Kê Sửu. Đặc điểm các giá trị văn hoá vật thể của dân tộc Tà Ôi
1. Đặc điểm đời sống của dân tộc Tà Ôi
Văn hóa chính là diện mạo tinh thần của một dân tộc. Giá trị văn hóa Ta ôi làm nên bản sắc dân tộc Ta ôi. Xuất phát từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc khá nhiều vào môi trường tự nhiên, trình độ khoa học kĩ thuật thấp, văn hóa cổ truyền Ta ôi mang màu sắc huyền thoại, tín ngưỡng trong nhận thức, phản ánh và hoạt động.
Mặt khác, người Ta ôi nhận thức những sự vật hiện tượng theo tính “tổng thể nguyên hợp”, chứ không phân tích chúng thành những yếu tố, những thành phần như kiểu suy nghĩ duy lý ngày nay. Cho nên việc phân biệt giữa văn hóa (giá trị văn hóa) vật thể và phi vật thể trong xác định loại hình văn hóa chỉ có tính tương đối. Dân tộc Ta ôi ở Việt Nam, chủ yếu cư ngụ trên vùng cao nguyên, phía Tây của Thừa Thiên Huế, đó là huyện A Lưới. Huyện có tổng số diện tích đất đai: 122.901,80 ha, trong đó đất lâm nghiệp chiếm đến 72.762,90 ha. Về phía Tây, A Lưới thông thương với nước bạn Lào và tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ với nhiều đỉnh núi cao trên 1000m như Atúc, Alau… Sông, suối vùng đất này chỉ là các sông, suối nhỏ và mang những cái tên gợi nhớ nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số miền Trung, chẳng hạn như các sông Asáp, Kroong, Pling, Tle, Anôr… Huyện A Lưới, hiện tại có hơn 4,3 vạn người, trong đó có gần 3 vạnngười Ta ôi.
2. Đặc điểm giá các trị văn hóa vật thể
Giá trị văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ. Quy chiếu vào văn hóa dân tộc Ta ôi, chúng tôi nhận thấy những yếu tố (sản phẩm) biểu hiện giá trị văn hóa vật thể bao gồm: hình thức cư trú, loại hình kiến trúc, phương tiện lao động sản xuất, trang phục, trang sức, ẩm thực, hôn nhân - gia đình và dòng họ...
2.1. Hình thức cư trú
Người Ta ôi có truyền thống cư trú thành từng veel (làng, bản) trên một khu vực tương đối bằng phẳng, ở gần nguồn nước tự nhiên. Hình dáng và quy mô của làng tùy thuộc vào địa thế đất đai, số lượng thành viên trong các dòng họ, gia đình và các tập tục truyền thống về sinh hoạt, ăn, ở. Hình dạng làng thường được bố trí theo hình tròn. Ở chính giữa là ngôi nhà rông cùng với một cái sân lớn dùng để sinh hoạt lễ hội và văn hóa văn nghệ cộng đồng, bao vòng quanh là các nóc nhà dài của các dòng họ, chi họ. Có nơi, làng của đồng bào Ta ôi chỉ có vài nóc nhà, cũng có nơi đến gần 30 nóc nhà. Một nhà có từ 1 đến dưới 15 hộ, các nhà cách nhau từ 10-20 m, giữa các ngôi nhà không có hàng rào ngăn cách. Cổng làng được chọn về hướng thuận lợi nhất cho việc đi lại, không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt theo những quy định nào. Cổng làng được trang trí khá độc đáo: hai bên cổng được đẽo 2 tượng người (một đàn ông và một đàn bà) canh giữ để mang đến sự bình yên cho dân làng, khung cổng cao 2.5-3.0 m, mặt trước cổng được khắc các linh vật của các dòng tộc có mặt trong một làng. Toàn làng được vây bọc bởi hai lớp hàng rào (lớp ngoài gọi là karrong, lớp trong gọi là karring) làm bằng gỗ tốt trông rất vững chắc, kiên cố. Cũng như làng của dân tộc Kinh, veel của người Ta ôi chứa đựng nhiều mối quan hệ xã hội như gia đình - gia tộc, láng giềng, chòm xóm... Mỗi veel thường có một cái tên riêng hoặc mang tên nguồn nước, khe suối, đồi núi - nơi dân veel cư trú, hoặc khởi nguyên từ những trang huyền thoại, huyền tích của bộ tộc từ thuở xa xưa.
