Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Mường
Showing posts with label ₪ Dân tộc Mường. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Mường. Show all posts

Friday, April 7, 2017

Lễ hội Mợi dân tộc Mường huyện Phù Yên, Sơn La (Hoàng Thị Như Hoa)

Lễ hội Mợi dân tộc Mường huyện Phù Yên

Lễ hội Mơi được tổ chức vào dịp đấu xuân, khi mọi việc đồng áng đã kết thúc (khoảng mồng 5 tết). Ý nghĩa cầu cho mọi người khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản mường no ấm, đoàn kết vượt qua khó khăn, giúp nhau xây dựng cuộc sống ngày một tốt hơn. Lễ hội Mợi  là dịp để người dân được giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất,
làm giàu chính đáng, nuôi dạy con cái trưởng thành và động viên nhau xây dựng bản mường ngày một tốt hơn. Các con nuôi cám ơn thầy Mợi đã chữa bệnh cứu người mang lại hạnh phúc cho mọi nhà bằng những cây thuốc nam gia truyền.
Lễ hội Mợi gồm: Phần lễ và phần hội được tổ chức đan xen nhau. Phần lễ do thầy Mợi và các con hầu đảm nhiệm. Phần hội có sự hướng dẫn của thầy Mợi và sự tham gia của các con nuôi, bà con dân bản. Lễ hội Mợi diễn ra trong thời gian một ngày. Từ sáng sớm, thầy Mợi và các con hầu đã chuẩn bị các mâm lễ cúng. Vào lễ, thầy Mợi dùng lời hát đang, hát ví truyền thống của người Mường mời tổ tiên Mợi từ trên trời xuống trần gian, sau đó mời tổ tiên bên nội, tổ tiên bên ngoại, thần thổ địa, thần sông, thần núi cùng với tổ mợi về hưởng lễ, hương hoa, phù hộ cho con cháu, bản mường khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Sau khi cúng xong Tổ Mợi, các con nuôi mang các mâm lễ đến để dâng lên tạ ơn thầy Mợi, thầy Mợi tiếp tục làm lễ cầu cho các con nuôi của mình khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, ăn nên làm ra. Cúng mời tổ mợi và cầu phúc cho các con nuôi xong, thầy Mợi và các con hầu chuyển sang múa mợi. Các điệu múa được thể hiện trong lễ hội Mợi bao gồm: Múa xòe, múa khăn, múa trầu, múa kiếm, múa trồng bông dệt vải …Các điệu múa này vừa thể hiện tập quán truyền thống, vừa thể hiện các lễ nghi nông nghiệp. Các con hầu dỗ các ống tre xuống và gõ vào nhau, thổi khèn bè tạo nền nhạc rộn ràng cho các điệu múa. Vừa múa, bà Mợi vừa đi vòng quanh các con nuôi và bà con dân bản, bà dùng khăn quàng vào cổ mọi người để mời bà con dân bản vào  cùng múa với thầy mợi và các con hầu. Điệu múa Mợi của người Mường vừa uyển chuyển, nhịp nhàng, vừa mạnh mẽ, say sưa. Càng về trưa thì số lượng người múa càng đông, tiếng nhạc càng rộn ràng. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, buổi chiều các điệu múa lại được tiếp tục. Bên cạnh điệu múa là các trò chơi được diễn ra: bói hoa, ném còn, kéo co, đánh chó, đánh chuyền, đánh quay, nhảy lò cò, chơi bi, đánh quay, chơi ô ăn quan, nhảy dây, đánh yến…Các trò chơi dân gian diễn ra hào hứng, vui vẻ, thu hút được mọi lứa tuổi cùng tham dự.
Sau một ngày, lễ hội kết thúc bằng điệu múa trầu  tiễn tổ tiên thầy Mợi về trời. Điệu múa phải thể hiện thật dẻo, thật khéo để mong đến ngày nay sang năm còn mời tổ mợi xuống trần gian dạy con cháu tập múa, làm nương, làm ruộng. Sau đó, thầy Mợi tổ chức một bữa cơm đoàn kết mời  các con hầu, các con nuôi và bà con dân bản.  
Lễ hội Mợi của dân tộc Mường tuy có qui mô nhỏ những mang tính nhân văn và cộng đồng rất lớn. Thông qua lễ hội đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần, văn hóa tâm linh lành mạnh của nhân dân, đồng thời giúp nhân dân bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu không còn phù hợp. Sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu lễ hội Mợi của dân tộc Mường, huyện Phù Yên nhằm bảo tồn, phát huy và bổ sung vào kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
 Hoàng Thị Như Hoa

Sunday, March 19, 2017

Đôi nét về các dân tộc anh em trên vùng đất Hòa Bình (Đàm Minh Phiếu)

Hòa Bình từ lâu là một địa danh nổi tiếng với nền văn hóa đặc sắc, tiêu biểu trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Trên vùng đất lịch sử này, các dân tộc anh em đã cùng đoàn kết, gắn bó xây dựng và bảo vệ quê hương, tô thắm núi sông, bản làng, xây dựng nên truyền thống văn hóa đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có 7 dân tộc chủ yếu là Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông, Hoa.


Trang phục dân tộc Mường

Ngoài ra còn có các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ như: Nùng, Sán Chay, Sán Rìu, ê đê, Khơ Me, Gia Rai, Mnông, Cơ Tu, Giáy, Ngái, Chứt đã tạo nên những nét văn hóa độc đáo rất riêng của từng vùng. Xin giới thiệu đôi nét về 7 dân tộc chiếm tỷ lệ chính trong cơ cấu dân số của tỉnh.

1. Hòa Bình là địa bàn cư trú chính của dân tộc Mường. Trong cơ cấu dân tộc của tỉnh, dân tộc Mường luôn có số đông nhất. Hiện, ở 11 huyện, TP trong tỉnh có khoảng 486.513 người dân tộc Mường, chiếm 61,82% tổng số dân toàn tỉnh. 
                                                                                              
2. CVĐ dân cư miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi vào đầu những năm 60 thế kỷ XX đã làm thay đổi cân bằng dân số của các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Hòa Bình. Hiện, ở 11 huyện, thành phố có khoảng 225.808 người dân tộc Kinh, chiếm 28,69% dân số toàn tỉnh.

Trang phục dân tộc kinh
                                     
3. Với dân số khoảng 31.788 người, dân tộc Thái chiếm 4,04% tổng dân số toàn tỉnh. Dân tộc Thái cư trú ở các huyện, thành phố trong tỉnh. Trong đó, tập trung ở huyện Mai Châu với dân số trên 30.300 người.

