hiểm để tồn tại và mưu sinh. Đối với họ, thần lửa là vị thần tối cao, linh thiêng nhất, lửa sẽ giúp mang lại cho người dân tộc Pà Thẻn sự ấm áp, xua đuổi tà ma, đẩy lùi bệnh tật và mang sức mạnh phi thường cho người dân.

Lễ vật để cúng trong lễ nhảy lửa gồm: một bát hương, một con gà luộc, mười chén rượu trắng và những cây củi trên rừng để đốt thành những đống than đỏ hồng.

Trong lúc thầy cúng làm lễ, các thanh niên chuẩn bị nhảy lửa người lắc rất mạnh.

Phần lễ cúng kéo dài khoảng một giờ đồng hồ, đầu tiên thầy cúng xin phép thổ công, thổ địa cho được phép nhảy lửa; cùng lúc đó, đống củi to được đốt lên khi đám lửa đã cháy thành than rực hồng. Khoảng 10 thanh niên khỏe mạnh sẽ tập trung xung quanh nghe thầy khấn và gõ vào Pạndơ (chiếc đàn cúng trong lễ nhảy lửa) mỗi lúc một nhanh cho tới khi nào thầy cúng và các thành viên trong đội thấy người rung lên (họ cho rằng thần thánh đã nhập vào người) thì lúc đó mới nhảy vào ngọn lửa đang cháy và đống than hồng với đôi chân trần mà không bị bỏng, hay sợ hãi gì. Lúc đó trong người họ như có sức mạnh phi thường.

Mỗi người thường nhảy lửa trong vòng 3-4 phút, sau đó tiếp tục làm lễ “nhập đồng”. Một người có thể tham gia nhảy nhiều lần, qua đó thể hiện sức mạnh, sự khéo léo và nhanh nhẹn của mình. Nhảy lửa chỉ dành cho nam giới và những chàng trai này luôn nhận được sự thán phục, ngưỡng mộ của mọi người.

Các chàng trai Pà Thẻn như có một sức mạnh phi thường, họ không hè sợ hãi trước ngọn lửa.

Trong khi thanh niên nhảy lửa, thầy mo vẫn tiếp tục làm lễ với tiếng nhạc mo vẫn tiếp tục làm lễ với tiếng nhạc đều đều huyền bí lẫn với lời khấn lầm rầm. Đồng bào Pà Thẻn cho rằng, thời gian nhảy trên lửa của họ tùy theo sức mạnh được thần linh ban cho. Khi hết sức mạnh, họ tự bị đẩy ra khỏi đống lửa, trở về ngồi lễ và lại lắc lư trong tiếng nhạc, chờ thần linh ban sức mạnh cho đợt nhảy mới.

Người Pà Thẻn tin rằng, một khi nhảy vào lửa, phụ nữ sẽ nhảy nhót suốt bảy ngày đêm không dừng lại được.

Người Pà Thẻn tin rằng, một khi nhảy vào lửa, phụ nữ sẽ nhảy nhót suốt bảy ngày đêm không dừng lại được. Lễ hội nhảy lửa đạt đến độ vui nhất khi mà tất cả những người đứng xem đều bị cuốn theo, tự nhiên cảm thấy mình có sức mạnh và cứ thế, nhảy vào đống lửa mà không hề cảm thấy cái nóng.

Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn được coi là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tâm linh, minh chứng sức mạnh phi thường của con người dám đương đầu với nguy hiểm, xua đuổi tà ma, bệnh tật, mừng cho một vụ thu hoạch hoa màu vừa kết thúc và cầu thần linh phù hộ cho an khang, thịnh vượng.

Trang phục truyền thống dân tộc Pà Thẻn.

Trang phục dân tộc Pà Thẻn
(TQ-DTV)
Từ xưa tới nay, nam giới Pà Thẻn thường mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tọa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày. Tuy nhiên, nét độc đáo trong trang phục Pà Thẻn tập trung chủ yếu ở trang phục nữ, biểu hiện trong lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách rất riêng.