Việc xây dựng làng bản được coi là công việc hết sức quan trọng và liên quan đến mọi thành viên trong cộng đồng.
2.2 Kiến trúc
Loại hình kiến trúc đặc trưng của người Ta ôi cũng như nhiều dân tộc khác sống ở dãy núi Trường Sơn Việt Nam là ngôi déng Roong (nhà rông) và déng achoar (nhà dài). Nếu ở người Việt có đình làng thì ở Ta ôi có nhà rông. Với người Ta ôi nhà rông là biểu tượng của cộng đồng, là linh hồn của làng bản, tộc người. Ở đó sẽ diễn ra tất cả những công việc liên quan đến cộng đồng dưới sự điều khiển của sasai veel (chủ làng) như hội họp, cúng bái, tiếp khách...; đồng thời đây cũng là nơi vui chơi diễn xướng văn nghệ dân gian, nơi nam nữ tìm hiểu yêu đương và cũng là nơi tập trung trai làng để chiến đấu với các bộ tộc xâm lăng hay giặc ngoại xâm hoặc với thú dữ, thiên tai... Ở các cột và mặt ngoài cũng như mặt trong thân nhà rông của người Ta ôi được đẽo khắc rất công phu và được sắp xếp theo bố cục nhất định. Ở các cột thường được khắc hình các loại hổ báo, rắn rết, thuồng luồng; 4 góc mặt sàn nhà được tạc hình người, thường là tổ tiên của họ hoặc người có uy tín, uy lực của làng. Ở các mặt ngoài, phía hai đầu hồi, nơi có hai cầu thang lên xuống, ta thường khắc hình ảnh làm nương rẫy, săn bắt hái lượm và sinh hoạt thường nhật. Ở đó, chúng sẽ bắt gặp những hình ảnh người phụ nữ giã gạo, cõng con trỉa lúa làm nương và người đàn ông gùi cung nỏ, vác giáo đi săn... Cũng mặt ngoài nhưng ở mặt sau nhà rông, không được trang trí gì. Vì theo người Ta ôi vạn vật sinh tồn đều có mặt khuất của nó, đặc biệt nơi ngự trị của tổ tiên, của thần linh lại càng không thể nhìn thấy, không được phép nhìn thấy. Còn ở mặt trước, thường được khắc hình piyea (con rồng) và kalang Niêt Ka (chim Thiên Nga) - đó là những biểu tượng của sức mạnh phi thường và vẻ đẹp huyền bí. Bốn mặt thân nhà rông không chắn bằng những tấm vách kín, tù túng mà chúng được đẽo, khoét thành những đường lằn có chủ ý theo hình vòm hay hình vòng cung. Nhìn tổng thể, ta sẽ nhận thấy đó là chu kỳ chuyển động của mặt trăng (khuyết-tròn-khuyết-khuất). Phải chăng đó là chiếc đồng hồ của người Ta ôi! Hai nóc nhà rông thường được gắn hình sừng trâu hoặc đầu rồng hoặc gà trống. Không như các nhà rông ở các dân tộc ở Tây Nguyên, thiên về chiều cao, nhà rông của người Ta ôi lại thiên về chiều rộng và dài nhằm biểu hiện ý tưởng mở rộng và thâu tóm mọi mối liên hệ của mọi sự vật hiện tượng đang cùng nhau sinh tồn. Nguyên vật liệu xây dựng ngoài những cột trụ và sạp sàn, phên vách vững chắc từ gỗ quý (sến, lim, trường, kiền...) còn có tranh, cọ, lá mây rừng (cho mái lợp), tre, nứa, mây dùng làm phần mềm chung quanh. Nhà dài của người Ta ôi cũng hết