Trang phục dân tộc Mông

4. Trên địa bàn 11 huyện, thành phố có khoảng 25.400 người dân tộc Tày, chiếm tỷ lệ 3,23% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người dân tộc Tày chủ yếu ở huyện Đà Bắc với số lượng trên 24.700 người.

Trang phục dân tộc Tày

5. Dân tộc Dao đứng thứ tư trong cơ cấu dân tộc của tỉnh với số lượng khoảng 13.859 người, chiếm 1,76% dân số toàn tỉnh. Người dân tộc Dao cư trú tại các huyện, thành phố trong tỉnh. Trong đó, tập trung ở các huyện Đà Bắc, Kim Bôi, Mai Châu, Cao Phong.

Trang phục dân tộc Dao

6. Dân tộc Mông hiện có khoảng trên 2.900 người, chiếm 0,372% tổng dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của đồng bào Mông tập trung ở hai xã Hang Kia, Pà Cò (Mai Châu).

Trang phục dân tộc Thái

7. Dân tộc Hoa có khoảng 129 người, chiếm 0,016% tổng dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người dân tộc Hoa ở TPHB, huyện Kỳ Sơn, Tân Lạc, Mai Châu, Yên Thủy.

Trang phục dân tộc Hoa
Đàm Minh Phiếu

LỄ HỘI DÂN TỘC MƯỜNG, HÒA BÌNH (Bùi Mgọc Thanh)


Hòa Bình Nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, Hoà Bình là một tỉnh miền núi có nền "Văn hoá Hoà Bình" nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ, là vùng sử thi huyền thoại “Đẻ đất đẻ nước”, là miền đất âm vang tiếng cồng, tiếng chiêng, vùng của những lễ hội giầu bản sắc dân tộc Tây Bắc, của kho tàng phong phú về văn nghệ dân gian các dân tộc: Mường, Dao Thái, Mông...  Là quê hương của những làn điệu dân ca "ngọt như mật ong, trong như dòng suối"; những trường ca, truyện thơ đậm nét văn hóa dân tộc và chất nhân văn tinh tế…  Mời bạn đến với mảnh đất Hoà Bình để cùng khám phá và cảm nhận vẻ đẹp của một miền văn hoá giàu bản sắc.

I.Khi nhắc đến văn hóa Hòa Bình, không thể không nhắc tới văn hóa của người Mường. 
Trong cộng đồng 7 dân tộc gồm Mường, Dao, Thái, Tày, Mông, Kinh và Hoa đang sinh sống trên mảnh đất Hòa Bình thì người Mường chiếm tới 63,3% và được gắn liền với những địa danh nổi tiếng là Bi, Vang, Thàng, Động, cùng áng sử thi “Đẻ đất, đẻ nước.” 
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, người Mường Hòa Bình có những đặc trưng riêng về ngôn ngữ, trang phục, phong tục, tập quán... tạo nên vẻ đẹp phong phú và đặc sắc trong bức tranh văn hóa Hòa Bình. 
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhiều nét văn hóa truyền thống của người Mường Hòa Bình vẫn được lưu giữ và phát huy, trong đó, lễ hội được đánh giá là một nét văn hóa đặc trưng trong đời sống sinh hoạt có từ xa xưa của người Mường, bao gồm các mặt như tinh thần, vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật.... 
Do người Mường có nguồn gốc gần với người Kinh nên ngôn ngữ của họ thuộc nhóm  Việt-Mường. Đồng bào Mường định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường có truyền thống làm ruộng và cây lúa nước là cây lương thực chủ yếu.

II.Nhà sàn của người Mường
Đến thăm những bản làng của đồng bào Mường, chúng ta sẽ thấy những ngôi nhà sàn dựa lưng vào đồi núi, mặt hướng ra cánh đồng xanh bát ngát, xung quanh nhà là cây cối bốn mùa đơm hoa, kết trái. Ngôi nhà sàn dựng theo kiểu truyền thống của người Mường, vì được bố trí khéo léo nên không gian rất thoáng đãng và đặc biệt tiện lợi. Với đặc trưng kiểu nhà này, người Mường đã tạo nên cho mình một tập quán riêng trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong lao động sản xuất, vừa trồng lúa, làm nương rẫy, vừa chăn nuôi gia súc gia cầm. Nhà sàn của người Mường ngoài công năng để ở và cất trữ tài sản, phòng tránh thú dữ, rắn, rết và phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở vùng núi, còn là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa, giáo dục các thành viên trong gia đình.
Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Mường thì không cho phép dựng nhà thành hàng, lối nhưng bao giờ, nhà sàn cũng đều ở vị trí dựa lưng vào thế đất cao như sườn đồi, sườn núi để đón nhận tiết trời trong lành và tiện cho việc sinh hoạt, săn bắn, đi rừng. Ở giữa màu xanh thiên nhiên núi rừng, những nếp nhà sàn vẫn tồn tại như một minh chứng rõ nét nhất về sức sống lâu bền của văn hoá Mường hàng nghìn năm qua.
Nhà sàn của người Mường thường phân ra ba mặt bằng: Mặt trên cùng là gác để đựng lương thực, đồ dùng gia đình; sàn nhà là nơi sinh hoạt nghỉ ngơi; còn gầm sàn nhà dùng để các dụng cụ sản xuất, nhốt gia súc, gia cầm. Mỗi nhà có thể bày biện, trang trí khác nhau nhưng cấu trúc cơ bản về gian, buồng giống nhau.

Hình ảnh: nhà sàn ở huyện Lạc Sơn

Nguyên liệu cơ bản được bà con sử dụng để dựng nhà sàn là gỗ, thường là các loại gỗ trai, chò chỉ, nghiến, sến, táu, dổi, de, đinh, lát...Ngoài gỗ để làm các chi tiết chính, nhà sàn của người Mường cần sử dụng các loại tre, bương, hóp để làm đòn tay, đan vách... Cột nhà làm bằng gỗ tròn hoặc vuông nhưng phổ biến là tròn; chân cột thường được chôn xuống đất nhưng cũng có nơi dùng các hòn đá tảng để kê. Vì chân cột nhà sàn thường được chôn sâu xuống đất từ 80cm - 1m nên phải làm cột bằng thứ gỗ không bị mối ăn, không mục, không mọt. Trước đây nhà sàn cổ sử dụng đinh gỗ, đinh tre, chêm gỗ để cố định mộng chính và dùng các loại dây leo bện để níu những mộc phụ theo hình chữ X. Hiện nay bà con nơi đây đã biết sử dụng đinh sắt để thay cho dây lạt, dây rừng có tuổi thọ không cao. Mái nhà sàn truyền thống thường được lợp bằng cỏ gianh, lá cọ nên nhà người Mường ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hè.

