Hàng năm, lễ cầu mùa của dân tộc Tà Ôi tỉnh Thừa Thiên-Huế được tổ chức sau Tết âm lịch. Thường thì từ 3-5 năm người ta mới tổ chức một lần vào những năm có những sự kiện quan trọng như: tạ ơn Yang (Trời) về việc liên tục được mùa hoặc cầu được mùa nếu mùa màng thất bát, cầu sức khoẻ...
Lễ hội thường tiến hành trên nhà rông và trong sân chung của làng. Chủ lễ là một già làng, và 7 già làng khác tham gia phụ lễ. Lễ vật dâng cúng gồm: cây chuối có buồng quả,
mía nguyên cây, rượu cần, trâu, dê, gà, chuột nướng trong ống tre, cá nướng bằng que, xôi, cốm, gạo... Vật dùng để làm lễ cúng có axom (một chùm sợi xoăn được tước nhỏ từ một cành hóp dùng để vẩy nước, vẩy rượu cúng lên xà nhà) và asiêu (một khúc gỗ tròn dài khoảng 15cm, được bổ đôi thành hai mảnh, mặt phẳng của mỗi mảnh được vẽ bùa chú trang trí) dùng để xin keo (bói âm - dương), ngoài ra còn có kiếm, khiên và dải vải gièng để phủ lên đầu trâu trước khi đâm.Buổi sáng ngày thứ nhất của lễ hội, người ta làm lễ xin đất chôn nọc (nêu) buộc trâu. Chủ lễ và phụ lễ cầm kiếm, khiên, khấn vái, sau đó chủ lễ úp khiên xuống đất, chỗ xin nọc buộc trâu. Đó là chỗ dựng cây nêu chính. Dựng xong nọc buộc trâu, người ta tiếp tục dựng nọc buộc dê và nọc buộc lợn (cây nêu phụ), những con vật sẽ bị giết thịt làm lễ vật cúng trời và cúng bên khô - bên nước. Các lễ vật cúng khác để cầu mùa bao gồm: gùi lớn, gùi nhỏ (achói, até), kiếm, khiên, chiêng, cồng, ché, gạo... cùng bánh nếp đã được bóc vỏ và cá nướng, mỗi thứ một ít. Sau các nghi thức cúng xin dựng nêu, chủ lễ tay cầm ống tre ngắn (trong đựng cám gạo và nước) có cắm axom vừa khấn, vừa đổ ống cám gạo xuống chân nọc buộc trâu trong tiếng cồng chiêng, tù và và tiếng hô hú. Tiếp đó, một nhóm được tách ra, đi đầu là phụ lễ tiến về phía núi, vừa đi vừa vung gạo lên trời và khấn mời thần linh về dự hội với buôn làng. Khi trở lại sân chung, tất cả đoàn bắt đầu nhảy múa, di chuyển quanh sân theo chiều ngược kim đồng hồ, sau đó lên nhà sàn để làm nghi lễ Vung cơm trộn lá (tượng trưng cho sự cầu mùa được no đủ) và ném axom (thể hiện sự hiển linh chứng giám của trời đất). Những người khác đưa hai mâm cúng xuống sân, đặt trước mũi trâu. Chủ lễ và phụ lễ tiến hành vung cơm vào đầu trâu rồi tất cả cùng hô hú.
Lễ Bahs - lễ mời các Yang về chung vui - là nghi thức tiếp theo được cúng trên nhà sàn. Lễ vật cúng có gà luộc, cá nướng, xôi, bánh nếp đã bóc vỏ... Dưới sân mọi người mổ lợn, làm lễ cúng xin phép thần vào ngày hôm sau làm cho lễ đâm trâu, đâm dê. Lễ cúng có 3 mâm, trên có bày đầu, đuôi lợn, một xâu gan lợn, một bát cơm có cắm 2 bánh nếp đã bóc sẵn và một bát nạp..., ngoài ra còn có một cây chuối nguyên buồng, một cây mía và một vò rượu cần đặt bên cạnh một bát nhựa cây đang cháy. Sau khi xin keo (bói thẻ gỗ) để được sự đồng ý của thần linh, thầy cúng cho các mâm cúng lên nhà sàn để làm lễ xua đuổi điều dữ, đón điều tốt lành.
Sáng sớm ngày thứ hai, cả làng đã chuẩn bị nhảy múa (ađứt) để đón khách các làng bên sang dự lễ cầu mùa và lễ đâm trâu. Đoàn khách tới cùng nhảy múa quanh sân 3 vòng, theo chiều ngược kim đồng hồ. Vừa múa, già làng vừa mời các bạn ăn thịt, ăn bánh nếp và uống rượu. Múa xong các già làng trong đoàn bạn cùng các già làng chủ nhà lên nhà sàn để chủ lễ mời ăn uống và hội ý phân công người đâm trâu. Sau khi đã nhất trí, các mâm cúng được mang xuống đặt trước nọc trâu. Các già làng bưng một đĩa gạo và hành sống vãi vào con trâu. Một cô gái dỡ gùi lấy vải dâng cho chủ lễ. Chủ lễ đưa tấm vải cho phụ lễ làm phép trên đầu trâu, rồi cho cất đi. Đến đây, hai già làng được quyền đâm trâu.
Trâu được mổ tại chỗ. Dê được khiêng đi làm thịt. Sau đó người ta lấy đầu, chân trâu sống, đầu dê sống cùng với thủ, đuôi lợn luộc, gà luộc và các lễ vật khác, xếp vào 7 mâm, đem đặt xuống gốc nọc trâu để cho già làng cúng và đội múa của làng múa xung quanh.
Sau đó người ta lấy một cây nêu nhỏ, ở giữa có treo một giỏ tre cắm vào trước cây nêu chính rồi chủ lễ và hai già làng vừa khấn vừa vẩy nước lên giỏ đựng vật cúng ở cây nêu nhỏ. Làm xong, các già làng cùng ngồi trong lều vải để khấn tập thể. Sau khi khấn, xin keo, ném axom xong, các già làng chia thành hai nhóm cầm theo cây nêu nhỏ, một đi về phía bờ sông, một đi về phía núi để khấn với sự phụ hoạ của đội nhạc múa. Cúng xong họ lấy lộc chia nhau ăn tại chỗ rồi về sân nhà rông. Các vật cúng còn lại được chuyển lên nhà sàn. Lúc này đội múa bắt đầu hát Ca lơi và thổi tù và tiễn khách cùng các già làng..., lễ cầu mùa kết thúc
Đàm Mai (sưu tầm)