sức đặc trưng. Nếu nhà rông là linh hồn của cộng đồng, làng bản thì nhà dài là nơi kết nối và hội tụ nghĩa gia tộc. Tính chất cố kết dòng tộc, họ tộc biểu hiện rất rõ qua nhà dài của họ. Mặc dù gia tộc của người Ta ôi sống theo ba dạng khác nhau (ở chung - làm chung - ăn chung hay ở chung - làm chung - ăn riêng hay ở chung - làm riêng - ăn riêng) nhưng khi đã cư trú dưới cùng một mái nhà họ luôn giữ mối quan hệ tốt đẹp, bền chặt, ứng xử với nhau bằng tình yêu thương sâu sắc và sống có nề nếp, kỷ cương. Mọi sự bất hoà giữa người này với người khác, giữa bếp này với bếp khác đều được giải quyết ổn thoả, êm thấm. Phong tục, lễ nghi của bộ tộc, của gia tộc được giữ gìn, phát huy. Lương thực, thực phẩm (gạo, ngô, rau, quả, thịt, cá...) là do công sức của cả gia tộc làm ra. Nó được phân chia rất công bằng cho từng bếp. Mỗibếp tự nấu nướng, vợ chồng, con cái ăn riêng với nhau, trừ lúc cả gia tộc có việc chung như lễ tết, cưới hỏi, ma chay... Cha mẹ già thì sống với con trưởng, song các bếp và mọi thành viên của gia tộc đều có trách nhiệm chăm nom, săn sóc, nuôi dưỡng người đã sinh thành ra mình.
Người Ta ôi rất hiếu khách. Cách tiếp khách của họ rất độc đáo. Nếu khách đến nhà mà vào nhà rông ở lại thì cả làng lo cơm nước, rượu thuốc. Nếu vào nhà chi họ thì tất cả các hộ trong chi họ lo tiếp đãi, dẫu rằng chỉ là khách của một hộ nào đó.
Nhà dài gồm nhiều gian nối với nhau và kéo dài tới mấy chục mét, đặc biệt có nhà dài trên dưới một trăm mét (độ dài của nhà tuỳ vào quy mô và số bếp, số người trong gia tộc). Sàn, cột, xà nhà làm bằng các loại gỗ quý như sến, dổi... Chúng được đẽo, đục công phu và liên kết với nhau theo kĩ thuật riêng của người thợ mộc Ta ôi. Để chống ẩm, chống mối mọt người ta kê cột lên các tảng đá dày to và vuông vức. Ngôi nhà cũng nhờ vậy mà thêm vững chãi, chắc chắn, bề thế. Vách nhà cũng được thưng bằng các tấm gỗ mỏng đã bào nhẵn. Trên vách các ông thợ thường chạm, khắc nhiều hình thù như hoa lá, chim muông... để trang trí. Đáng lưu ý là lá lợp nhà. Thường người Ta ôi dùng lá mây rừng để lợp nhà dài. Loại lá mây có độ bền hơn tranh, rạ và lại mang tính thẩm mỹ cao. Người ta vào rừng chọn các phiến lá không già quá mà cũng không non quá, cắt lấy và đem về phơi héo, rồi ép cho phẳng theo từng lớp. Khi lợp các lớp lá mây được nối kết với nhau bằng các sợi mây nhỏ chuốt nhẵn. Từng lớp lá được lợp chồng lên nhau theo một thứ tự nhất định, rất kĩ thuật đã tạo nên các mái nhà vừa phẳng phiu, vừa đẹp mắt. Đầu hồi nhà người ta thường gắn khúc gỗ cong như chiếc sừng trâu chĩa thẳng lên trời Vật này được xem như vật thiêng bảo trợ và mang đến cho gia đình, gia tộc cuộc sống bình an, no ấm...