Hình ảnh: nhà sàn Huyện Mai Châu

Nhà sàn cổ truyền của người Mường thường cấu trúc một gian hai chái, hai gian hai chái, ba gian hai chái... (tương đương ba gian, năm gian, bảy gian...). Các cửa số, kể cả cửa voóng toong (cửa sổ chính) chỉ làm ở phía trước của ngôi nhà. Giữa các gian thường không có cửa một cách chắc chắn, chỉ có sự phân biệt có tính chất tượng trưng. Riêng buồng con dâu, con gái lớn, mặc dù không có cửa nhưng những quy ước bất thành văn rất chặt chẽ, được tuân thủ nghiêm ngặt rằng, ai khi nào được vào và ai khi nào không được vào.
Đặc biệt, ở bất kỳ hướng cửa sổ nào với người Mường đều được coi là thứ rất linh thiêng và là điều tối kỵ nếu phụ nữ ngồi lên cửa sổ. Cửa sổ trong tiềm thức và phong tục lâu đời của người Mường là dùng để tiễn đưa những người thân trong gia đình sang thế giới bên kia sẽ đi theo lối này.
Người Mường xưa thể hiện sự giàu có, địa vị xã hội bằng cách làm nhà to, làm nhiều nhà. Nhà sàn của nhà lang bậc trung hồi đầu thế kỷ XX thường dài đến 100m. Với nhà lang nhỏ thường làm nhà dài 30 đến 40m, nhà dân thường có khả năng kinh tế thì thường khoảng 20m. Vì thế, nhà sàn là trung tâm trong không gian sống rất đặc trưng của người Mường.
“Màn” hay còn gọi là cầu thang thường được làm bằng gỗ hoặc nguyên thân cây gỗ tròn và tạo bậc trên chính những thân cây đó hay cũng có thể được đẽo thành hình chữ nhật. Cầu thang không dựng thẳng vào cửa chính mà dựng vào mép một cái sảnh gỗ và đặt vuông góc với chiều đòn nóc của nhà.
Trong nhà sàn của người Mường, không gian được chia theo cả chiều dọc và chiều ngang. Từ cầu thang chính bước vào phần giữa sàn nhà phía dưới bếp, phía ngoài là để tiếp khách, phía trong là nơi sinh hoạt của cả gia đình. Trong nhà, theo chiều dọc, phía trên có các cửa sổ gọi là cửa voóng, chỗ ngồi gần cửa voóng thường dành cho người cao tuổi, còn phía dưới dành cho lớp trẻ. Theo chiều ngang, phía ngoài dành cho nam giới, phía trong dành cho nữ giới
Theo phong tục của người Mường khi làm cầu thang thì bậc thang nhất thiết phải là số lẻ và được dựng ở các thế đất khác nhau. Theo quan niệm của người Mường, số lẻ của bậc thang thể hiện ước nguyện quy luật vào - ra - vào thì của cải sẽ không đi ra ngoài, gia đình luôn được êm ấm, đoàn tụ, con cháu thành đạt. Số lượng bậc có thể là 3, 5, 7, 9… nhưng tuyệt đối không được là số chẵn.
Điều thú vị nhất trong tổng thể cách xây dựng nhà sàn của người Mường, thì đó là những kết cấu hoàn chỉnh không chỉ tạo dựng nên một ngôi nhà sàn đặc trưng từ cổ kim đến giờ vẫn nguyên vẹn. Lý thú hơn cả, là ở mỗi bộ phận cấu thành nên nhà sàn nó lại mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc gắn kết chặt chẽ với con người hàng nghìn năm không thay đổi.
Về Hòa Bình, nhiều du khách ngỡ ngàng khi ngắm những ngôi nhà sàn cổ và độc đáo. Qua bao thế hệ, người dân tộc Mường vẫn giữ nguyên nét bình dị trong kiến trúc xây cất nhà sàn cổ, nhưng chứa đựng những vẻ đẹp độc đáo.
III. Trang phục của người Mường
Bên cạnh cách dựng nhà ở, trang phục của người Mường cũng có nét độc đáo riêng biệt.Trang phục cũng như tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục của người Mường có đặc trưng riêng.

Hình ảnh: trang phục dân tộc Mường

Đàn ông thường là mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Quần của của đàn ông thường có ống rộng và dùng khăn thắt giữa bụng (còn gọi là khăn quần). Đàn ông đầu thường cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Khi nhà có lễ hay dịp Tết, đàn ông Mường thường mặc áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sườn phải.

Trong khi đó nữ giới hằng ngày thường mặc áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng, bên trong mặc áo yếm trắng. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen.

Hình ảnh: Người đẹp xứ Mường huyện kỳ sơn năm 2013

Nét đặc sắc trên trang phục của người Mường chính là những mảng hoa văn nổi lên giữa trang phục và cạp váy, thắt lưng. Kỹ thuật dệt cạp váy rất khó, bao gồm nhiều khâu, thao tác phức tạp hơn dệt vải thông thường, do vậy, đòi hỏi sự khéo léo cao. Đặc biệt, tài năng của người dệt còn thể hiện ở việc bố cục, sắp xếp hoa văn trên từng bộ phận sao cho hợp lý, đẹp mắt, để các họa tiết có thể hỗ trợ, làm nổi bật lẫn nhau mà không phá vỡ bố cục chung. Tôi được biết : có gần 40 mẫu hoa văn, hình tượng được trang trí trên trang phục của đồng bào Mường, đặc biệt hình tượng con rồng được đồng bào ưa chuộng nhất: “Điều khó nhất là trước hết chúng ta phải tính toán, phải nhặt ra trước hết là chúng ta làm con rồng thì con rồng gồm bao nhiêu cái chùm để chúng ta biết có bao nhiêu sợi để tạo thành cái đầu. Ví dụ như cái râu, hoặc cái mình của nó hoặc cái đuôi uốn lượn là mình phải nhặt ra để mình làm cái co. Mỗi hoa văn lại có một cái co này để sau này để nhấc lên, rồi xuyên chỉ để nó có màu trắng, màu đen hoặc màu đỏ để nó kết hợp hoặc làm nổi bật con rồng bay”.

