Sắc thổ cẩm đằm thắm của người phụ nữ Lự ở Tam Đường.
Biên Phòng - Trong cuộc hành trình tìm về với những người anh em dân tộc Lự, chúng tôi đến bản Hon, thuộc huyện Tam Đường, Lai Châu, nơi có 474 hộ với 2.859 nhân khẩu người dân tộc Lự. Là một trong số 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người, dân tộc Lự hiện chỉ còn 3.700 khẩu, cư trú tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Theo giới thiệu của các cán bộ Phòng Văn hóa huyện Tam Đường, bản Hon là bản người Lự thuần chất, vẫn còn giữ được nguyên bản sắc văn hóa từ kiến trúc, ẩm thực, trang phục cho đến các phong tục tập quán trong sinh hoạt thường nhật.
Bao phủ cả bản Hon là sự bình yên ấm áp, với nhiều cửa nhà vô tư khép hờ, dù chủ nhân vắng mặt, khiến cho những người phương xa mới đến như chúng tôi bỗng thấy mình như được xem trọng và tin yêu. Rải rác dưới hiên của những ngôi nhà sàn bốn mái, những khung dệt, xa quay vẫn như đang chờ đợi tay người... Rồi những ôm tranh, thước củi chen nhau chất kín trên nhà, dưới sàn, cho thấy sự bám rễ thâm sâu của người Lự trên bản Hon, một miền đất lành mà tổ tiên họ đã chọn để an cư lập nghiệp sau khi phải thiên di ra khỏi thành Xám Mứn - Điện Biên để tránh nạn lửa binh từ bao thế kỷ trước.
Là cư dân thuộc ngành Tày - Thái, người Lự thuộc nền văn hóa lúa nước vùng thung lũng. Trên con đường thiên di về phía Nam, người Lự bị phân tán và sống xen kẽ với người Dao, người Mông... Chính vì thế, điều dễ nhận thấy là văn hóa của họ vẫn giữ được văn hóa của cư dân Tày - Thái, song cũng đã có sự giao thoa, tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa của các dân tộc khác. Người Lự đến định cư tại Tây Bắc từ bao giờ, đến nay vẫn chưa có câu trả lời.
Theo các nhà dân tộc học, sớm nhất vào thế kỷ thứ 11 - 12, người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn, nay thuộc tỉnh Ðiện Biên. Tại đây, người Lự đã khai hoang lập ấp và xây thành Xam Mứn, tức thành Tam Vạn mà di chỉ hiện còn nằm ở cánh đồng Mường Thanh. Theo cổ sử, thành Tam Vạn tồn tại dưới sự trị vì của 19 đời chúa Lự. Đến thế kỷ 18, chiến tranh bùng nổ khi giặc Phẻ tràn vào, người Lự phải phân tán đi khắp nơi và một bộ phận lớn đã thiên di lên Lai Châu.
Riêng người Lự ở nước ta thuộc nhóm Lự Đen hay còn gọi là Lừ Đăm. Gần 100 năm trước, các thế hệ người Lự ở Lai Châu vẫn còn những phong tục, lễ nghi trong sinh hoạt mang đậm tín ngưỡng Phật giáo và đặc biệt còn sử dụng chữ viết theo mẫu tự Pali của Phật giáo nguyên thủy. Đặc biệt, khi đó người Lự còn sử dụng bộ lịch riêng.
Ở bản Hon, hầu hết các ngôi nhà của người Lự đều quay lưng vào núi và gần như mỗi nhà đều có vườn để trồng trọt, chăn nuôi mang đậm hình thái kinh tế tự cung tự cấp. Theo các nhà dân tộc học, người Lự cũng là một dân tộc nông nghiệp có trình độ cao. Ngay từ xa xưa, người Lự đã biết làm thủy lợi dẫn thủy nhập điền, biết dùng phân bón ruộng, biết trồng lúa nếp theo kỹ thuật cấy mạ hai lần và thâm canh các loại hoa màu.