Nhà dài được phân thành nhiều gian khác nhau, có gian dùng làm phòng khách hoặc hội họp, vui chơi; có gian được dùng làm bếp, làm phòng ngủ, gian sinh hoạt của từng gia đình nhỏ (bếp). Phòng khách nằm ở gian giữa và rộng hơn các gian khác nhiều. Các đồ thờ cúng cồng, chiêng... được đặt ở gian này. Ngoài ra, nơi đây còn được trưng bày các loại cung tên, sừng thú v.v... Vào các ngày vui của gia tộc, mọi người cùng quây quần nơi gian phòng khách để cùng trò chuyện, hò hát rất say sưa, ấm cúng... Các con lớn của các bếp cũng thường tới ngủ ở gian khách. Nối kết giữa các gian nhà là một dải hành lang dài bên ngoài và ba cầu thang được bố trí ở ba nơi: hai ở đầu hồi và một dẫn vào gian chính. Do vậy, mà việc đi lại, vào ra rất thông suốt và tiện lợi. Bên cạnh loại nhà dài có hành lang bên ngoài, còn có loại nhà lối đi lại được bố trí giữa lòng nhà. Nhà kiểu này, giữa các gian (các bếp) không có vách ngăn. Các đôi vợ chồng trẻ được bố trí ở trong các phòng lồi có phên tre che kín. Đây cũng là phòng cất giữ của cải của mỗi bếp riêng biệt.
Người Ta ôi quan niệm sự tồn tại của cá nhân trong cộng đồng và của cả cộng đồng là nhờ vào tình nghĩa nối kết và hội tụ để cuộc sống của họ được sinh sôi, nảy nở trên trần thế. Và cũng theo người Ta ôi, người chết có thế giới riêng của họ nên người sống phải “tạo cửa” cho người chết bước vào thế giới của mình bằng nhiều phương thức, trong đó có phương thức “kiến trúc nhà mồ”. Kiến trúc nhà mồ xưa kia của người Ta ôi cũng là một trong những công trình nghệ thuật đặc sắc. Ở trên một triền dốc hoặc một gò đồi, gần khu rừng thiêng và cách khá xa làng bản cư ngụ, những ngôi nhà mồ của người Ta ôi nhấp nhô hiển hiện. Khi đến gần, điểm đầu tiên đập vào mắt người xem là hai tượng người, và cũng chính là 2/4 cột trụ làm nhà mồ. Chúng tượng trưng cho sự bảo vệ, canh gác thế giới bên kia. Hai đầu mái được gắn hai khúc gỗ đẽo uốn cong và hơi xòe tựa như tay chèo của một con thuyền. Ở các gốc đầu hồi, người ta gắn các khúc gỗ đẽo hình sừng trâu - linh vật của đồng bào. Khác với nhà mồ của dân tộc Cơ Tu, Bru Vân Kiều, Raglai, Ê Đê, 4 cột trụ không chạm đất, chúng được đính vào một khung đế cũng được làm bằng gỗ quý, mà đồng bào gọi là kaning, trông thật vững chắc. Mái lợp (gọi là apok) được kết bằng nhiều lớp lồ ô rọc đôi và đặt sấp - ngửa để che mưa nắng khá bền (từ 5-10 năm). Trên bề mặt của khung đế người ta chạm trổ hình các con vật quen thuộc (chó, lợn, gà...) và các loại cây màu làm nương rẫy cũng như phục vụ sinh hoạt khác. Ở phía trong nhà mồ được đặt cái đựng hài cốt của các thành viên trong cùng một dòng tộc theo thứ bậc, cấp sắc, tuổi tác tính từ vị trí trung tâm. Cái để hài cốt của người chết có ba loại: cheéh (chum trắng) thường cho những người đàn ông quyền lực, giàu có của làng; tirang paloq (quan tài hình ngà voi) thường dành cho người đàn ông có công đóng góp, xây dựng làng bản và người phụ nữ quyền quý được dân làng tin yêu; tirang achee (quan tài bằng gỗ) dành cho các đối tượng còn lại. Điều đặc biệt, nhà mồ chỉ được làm đồng hành với lễ dời mả sau khi chết được 5-10 năm. Thường một dòng tộc có một khu nhà mồ, mỗi khu nhà mồ có từ 1-3 nhà mồ được xây dựng theo trình tự thời gian.