IV. Lễ hội văn hóa của người Mường
Ở Hòa Bình không có những lễ hội quy mô, đồ sộ có sự tham gia của đông người với những trang phục, lễ vật, đồ tế khí, cùng những quy định bài bản như các lễ hội của người kinh dưới miền xuôi, không có những hội chơi núi mùa xuân hay chợ tình lãng mạng mà tha thiết của người Mông ở vùng tây bắc…Tuy vậy, cộng đồng các dân tộc sống trên đất Hòa Bình, đặc biệt là người Mường, cũng có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa. Phải chăng do mật độ cư dân của các dân tộc Mường, Dao, Thái ở đây thường tập trung thành các khi riêng, có vẻ khép kín mà có lễ hội của họ thường không có quy mô lớn, không nổi trội, vượt xa khỏi khu vực họ sống. Ngay cả người Mường cũng được chia ra thành bốn Mường chính, có những sự tự trị nhất định ở mỗi nơi, làm cho nó phần nào hơi bị khép kín.
Thường vào mùa xuân, ở các vùng Mường trong tỉnh Hòa Bình bắt đầu tổ chức lễ hội, không chỉ để vui chơi mà còn là dịp để bà con thỉnh cầu ước nguyện với trời đất, thần thánh, tổ tiên cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Qua các lễ hội người ta gửi gắm hy vọng vào một mùa bội thu, một năm mới ấm no, hạnh phúc, bình yên cho cả bản mường. 
Nét đặc trưng ở các lễ hội dân gian của người dân tộc Mường thường thể hiện sự kết nối của cộng đồng, tinh thần đoàn kết, gắn bó của một bản Mường, một vùng Mường. 
Trong lễ hội, phần lễ thường được tổ chức rất trang trọng và linh thiêng. Theo quan niệm của người Mường, họ thường thờ cúng những vị thần, thánh, có thể là thần Đất, thần Nước, tổ tiên hoặc người có công lao dựng làng, dựng mường… 
Là sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh sâu sắc, các nghi lễ thể hiện sự sống hòa mình cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên của một cộng đồng Mường. Cả người Mường, Kinh, Thái, Dao, Mông ở Hòa Bình đều không có một lễ hội nào có quy mô to lớn. Song, những lễ hội của họ như lễ khuống mùa (xuống đồng), sắc bùa, chá chiêng, đu tre…không kém phần đặc sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa nhân văn.
Lễ hội của các dân tộc ở Hòa Bình gắn liền với những đặc điểm cụ thể về địa lý, tự nhiên và đời sống xã hội của các cộng đồng dân cư tồn tại ở đây từ lâu đời. Những cộng đồng người Mường có những mối quan hệ hết sức gần gũi với người Việt và đã từng có một nền văn hóa khá phong phú mà nhiều sắc thái còn giữ được cho đến ngày nay. Nền văn hóa đó đã góp phần lớn vào nền văn hóa HB đã trở thành một hiện tượng văn hóa được thế giới công nhận. Dưới đây là một số lễ hội tiêu biểu ở Hòa Bình: 

Lễ hội xuống đồng(khuống mùa) của người Mường: đây là một lễ hội rất phổ biến của người Mường xưa, giống như lễ hội lồng tồng của người Tày- Nùng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang…mục đích của lễ hội là để cầu cho mùa màng của một năm mới thịnh vượng, may mắn. đồng thời, việc thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là dịp để người Mường nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và bày tỏ những ước vọng của mình về một cuộc sống tươi đẹp và yên bình. Lễ hội này thường diễn ra vào dịp đầu xuân, như vùng Mường Bi, xóm Lũy huyện Tân Lạc, vùng mường Chiềng, Mường Tôm, xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn….

Hình ảnh: lễ hội xuống đồng huyện Tân Lạc

Lễ hội sắc bùa của người Mường: lễ hội này có nghĩa là xách cồng, là một hội vui có tính chất giải trí diễn ra vào dịp đầu năm mới ở những bản Mường để người ta cầu chúc nhau may mắn, mạnh khỏe. ngoài ra những dịp vui khác người ta cũng sắc bùa như đón khách quý từ xa đến, dựng nhà mới, đón dâu hoặc những dịp vui khác.

Hình ảnh: lễ hội sắc bùa của người Mường

Lễ hội cầu mùa của người Mường: Lễ hội cầu mùa tiêu biểu diễn ra ở vùng Mường Vang, Lạc Sơn, là lễ hội của mùa của 7 xã vùng Cộng Hòa tham gia. Lễ hội bắt nguồn từ việc trước đây khi thấy xuất hiện sâu bọ cắn phá mùa màng, các quan lang trong mường nhóm họp bàn việc tổ chức cúng. Có năm sâu bọ nhiều, sau khi làm lễ cúng, tự nhiên có đàn chim sà xuống cánh đồng bắt hết sâu bọ, làm cho lúa sạch sâu mà lại tốt tươi, từ đó người ta tin tưởng vào lễ hội cầu mùa cho nên hàng năm thường tổ chức lễ này.

Lễ hội đền Bờ: Đây là lễ hội có sự tham gia nhiều nhất và lớn nhất của người Kinh trên đất Hòa Bình, lễ hội là biểu tượng đoàn kết của ba dân tộc Kinh- Mường- Dao sống trên dải đất Hòa Bình. Đền Bờ hay đền thác Bờ là một di tịch lịch sử nổi tiếng, ở đây không những có đền mà còn có cả một cái chợ Bờ đã từng là tên của tỉnh lỵ. Tương truyền năm 1431- 1432, vua Lê Lợi đi dẹp giặc ở Mường lễ( Sơn La) qua đoạn thác Bờ hiểm trở đã được dân địa phương giúp đỡ rất tận tình. Trong số đó có bà Đinh Thị Vân người Mường và một bà người Dao giúp đỡ nhà vua về quân lương, thuyền bè vượt thác….khi hai bà mất, vua Lê Lợi đã truy phong công trạng của hai bà và ban chiếu cho lập đền thờ. Từ đó người dân ở đây thường mở hội hàng năm vào ngày mồng 7 tháng giêng để tưởng niệm hai bà và các vị thần. Hiện nay, di tích và lễ hội này thu hút rất đông khách thập phương từ dưới xuôi lên, lễ hội trở thành kéo dài suốt cả tháng, đến đây du khách vừa có thể thưởng ngoạn cảnh đẹp vừa là nơi sinh hoạt tâm linh hấp dẫn.

Hình ảnh: dịp lễ tết ở Đền Chúa Thác Bờ

Người xưa kể lại: “Xưa kia, ở xứ Mường cổ, hình thái tổ chức xã hội đặc thù là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo như: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng… chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có các Lang cun, dưới Lang cun có các Lang xóm hoặc Đạo xóm, cai quản một xóm. Trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường cũng có đoạn kể: Một hôm Lang Đá Cần, vị Lang đầu tiên cai quản đất Mường đi bẫy và bắt được một con rùa. Con rùa van nài Lang đừng giết thịt, bù lại rùa mách bảo cho cách làm nhà sàn. Rùa dạy: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ gianh dùng để lợp”. Câu chuyện này được coi như một điển tích về sự ra đời nhà sàn của người Mường. Nó gắn liền với những phong tục tập quán, sinh hoạt thường ngày của người dân bản. Và cho tới ngày nay, những nếp nhà sàn đó vẫn còn vẹn nguyên với người dân nơi đây. 
Hình ảnh con rùa cho đến nay không chỉ là con vật linh thiêng được người Mường tôn thờ mà còn sáng tạo ra một cách tính ngày tốt, giờ tốt gọi là phương pháp “trừ đá Rò” (Rò ở đây được hiểu là Rùa). Phương pháp này dùng để tiến hành dựng nhà hay cưới hỏi và làm những việc quan trọng khác của làng và dân bản.