Người Lự, đặc biệt là những phụ nữ mà chúng tôi gặp hầu như không lúc nào ngơi tay với những công việc vườn tược, cửa nhà. Dù có tuổi hay còn son trẻ, họ vẫn say sưa việc nhà như thể đó là hạnh phúc của mình. Không biết, đó có phải là do người Lự không có tục ép duyên hay gả bán, nên người phụ nữ Lự luôn chăm sóc tốt tổ ấm cho người mà mình yêu thương. Họ vẫn còn tục nhuộm răng đen bằng cách đốt gỗ cây "mày tỉu" cho vào ống tre; sau đó lấy chảo gang vỡ hứng lấy muội khói tạo thành một lớp nhựa đen sệt; thỉnh thoảng nhuộm một lần để làm đẹp và phòng các bệnh răng miệng rất hiệu quả.
Giống như người Lào ở Nà Luông, phụ nữ Lự cũng vấn khăn trên đầu với phương thức và kiểu dáng lệch hẳn sang bên trái. Có khác chăng là khăn của phụ nữ Lự có thêm khoảng 18 đường gấp hoa văn bổ dọc, khi vấn tạo thêm nét đặc sắc và tươi tắn cho họ. Không quá khi nói rằng, sắc màu cũng như tính mỹ thuật của trang phục Lự thuộc vào hàng nhất nhì vùng Tây Bắc. Họ hết sức khéo léo và tinh tế khi kết hợp một cách hài hòa giữa hoa văn dệt với hoa văn ghép vải trên một bộ trang phục. Với kiểu áo xẻ nách chéo về bên phải, phụ nữ Lự thêu đường viền cổ áo nhiều màu sắc với hoa văn quả trám và chân chim. Song song với hoa văn chỉ thêu, các hoa văn làm bằng vải ghép cũng được phụ nữ Lự trang trí tỉ mỉ dọc theo váy, áo.
Đặc biệt, là dải hoa văn mà người Lự gọi là "con suối uốn lượn" vòng quanh eo áo từ phía trước ra phía sau, được điểm tô thêm các đồng tiền theo hình rẻ quạt tạo cho áo có độ xòe so với eo. Trao đổi với chúng tôi, bà Tao Thị Chăn, nhà ở bản Hon cho biết: "Để thực hiện được phần hoa văn vải ghép, chỉ riêng cho gấu váy, người phụ nữ Lự khéo léo nhất cũng phải mất 1 tuần. Đặc biệt, phần hoa văn dọc thân váy còn được chăm chút thêu thêm các hoa văn bằng các loại chỉ len. Ngoài ra, các phục sức như xà tích, vòng tay, hoa tai cũng được người Lự chế tạo hài hòa với trang phục, tôn thêm nét đẹp của người phụ nữ".
Nghề dệt của người Lự vẫn được bảo tồn qua các thế hệ.
Và rồi, không bõ công tìm kiếm, rốt cuộc chúng tôi cũng đã tận mắt thấy những người dệt nên những sắc hoa xứ Lự. Với trang phục truyền thống rực rỡ khoác trên mình, các thiếu nữ ở bản Hon đã cho thấy mình xứng đáng là thế hệ kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc Lự.
Dưới từng mái nhà bản Hon, ít nhiều đều có từ 1 đến 3 khung cửi và người phụ nữ phải dành nhiều thời gian trong năm để dệt váy, áo cho mình và cho cả gia đình. Giống như phụ nữ của nhiều dân tộc, chị em người Lự ngay từ khi còn nhỏ đã được bà và mẹ từng bước dạy cho nghề dệt. Với một trình độ dệt thủ công độc đáo cùng tư duy thẩm mỹ đặc sắc, người Lự là một trong số các dân tộc Tây Bắc có trang phục riêng hết sức bắt mắt.
Vài năm gần đây, bản Hon đã trở thành điểm du lịch văn hóa hấp dẫn du khách quốc tế. Giám đốc Trung tâm Thông tin và Xúc tiến du lịch tỉnh Lai Châu Nguyễn Thành Công cho biết: Lý do lớn nhất mà bản Hon thu hút được khách du lịch là vì họ còn giữ được nguyên bản sắc, đặc trưng của dân tộc mình về kết cấu nhà ở, kiến trúc, ẩm thực, trang phục, phong tục tập quán...
Chính quyền và các ngành chức năng đang quy hoạch bản Hon trở thành một điểm du lịch đầy tiềm năng của tỉnh. Và nghề dệt truyền thống với vẻ đẹp dịu dàng, tỉ mỉ của người phụ nữ Lự hẳn sẽ là một điểm nhấn ấn tượng dành cho du khách.
Vân Anh (sưu tầm)