Nhìn toàn cảnh nhà mồ người Ta ôi, chúng ta thấy nó như hình ảnh một con thuyền đang vươn mình vượt sóng dữ để tìm đến vùng trời bình lặng, an nhiên. Đó cũng chính là tri thức bản địa khi họ bước vào xây dựng không gian nhà mồ. Qua tìm hiểu kết cấu nhà rông, nhà dài và cả nhà mồ, loại hình kiến trúc đặc trưng của dân tộc Ta ôi đã toát lên: vừa thực tại vừa huyền bí.
2.3. Phương tiện lao động sản xuất
Về phương tiện lao động sản xuất của người Ta ôi cần chú ý hai điểm. Thứ nhất, dụng cụ lao động sản xuất của họ đã phản ảnh hình thức canh tác nương rẫy và địa hình sinh sống. Dụng cụ phổ biến, bao gồm nhóm lưỡi sắn tra bằng cán tre, gỗ như achop (rìu), akoóq (rựa), avinh (cuốc nhỏ), talleau (giáo), kos (mác)...; nguyên gỗ hoặc tre hoặc mây như kưl (bẫy sập), tiho (bẫy đâm), panneenh (cung nỏ), túm (đờm dọc), aroi (đờm gai), apét (gậy thọc lỗ), atéh (gùi), atơơch (gùi nhỏ)...; làm bằng anghén (cây dây đằng đằng) trong rừng như mbeen (lưới chài cá), anoók (cái vợt các) anuaq (cái xúc cá)... Những dụng cụ có lưỡi sắt thường dùng vào việc phát rẫy làm nương, làm cỏ, trồng màu, đốn, đẽo, chặt gỗ, tre... làm nhà hoặc chiến đấu. Những dụng cụ được làm từ dây đằng đằng chủ yếu để chài lưới, bắt cá tôm. Những dụng cụ còn lại, dùng vào việc trỉa, trồng, tuốt, gùi lúa ngô hoặc săn bắt thú rừng phá rẫy nương. Nhìn chung, bộ dụng cụ này có nhiều chức năng tương xứng với hình thức canh tác nương rẫy truyền thống của người Ta ôi.
Thứ hai, người Ta ôi có hệ thống đơn vị thời gian đặc thù dùng để tính ngày tháng và nông lịch. Với người Ta ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng(1). Từng bước chuyển của trăng sẽ làm biến đổi các sự vật hiện tượng khác và chuyển động theo hướng: khuyết-tròn-khuyết-khuất. Kết thúc một chu kì như thế tương ứng với một tháng trong năm. Lịch tháng của người Ta ôi chỉ có tháng đủ ngày và tháng thiếu ngày, không có tháng nhuận như của người Việt (tức chỉ có 29 hoặc 30 ngày/tháng). Chính dựa vào hình dạng khác nhau của trăng như vậy mà người Ta ôi hoạch định thời điểm trồng trỉa các loại cây trồng cho phù hợp đưa lại năng suất cao. Theo người Ta ôi, khoảng thời gian trồng trỉa lúa và ngô cũng như các loại cây lương thực, hoa màu khác, tốt nhất là vào các ngày 22 đến 25. Trỉa đúng vào thời gian đó, lúa ngô sẽ cho chắc, đầy hạt, ngô to bẹ, lúa dài dé. Ngày 29 cũng là ngày trồng trỉa nhưng không tốt bằng. Riêng các ngày từ 14 đến 16, nếu được trồng chuối sẽ cho hiệu quả cao, chuối sẽ được dài buồng to quả. Ngày 01 và 02 chỉ phhù hợp với một loại giống cây lương thực là sắn. Ngô cũng có thể trồng vào những ngày này nhưng không được tốt. Trong việc chọn ngày trồng trỉa, bà con Ta ôi đặc biệt chú ý và tránh gieo trồng vào các ngày 20 và 21. Vì đó là những ngày sinh sôi của các loại sâu bọ phá hoại mùa màng, của mọi thú rừng làm hại đến cây trồng vật nuôi.