V. Người Mường Vang (Hoà Bình) với cồng chiêng
Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Đặc sắc nhất trong các loại hình này chính là những làn điệu của những bài dân ca Mường. Dân ca Mường nhiều thể loại như: Thường đang (hát mừng nhà mới), bọ mẹng (hát giao duyên), hay trường ca như Nghê Nga – Út Lót. Những lời ca trong dân ca         Mường thường có câu 6 và câu 8 xen kẽ nhau như một câu thơ lục bát của người Việt cùng những thang âm luyến láy: “Câu lạc bộ đang cố gắng tìm lại những làn điệu dân ca cổ và truyền dạy lại cho con cháu. Hát “rặm thường” và “hát đúm” được thanh niên nam nữ ngồi hát với nhau hoặc khi có đám cưới…

Mường Vang là một vùng đất, một địa danh lịch sử - văn hóa nổi tiếng của người Mường. Cái tên Mường Vang đã in đậm vào tâm thức người dân Lạc Sơn nói riêng, Hòa Bình nói chung. Mường Vang bao chứa trong nó những giá trị văn hóa dân gian hết sức phong phú, đa dạng của người Mường; rất nhiều trong số đó chưa được biết đến, hoặc chưa được giải mã. 
Một trong những hiện tượng văn hóa dân gian được biết đến từ lâu của Mường Vang, đó là cồng chiêng. Cồng chiêng của người Mường ở Mường Vang thực sự là điển hình cho tính nguyên hợp của một hiện tượng văn hóa dân gian, cần thiết phải được nhìn nhận, nghiên cứu, ứng xử một cách toàn diện hơn trong một môi trường diễn xướng đúng như nó vẫn tồn tại từ bao đời.

Hình ảnh: lễ hội cồng chiêng ở Mường Vang, Hòa Bình

Theo các cụ cao niên thì ngày xưa cồng chiêng được bày bán ở chợ như thứ hàng hóa thông thường. Người muốn mua chiêng, nếu không biết cách chọn thì phải nhờ người am hiểu chọn hộ. Trước tiên người Mường quan tâm đến âm sắc, độ vang của chiêng. Người ta xách chiêng lên, dùng nắm tay đánh vào núm chiêng. Tùy theo chiêng lớn hay nhỏ mà người chọn chiêng dùng lực cho phù hợp để xác định âm sắc và độ vang của chiếc chiêng đó. Nếu đánh mạnh, hoặc nhẹ hơn so với khả năng âm vang của chiêng thì chiêng sẽ rè hoặc không vang đúng với âm thực của nó. Nếu đánh không đúng kỹ thuật thì hiệu quả cũng sẽ sai lệch như vậy (chẳng hạn thời gian tiếp xúc vào núm chiêng của nắm tay không được quá chậm - sẽ ảnh hưởng đến độ ngân vang của chiêng). Tất nhiên, người Mường Vang khi chọn không quan tâm đến nguyên nhân tại sao tiếng chiêng lại như vậy. Họ chỉ cần xác định đúng là tiếng chiêng chứ không phải tiếng chuông hay tiếng phèng la là được, nhưng phải đảm bảo yếu tố: khoẻ, thẳng, không méo mó, không rè. Người Mường coi mỗi tiếng chiêng có hồn riêng, ngoài lý do quan niệm vạn vật hữu linh, có lẽ còn vì đặc điểm tự nhiên nên mỗi chiêng có giọng riêng nữa. 
Nếu như các tộc người ở Tây Nguyên có nhiều cách sử dụng (đánh) chiêng thì người Mường chỉ có một, đó là treo chiêng lơ lửng sao cho không một vật hay một lực nào có thể ảnh hưởng tới tiếng chiêng, và chỉ đánh chiêng khi chiêng ở tư thế như vậy. Thành chiêng bao giờ cũng có hai lỗ nhỏ để xỏ dây treo chiêng. Người sử dụng một tay xách chiêng (cầm vào dây treo chiêng), tay kia cầm dùi đánh chiêng. Nếu chiêng quá nặng, có thể treo chiêng lên xà nhà hoặc hai người khiêng bằng cách treo chiêng dưới một cái đòn (trong trường hợp vừa đi vừa đánh). Dây treo chiêng thường được bện bằng sợi gai hoặc làm bằng loại dây dai và mềm để không ảnh hưởng đến âm sắc của chiêng. Dùi chiêng làm bằng loại gỗ chắc, dẻo, không quá cứng, quá nặng và không bị mối mọt. Đầu dùi bọc vải, quanh lớp vải đó là lưới sợi gai mềm vừa để trang trí vừa bó chắc những lớp vải vào đầu dùi. Người Mường không đánh ngoài núm chiêng, không bao giờ đánh chiêng bằng gỗ cứng, cán dùi, và cũng không bịt chiêng bằng tay tạo tiếng ngắt. Tất cả những cách sử dụng như vậy là để đảm bảo cho tiếng chiêng được vang lên chuẩn xác nhất, hay nhất, vang xa nhất. Điều này cho thấy người Mường coi trọng âm sắc, độ vang của chiêng như thế nào. 
Cồng chiêng không sử dụng bừa bãi, chỉ được đem ra đánh trong những dịp quan trọng đối với đời sống tinh thần của người Mường. Do thời gian sử dụng ít mà thời tiết thì nóng ẩm, mưa nắng thất thường, nên bảo quản cồng chiêng là vấn đề người Mường Vang hết sức coi trọng. Trên thực tế, hiện còn nhiều chiếc chiêng cổ vẫn đang được sử dụng khi có dịp. Tuổi của những chiếc chiêng đó ước chừng đến vài trăm năm. Người Mường Vang để bảo quản cồng chiêng bằng cách gác chiêng lên xà nhà hoặc treo chiêng trên vách nhà. Nếu vách nhà bằng ván thì treo cồng chiêng lên những chốt gỗ hoặc đinh. Nếu vách nhà bằng tre nứa thì treo cồng chiêng lên những chạc tre hoặc gỗ cắm trên vách. 
Một quy tắc bất di bất dịch của người Mường Vang là không úp miệng chiêng vào trong hay xuống dưới. Khi nghỉ giải lao trong cuộc vui đánh chiêng, người ta ngồi xuống, không quên đặt chiêng xuống đất (hoặc sàn nhà theo qui tắc ngửa miệng chiêng. Các cụ tin rằng nếu úp miệng chiêng xuống đất thì chiêng sẽ bị mất tiếng, coi như chiêng "chết". Một điều cấm kỵ nữa là khi chiêng để dưới đất như vậy, đàn bà không được bước qua miệng chiêng. 
Chiêng càng được truyền qua nhiều đời càng quý. Cái quý ở đây không chỉ ở giá trị cổ vật mà chủ yếu là ý nghĩa của sự tiếp nối dòng đời, một tinh thần huyết thống gia đình. Tinh thần đó luôn hiện hữu bên những người đang sống thông qua hình hài của chiếc chiêng cùng với âm vang của nó. Người Mường không cúng giỗ người đã khuất theo ngày mất hàng năm như người Kinh, mà cúng giỗ theo các ngày lễ tết như Tết Nguyên đán, Tết cơm mới... Mỗi dịp như thế, họ đánh chiếc chiêng cha ông truyền lại để mời gọi tổ tiên về ăn giỗ. Người Mường cho rằng khi nghe tiếng chiêng đó thì chắc chắn ông bà, tổ tiên dù ở mường Trời hay mường Ma cũng lập tức về với con cháu. Như vậy, chiêng của người Mường còn là phương tiện "thông quan" giữa thế giới người sống với thế giới người đã khuất. Những gia đình, dòng tộc còn giữ được những chiếc chiêng truyền đời như thế đều lấy làm tự hào với cộng đồng. Chiêng quý chỉ truyền cho con trai trưởng, không có con trai trưởng mới truyền đến chú. Cồng chiêng Mường Vang mang những đặc trưng chung của cồng chiêng Mường, nhưng cũng có những nét riêng không thể lẫn với cồng chiêng của các vùng mường khác. Trong khoảng chục năm trở lại đây, sinh hoạt cồng chiêng trong cộng đồng đã có tín hiệu khôi phục, và nay vẫn được duy trì tương đối tốt. Môi trường mà trong đó sinh hoạt văn hóa cồng chiêng cổ truyền tồn tại là khá nguyên vẹn so với các vùng mường khác. Với các điều kiện gần với nguyên bản cổ truyền, cồng chiêng ,Mường Vang luôn là sự lựa chọn để đại diện cho cồng chiêng Mường nói riêng, nghệ thuật dân gian Mường nói chung trong các liên hoan nghệ thuật khu vực và toàn quốc. 
Dân tộc mường Hòa bình còn rất nhiều những bản sắc văn hóa của dân tộc từ lễ hội đến văn hóa và phong tục tập quán, nếp ăn ở. Những văn hóa trên là những văn hóa nổi bật, đặt sắc của dân tộc Mường Hòa bình nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi mường biết, mà nó còn là nét đặc trưng riêng biệt đối với các dân tộc khác, đây cũng là nét mộc mạc và giản dị. nhưng nền văn hóa đặc sắc của người Mường cùng trường ca “Đẻ đất đẻ nước”đã được truyền lại qua bao thế hệ, để ngày nay mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, lâu bền. Mang trong mình dòng máu con Lạc cháu Hồng, những thế hệ đồng bào Mường cùng nhau xây dựng bản làng, phát triển đời sống văn hóa tinh thần, cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc… và cùng các dân tộc anh em xây dựng đất nước phát triển giàu mạnh.
 Bùi Ngọc Thanh