Trang phục của phụ nữ Pà Thẻn lấy sắc đỏ làm gam màu chủ đạo và hoa văn in đậm trên từng đường vải. Theo truyền thống của dân tộc Pà Thẻn ở Bắc Quang (Hà Giang), một thiếu nữ Pà Thẻn trưởng thành, chuẩn bị đi lấy chồng thì phải tự tay mình thêu, dệt được bộ khăn, váy, áo để về nhà chồng cùng các vật dụng khác như chăn, gối. Vì vậy, trang phục của phụ nữ Pà Thẻn không chỉ là chuyện ăn mặc mà còn đánh dấu sự trưởng thành của người con gái mới lớn, là truyền thống trong mỗi gia đình.

Thí sinh Trang Phục Dân Tộc, Nguyễn Thị Phương My, với bộ trang phục dân tộc Pà Thẻn.

Sự độc đáo trong trang phục của phụ nữ Pà Thẻn được thể hiện khá tỉ mỉ từ khăn đội đầu cho đến yếm, áo, váy, quần và xà cạp, tất cả đều tự tay họ làm nên.
Công phu và tốn thời gian nhất là may áo. Áo của phụ nữ Pà Thẻn xưa kia được dệt thủ công bằng nhiều loại chỉ. Áo gồm hai thân, được may lượn bó sát người gợi nét mềm mại của thiếu nữ vùng cao. Áo không có cổ, nẹp ngực viền vải xanh hoặc trắng. Thân áo còn được trang trí bằng những mảnh vải màu đen, xanh, trắng làm thành những đường kẻ hay các hình khối trông rất khỏe khoắn. Tay áo bên trong bằng vải láng đen, bên ngoài đắp vải đỏ phía gần nách và cổ tay. Phía bên trong, phụ nữ Pà Thẻn thường mặc thêm áo hoa màu hồng nhạt để lộ cổ áo ra phía ngoài rất cân đối.

Trang phục nữ - tộc Pà Thẻn.
Trang phục truyền thống nữ – tộc Pà Thẻn.
Cũng giống như các dân tộc khác, phụ nữ Pà Thẻn dùng Yếm trước ngực để tao nên sự kín đáo và duyên dáng. Yếm là một mảnh vải hình vuông (khoảng 33-34 cm2), thân yếm được đắp các mảnh vải hình vuông có thêu hoa văn màu đỏ.

Váy là loại váy ống, cạp xếp nhiều ly. Toàn bộ thân váy được trang trí hoa văn màu đỏ. Dây lưng bằng vải trắng, thắt buông phía trước bụng. Phía dưới váy buông xuống tận đầu gói những vạt vải trắng hoặc đỏ, tạo nên nhiều lớp vải của chân váy. Phía dưới ống chân là xà cạp được may bằng hai lớp vải. Xà cạp là bộ phận dùng để quấn chân với mục đích tạo nên thân hình người phụ nữ gọn gàng và kín đáo.

Trang sức của phụ nữ tộc Pà Thẻn.
Trang sức truyền thống của phụ nữ tộc Pà Thẻn.
Khăn đội đầu được vấn thành nhiều vòng tạo thành một vành rộng như cái nón. Lớp vấn ngoài làm bằng vải tự dệt màu đỏ, trang trí nhiều họa tiết hoa văn sinh động. Hai đầu khăn có đính hai chùm tua rua đỏ pha sợi vàng trông rất duyên dáng. Khi thiết kế khăn, người Pà Thẻn dùng vải gấp theo chiều bé dần tới đỉnh đầu tạo thành một vòng tròn. Phía ngoài cùng được bọc một vòng vải đỏ xen lẫn màu đen có thêu hình hoa văn hoặc kim tuyến.

Cùng với trang phục, trang sức của phụ nữ Pà Thẻn thường là vòng cổ, vòng tai, vòng tay, yếm bạc… tuy nhiên, vòng bạc vẫn được họ sử dụng nhiều hơn cả. Phía trước ngực đồng bào Pà Thẻn thường gắn một hình vuông những hàng đồng xu tạo nên âm thanh leng keng mỗi khi đi lại.

Ngày nay, người Pà Thẻn vẫn mặc trang phục truyền thống trong những dịp lễ hội và họ coi đây như một nét văn hóa cần được bảo tồn và gìn giữ.

Đàm Minh Phiếu (sưu tầm)