2.4. Trang phục, trang sức
Trang phục, trang sức của người Ta ôi cũng hết sức độc đáo. Trang phục thổ cẩm là sản phẩm của nghề dệt zèng truyền thống của đồng bào. Sản phẩm ấy được làm nên trước hết bởi bàn tay và khối óc của người phụ nữ Ta ôi. Họ đã thổi vào vô số nét hoa văn trên tấm zèng những sự sống và sức sống của nhân sinh quan và vũ trụ quan; tiếp đến là hệ thống công cụ và nguyên vật liệu đa năng. Hệ thống này vừa là phương tiện vừa là phương thức thực hiện của người dệt; cuối cùng là không gian, thời gian tạo sản phẩm. Để trồng bông phải chọn đất có độ dốc trung bình, mềm, nhiều mun, cách nhà ở không xa. Khi dệt cần không gian thoáng đãng và có ánh sáng.
Trang phục giữa nam và nữ có sự phân biệt rạch ròi: nam giới quấn ta-óh (khố) và choàng pakoóm (khăn choàng)(2) từ vai xuống bụng thành hai đường xéo làm thành áo mặc. Nữ giới vấn nnai (váy) và mặc ayóh (áo cổ lòn). Nam và nữ đều có các loại khăn mũ đội đầu tùy thuộc vào chức sắc, lứa tuổi và thành phần xã hội (giàu - nghèo). Trang phục của nam giới ít được chèn cườm (chỉ chèn cườm ở mặt trước và sau hai tà khố hoặc tà khăn choàng). Ngược lại nữ giới muốn tô thêm vẻ đẹp của mình bằng những đường hoa văn, họa tiết bằng cườm trên trang phục. Và, người Ta ôi thường xếp vị thứ trị giá thổ cẩm phụ nữ như sau: rtoong - trabóq - ngăq.
Một điểm đặc biệt về nghề truyền thống của người Ta ôi là sản phẩm làm ra không chỉ để phục vụ nhu cầu ăn mặc của người bản địa mà còn cung ứng cho hai tộc người khác là Pa Cô và Cơ Tu - vốn không thể tự tạo cho mình - bằng phương thức trao đổi hàng hoá, chẳng hạn đổi thổ cẩm để lấy trâu, bò, chiêng, thanh la, bạc, hạt sa phia... Song để làm ra một bộ trang phục thổ cẩm không đơn giản chút nào mà rất công phu, tốn nhiều thời gian và sức lực, trải qua nhiều quy trình, nhiều công đoạn, sử dụng một hệ thống dụng cụ đa năng nhưng rất chi tiết. Hơn nữa, đòi hỏi phải có tính kiên trì, nhẫn nại và năng khiếu của người thực hiện. Mỗi sản phẩm là một chỉnh thể được tạo thành bởi sự pha hợp của nhiều yếu tố, trong đó có các màu sắc của sợi, của cườm. Chúng hiển hiện ngay trước mặt người thưởng thức bằng vẻ uyển chuyển mà sắc sảo, đằm thắm mà rực rỡ,... Các dải hoa văn cườm vốn được trang trí theo từng bậc. Mỗi bậc là sự hội tụ của không biết bao nhiêu nét hoa văn không chỉ để làm đẹp mà còn để chuyển tải đặc trưng văn hoá của một tộc người. Chính những vẻ lung linh huyền ảo của hình ảnh, hình tượng hoa văn đó đã đẩy sản phẩm thổ cẩm này lên một bậc giá trị và làm cho nó tồn tại mãi với thời gian.