Saturday, March 18, 2017

BẢN SẮC DÂN TỘC NGƯỜI MƯỜNG PHÚ THỌ (Đàm Minh Phiếu)

Dân tộc Mường còn có tên gọi khác là : Mol,Mual.Moi,Moi bi,Au tá,Ao tá.Dân số người Mường sống cư chú ở hai bên bờ sông Đà,các thung lũng của các tỉnh như ở Tỉnh Thanh Hóa,Hòa Bình,Yên Bái còn ở tỉnh Phú Thọ dân tộc Mường tập trung đông đảo nhất ở huyện Thanh Sơn,tiếp đến là huyện Yên Lập và một số xã ở huyện Thanh Thủy.Người Mường tự gọi mình là Mol,
Moi...tuy ngôn ngữ có sự biến âm của mỗi vùng nhưng điều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa.Tất cả những từ mà người Mường dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người,vì lẽ đó mà người Mường tự xưng mình là con Mol hoặc là con Monl(tức là: con người).Từ Mường thực chất là dùng để chỉ nơi cư chú của dân tộc này chứ không liên quan gì đến bộ tộc này nhưng theo thời gian và sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùa các dân tộc khác,đặc biệt là văn hóa của người Kinh mà dần dần cho đến ngày nay mà từ "Mường" đã trở thành tên gọi chính thức của tộc người này.
Văn hóa người Mường : người Mường thích ăn các món đồ như :xôi đồ,cơm tẻ đồ,cá đồ,rau đồ chín được rỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước khi ăn. Về đồ uống thì rượu cần của người Mường nổi tiếng về cách chế biến và hương vị đậm đà của men,loại rượu này thường được người Mường mang ra chỉ khi có khách quý tới chơi hoặc là dùng để uống trong các cuộc vui chơi tập thể.Văn hóa đặc trưng nữa là cả nam và nữ giới đều thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to,đặc biệt là ở phụ nữ người Mường có tục chuyền nhau cùng hút chung một điếu thuốc.

TỤC HÚT THUỐC LÀO BẰNG ỐNG ĐIẾU TO CỦA NGƯỜI MƯỜNG


NÉT VĂN HÓA RƯỢU CẦN ĐÃI KHÁCH CỦA NGƯỜI MƯỜNG


GẠO NẾP NƯƠNG ĐƯỢC ĐỒ CHÍN VÀ CHO LÊN GIÁ


Về văn hóa cư chú thì người mường thường sống tập trung thành xóm làng ở dưới các chân sườn đồi núi,nơi đất thoải gần với sông suối...Mỗi làng thường có khoảng vài chục nóc nhà,khuân viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên với những hàng cau,cây mít,đại bộ phận họ ở nhà sàn,kiểu nhà bốn mái,phía trên sàn nhà là nơi người ở còn phía dưới sàn nhà để nhốt gia súc,gia cầm,để cối giã gạo và các công cụ sản suốt...Người Mường có phong tục rất riêng khi làm nhà mới để ở thì khi dựng cột bếp họ có tục làm lễ nhóm lửa,gia chủ láy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa và buộc lên cột bếp,ở vột cái của bếp còn đặt 1 quả bí xanh.Trước khi ở nhà mới gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái và mời mọi người uống rượu cần dưới ánh của bếp lửa không tắt.

TỤC GIA CHỦ NGƯỜI MƯỜNG MỜI MỌI NGƯỜI UỐNG RƯỢU CẦN SUỐT ĐÊM DƯỚI BẾP LỬA


Về phong tục cưới hỏi : Trai gái tự di tìm hiểu yêu đương,ưng ý nhau thì báo gia đình hai bên làm lễ cưới,để được cưới nhau thì phong tục người Mường phải trải qua các bước sau : 1.Kháo thếng(ướm hỏi),2.Tì mòn bánh(lễ bỏ trầu),3.Nòm khảo(lễ xin cưới).Lễ cưới lần thứ nhất (Ti cháu),lễ đón dâu (ti du).Trong ngày cưới ông mối dẫn đầu đoàn khoảng vài chục người gồm đủ nội,ngoại,bạn bè mang đủ lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới.chú rể mặc quần áo đẹp và thít khăn trắng,gùi 1 chón cơm đồ chín bằng khoảng 10 đấu gạo,trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín.Trong lễ đón dâu cô dâu đội nón,mặc áo váy đẹp,ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước,cô dâu mang về nhà chồng thường có 2 cái chăn,2 cái đệm,2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô di,chú bác...

GÓC ẢNH TỤC CƯỚI HỎI CÔ DÂU MẶC TRANG PHỤC TRUYÊN THỐNG


Trong quan hệ xã hội : quan hệ giữa những người trong cùng xóm mà không phải anh em họ hàng thì là quan hệ láng giềng,gia đình 2 đến 3 thế hệ chiếp phổ biến,con cái sinh ra đều lấy họ cha.Quyền con trai trưởng được coi trọng và con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.Người Mường không quan niệm con chú,con bác mà là con chú con bác cứ ai ra đời trước thì là anh,là chị.Phân theo tuổi tác chứ không phân theo thứ hay trưởng.
Tục ma chay người Mường : Khi người cha hoặc mẹ tắt thở thì người con trai trưởng cầm dao nín thở và chặt 3 nhát dao vào khung cửa sổ gian thờ,sau đó gia đình nổi chiêng phát tang,thi hài người quá cố được liệm bằng nhiều lớp vải vaf quần áo theo phong tục và để vào trong quan tài bằng thân cây được khoét rỗng,bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì,nhìn chung tang lễ người Mường gần giống với người Kinh nhưng điểm khác lớn nhất là con dâu,cháu dâu phải chịu tang ông bà,cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.Khi người con trai trong gai đình chống gậy tre thi là bố mất còn chống gậy gôc là mẹ mất.
Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong lễ tang người Mường,khi tế quạt ma thì con dâu trong nhà người có tám tang phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp gồm :váy đen,cạp mới,áo ngắn,áo chùng trắng,yếm đỏ,2 tay đeo vòng hạt cườm,tay phải cầm quạt cọ múa,tay trái cầm que gậy,đầu đỗi mũ quạt được trang trí tua hạt cườm,phía trước đặt một chiếc ghế mây.

TỤC TANG LỄ NGƯỜI MƯỜNG 


NGHĨA TRANG ĐÁ CỔ CỦA NGƯỜI MƯỜNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN Ở TỈNH HÒA BÌNH

 

Văn hóa tính lịch của người Mường : Họ lấy 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng,trên mỗi thẻ có khắc các ký hiệu khác nhau để xem ngày,tính toán và khởi sự công việc.Tuy nhiên người Mường ở mường Bi lại có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác đó là cách tính ngày lùi,tháng tới.
Người Mường có nhiều lễ hội quanh năm như lễ hội : Xuống đồng,hội cầu mưa,lễ rửa lá lúa...


MỘT SỐ LỄ HỘI TRONG NĂM CỦA NGƯỜI MƯỜNG

Văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú,các thể loại như : thở dài,bài mở,truyện cổ,dân ca,ví đúm,tục ngữ,người Mường còn có hát ru e,đồng dao,hát đập hoa,hát đố...Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường ,ngoài ra còn có nhị,sáo,trống,kèn lù,Riêng người Mưởng ở Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là "Đâm đuống",Tín ngưỡng thì họ thờ cúng tổ tiên ông bà.

Hát xéc bùa là nghệ thuâtj dân gian được nhều du khách ưu thich nhất...



Đàm Minh Phiếu

Wednesday, June 22, 2016

Người Mường ở Ninh Bình và những yếu tố văn hoá truyền thống (Ngô Cao Thắng)

Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có khoảng trên hai mươi nghìn người Mường, cư trú vừa tập trung, vừa rải rác và xen kẽ với đồng bào Kinh, thuộc huyện miền núi Nho Quan (gồm các xã: Thạch Bình, Xích Thổ, Yên Quang, Văn Phương, Cúc Phương, Kỳ Phú, Phú Long và Quảng Lạc). Dân tộc Mường ở Ninh Bình gồm có bốn nhóm cộng đồng, theo tên gọi riêng là: Mường Vang ở các xã Thạch Bình, Xích Thổ, Yên Quang; Mường Rậm ở các xã Cúc Phương, Văn Phương; Mường Bơ ở xã Quảng Lạc; Mường Kỳ Lão ở các xã Kỳ Phú, Phú Long.