Kèm với trang phục là trang sức. Trang sức của người Ta ôi bên cạnh làm đẹp còn để đánh dấu thời điểm trưởng thành, biến đổi của một đời người. 13 tuổi người Ta ôi xem như tuổi trưởng thành, cả nam và nữ được xâu tai và cho đeo tằm. So với nam, nữ còn có những quy định rườm rà hơn: con gái - có chồng - đứng tuổi (từ 30 tuổi trở lên) phải đeo những loại tằm tương ứng: titoi - pirăq - tahâl. Chúng đều được làm bằng bạc nhưng trọng lượng tăng dần. Tương tự, đeo cườm cũng được quy định rạch ròi: người đàn ông có chức tước trong dòng tộc, làng bản và những già làng mới được đeo và chỉ đeo một sợi dài quá ngực. Ngược lại, nữ từ khi còn bé đã được đeo và số lượng được tăng dần từ 1-10 chuỗi cườm dài ngắn khác nhau. Chất liệu cườm thường là hạt saphia, chì và từ vỏ ốc xoăn được chế biến thành hạt cườm đeo cổ. Ngoài ra, người Ta ôi còn xăm một số biểu tượng tín ngưỡng trên tay, mặt… Nhìn chung, trang sức của người Ta ôi không đến nỗi cầu kì, nặng nhọc như của một số DTTS khác ở phía Bắc và phía Nam.
2.5. Lối ẩm thực
Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy cùng cơ cấu bữa ăn chỉ 2 bữa/ngày nên lúa nếp là nguồn lương thực chủ yếu của người Ta ôi. Loại này phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu gió Lào ở vùng Thừa Thiên Huế. Các loại nếp họ thường dùng là Atut (nếp đen), Kachăh (nếp than), Trang (nếp trắng), Abung (nếp tro), Amuk (nếp tím). Song ở những đồng trũng họ cũng có trỉa lúa gạo nhưng mà là loại lúa dẻo có tên gọi là rayư, tahuk, alia, alao, kupoaiq, tarro... ăn chẳng khác gì nếp. Ngoài ra, bà con còn trồng ngô, khoai, sắn, kê và bo bo(3).
Về thức ăn, phần lớn là do đi kiếm ở ngoài về chứ lượng chăn nuôi không đáng kể. Gia súc chỉ được giết thịt khi có lễ hội hoặc tiếp khách, cho nên hàng ngày, những người đàn ông trưởng thành phải lên rừng, xuống suối săn bắt chim chuột, cá mú để phục vụ bữa ăn hàng ngày cho gia đình, làng bản. Loại vật họ chuộng nhất là chimoót poang/amoot poóng (chuột rừng), ayoang/kune yoóng (nai), chimoót oos/ajơơnh (mang), vook/adơaih (khỉ), chimoót pêq/tupia (chồn hương), kabưq (con dúi), kéh (sơn dương),... Các loại cá thì có abur (cá giống như cá trấm), kaching (cá chình), aka (cá giống như mõm trâu), pităi (cá giống như cá thu lớn). Những loại cá này chỉ sống ở sông lớn nơi có các tảng đá lớn ở đầu nguồn của các con sông: ntrool, pale, asap, nơi họ định cư. Rau quả thì có măng, rau khoai, rau rớn, xà lách song, quả khế, chuối, mít, dứa được dân bản địa dùng thường xuyên(4). Món gia vị không thể thiếu trong bữa ăn của họ là ớt, thứ đến là muối(5). Ớt vừa có chức năng khử chất tanh(6) của thức ăn là động vật vừa giúp cho con người chống đỡ trước giá buốt của núi rừng thăm thẳm.
Thức uống của cư dân Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung và cư dân Ta ôi nói riêng không thể không kể đến buah (rượu cần), aveat (rượu mía), tuvak (rượu đoác), pardin (rượu đình đình), siêu (rượu các loại nói chung)... Buah được làm từ nếp và chỉ dùng nó trong các dịp lễ hội của làng hoặc của dòng tộc, dòng họ lớn. Aveat được làm từ nước cây mía và nó chỉ được sử dụng theo mùa mía vào dịp lễ cưới, lễ tang của gia đình, dòng họ. Những loại rượu còn lại có thể vào những ngày thường ngoài lễ hội. Đặc biệt, đồng bào Ta ôi có hai loại rượu (tuvak và pardin) được khai thác trực tiếp từ thiên nhiên. Nước từ cây đoác và đình đình, khi chưa bỏ vỏ cây apăng (cây chuông) có thể dùng thay sữa cho trẻ sơ sinh (khi mẹ không đủ sữa) hoặc người già ốm yếu. Hiện nay, ở nhiều vùng đồng bào đang được triển khai trồng nhân rộng loại cây này để sử dụng vào nhiều mục đích của cuộc sống.
2.6. Quan hệ hôn nhân gia đình
Cũng thể hiện tính cộng đồng và sống chung trong một ngôi nhà dài như các DTTS ở Tây Nguyên nhưng quan hệ gia đình của người Ta ôi phổ biến là đại gia đình phụ hệ(7)như các DTTS khác ở miền Trung và miền Bắc.
Sống chung trong một ngôi nhà dài thường là ông bà, cha mẹ và gia đình các anh em trai thân tộc. Các chị em gái khi có chồng thì phải về làm dâu nhà chồng. Người chủ của ngôi nhà dài có thể là vợ chồng anh cả (nếu ông bà và bố mẹ đã già), người ta gọi là lla déng. Anh cả là người quyết định tất cả các công việc liên quan đến tổ chức đời sống (kinh tế - văn hóa - xã hội) trong ngôi nhà dài. Tuy nhiên, chị dâu cả lại là người giữ vai trò hướng dẫn, điều hành các công việc sản xuất kinh tế (chủ yếu là làm nương rẫy cùng các nghi lễ liên quan); nuôi dạy con cái; điều hòa các mối quan hệ trong đại gia đình; huy động và tập hợp các lễ vật cho các loại hình lễ hội do dòng tộc hoặc làng bản tổ chức. Ở phạm vị dòng họ/tộc, xút yaq (trưởng họ/tộc) lại được quyết định trên cơ sở tuổi đời và uy tín của những anh em con chú con bác. Không phân biệt con bác hay con chú, hễ ai sinh ra trước và có uy tín thì người đó được bầu chọn làm trưởng họ/tộc. Xút yaq là chiếc “cầu nối” giữa các gia đình trong một dòng họ/tộc và với các dòng họ/tộc khác trong một làng, và ngược lại.
Hôn nhân của người Ta ôi thường theo con đường hôn nhân cùng huyết thống một chiều: con trai của các chị em gái lấy con gái của các anh em trai. Tuyệt nhiên không có trường hợp ngược lại. Quan hệ hôn nhân kiểu này được người Ta ôi gọi là khơâi - nnoo (nội - ngoại, thuận - thành thân). Xét cho cùng cơ chế hôn nhân này cũng giống như tục “nối nòi” của người Ê Đê, biểu hiện ở chỗ: khi chồng chết, người đàn bà góa chồng bị gả cho một người khác trong dòng tộc, có thể là anh, em hoặc chú, bác không nhất thiết đã có vợ hay chưa. Ngược lại, khi vợ chết, người đàn ông có quyền đặt vấn đề cưới một người trong thân tộc của vợ nhưng người đó phải là người chưa chồng hoặc chồng chết.
Nông Minh Lý (sưu tầm)