Các di sản văn hoá truyền thống (vật thể và phi vật thể) của người Mường ở Ninh Bình rất phong phú, đặc sắc, được lưu tồn từ lâu đời.
Về nhà ở, từ xa xưa, nhà truyền thống của người Mường vốn là nhà sàn Mường (có dáng dấp, kiến trúc riêng so với nhà sàn của các dân tộc anh em khác).   Nhà sàn chính là hiện thân của đời sống người Mường và văn hoá Mường.
Người Mường vốn có trang phục riêng của cả nam và nữ khá độc đáo, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của sắc phục cổ truyền Việt Nam. Bộ trang phục nữ giới thường gồm có áo cánh dài tay, thân áo khá cộc, yếm; váy là cả một tấm vải khá rộng được quấn gọn quanh eo, dài gần tới sát gót chân, có dải nẹp váy khá rộng bản, được thêu các hoạ tiết hoa văn đặc sắc, công phu; khăn đội đầu thường là một tấm vải màu trắng, nổi bật vì sự tương phản màu sắc với mái tóc đen. Bộ trang phục nam giới thì khá đơn giản, thông thường là bộ áo quần “ta”, tựa như áo quần trước kia của nông dân người Kinh, có màu nâu hoặc gụ. Bảo tồn trang phục dân tộc Mường, đặc biệt là trong các dịp lễ hội đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu, góp phần bảo tồn di sản văn hoá truyền thống của một dân tộc.
Truyền thuyết dân gian của người Mường rất phong phú, đặc biệt là các truyện cổ tích. Đó là một phần quan trọng trong kho tàng truyện cổ dân gian của người Việt cổ. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của người Mường hay đúng hơn là nguồn gốc của một cộng đồng Mường, về nguồn gốc, lai lịch của các sự vật, hiện tượng thường được người Mường lý giải gắn liền với sự sống, quá trình sinh trưởng của các loài vật (như voi, chó săn, cá chép…). 
Lịch Mường là một hệ lịch riêng, được ấn định gần giống với âm lịch nhưng mang những nét độc đáo riêng, được lưu tồn từ lâu đời theo lối truyền khẩu và được áp dụng một cách tự giác. Theo truyền thuyết thì lịch Mường cổ xưa do nhà vua ban ra. Cách thức tính ngày tháng trong hệ lịch Mường là dựa trên cơ sở chiêm nghiệm tự nhiên thông qua những hiện tượng diễn ra thường xuyên theo chu kỳ nhất định, đặc biệt là đối với những vật nuôi, cây trồng quen thuộc hoặc những hiện tượng thiên nhiên vẫn thường diễn ra trong môi trường sống. 
Kho tàng dân ca Mường gồm có hát đúm, hát rằng thường, hát sắc bùa, hát ru… Hát đúm là loại dân ca giao duyên. Hát ru để ru con ngủ cũng tựa như hát ru ở các dân tộc anh em khác. Hát sắc bùa là những bài hát chúc tết vào mỗi dịp đầu xuân, với làn điệu riêng. Đặc biệt, hát rằng thường được người Mường vận dụng trong nhiều hoàn cảnh, tình huống trong đời sống hàng ngày, song phổ biến nhất là trong mỗi dịp làm quen, giao tiếp, biểu lộ tình cảm, tình yêu nam nữ. Hát rằng thường, hát sắc bùa có kết hợp các yếu tố “thiêng” và “tục”, nghĩa là trong mỗi cuộc hát có kết hợp những nghi lễ tín ngưỡng dân gian. Hầu hết các loại dân ca Mường khi hát đều không thể thiếu tiếng cồng chiêng ngân nga phụ họa, vì cồng chiêng từ lâu đời đã đi sâu vào tâm thức và không thể thiếu vắng trong mọi sinh hoạt văn hoá văn nghệ của dân tộc Mường. Hát đúm giao duyên là những điệu hát dành cho nam nữ thanh niên, các đôi trai gái vào những dịp nông nhàn, đặc biệt là vào mùa xuân…
Ngô Cao Thắng (sưu tầm)

Nét độc đáo trong kiến trúc nhà sàn dân tộc Mường (Cao Uyên)

Nhà sàn của người Mường không lẫn với nhà sàn của người Thái và không giống với những ngôi nhà của các dân tộc khác. Những ngôi nhà sàn này độc đáo từ cách chọn hướng, dựng nhà cho tới cách bố trí những đồ vật trong ngôi nhà.


Người Mường rất thận trọng trong chọn hướng nhà, họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc, may mắn đến cho gia đình và theo quan niệm của người Mường, làm nhà không được ngược hướng với đồi núi. Thường, việc chon hướng nhà được tổ chức thành nghi lễ và do những thầy cúng, ông mo thực hiện. Những thầy cúng, ông mo chọn hướng nhà sao cho hợp với gia chủ (thường là nam giới, là người lớn tuổi và trụ cột trong gia đình).

Cách bố trí không gian sống của người Mường cũng rất đặc biệt. Nhà sàn với những bậc cầu thang lẻ (vợ ông Xuân Méng ở xóm Nội Sung – xã Hạ Bì) cho biết: Theo quan niệm của người Mường, họ không sử dụng số chẵn để làm các bậc cầu thang vì những điều kiêng kỵ và không đem lại may mắn.
Trong một ngôi nhà sàn thường sử dụng 2 cầu thang, một trước nhà, một nữa đặt ở cửa sau gần với vại nước, bếp, tiện cho đi lại, nấu nướng của người phụ nữ trong nhà. Thông thường trước nhà, gần lối đi chính và gần cầu thang hay gần các gốc cây trước nhà người Mường có đặt chum nước nhỏ, một gáo múc nước làm bằng những ống tre, nứa để cho khách rửa chân mỗi khi lên nhà.



Một ngôi nhà sàn thường được chia thành các gian, nhà càng nhiều gian chứng tỏ gia đình đó càng khá giả. Mỗi gian bày biện những đồ vật khác nhau, có những ý nghĩa nhất định. Gian thứ nhất sử dụng để tiếp đón khách và treo những đồ vật linh thiêng trong nhà như: cồng chiêng, các loại trống, cung nỏ và có khi là các loại sừng trâu, sừng bò hay sừng tê giác hay treo các mũi tên…, tiếp đến ở gian thứ giữa là nơi để cho đàn ông, con trai trong nhà ngủ và là nơi để thóc lúa, các tài sản như tủ, hòm. Còn gian thứ ba là nơi bày biện, chuẩn bị mâm cơm, nơi để chăn màn, quần áo của cả nhà và là nơi của những người phụ nữ, trẻ em.


Điều đặc biệt là nhà sàn Mường thường nhiều cửa voóng (cửa sổ), mỗi gian có từ 1 đến 2 cửa voóng. Các voóng đều được làm bằng gỗ, vì vậy, mùa hè ở trên những ngôi nhà sàn này rất mát mẻ. Bếp thường được để ở gian giữa và bếp – chính là linh hồn của nhà sàn Mường, nó không chỉ là nơi để nấu ăn đơn thuần mà còn là nơi để tâm tình, chia sẻ. Khi mùa đông đến, cả nhà ngồi quây quần bên bếp lửa, chia sẻ  những chuyện thường ngày.

Hiện nay, nhà sàn vẫn giữ được đầy đủ những đặc điểm kiến trúc cổ xưa nhưng mỗi nhà sàn vẫn còn thể hiện được dáng dấp của một nền văn hóa đã có từ lâu đời, Nhà sàn vẫn luôn được coi là minh chứng rõ nét nhất về cuộc sống và những phong tục, tập quán đẹp đẽ của người Mường.
Trong cuộc sống thường ngày, những ai đã từng được sống  trong ngôi nhà sàn có lẽ  đối với họ không đâu mộc mạc, gần gũi hơn những ngôi nhà sàn xưa cũ – nơi đã lưu giữ được trọn vẹn linh hồn của những con người dân tộc Mường.

Cao Uyên (sưu tầm)

Phục dựng lễ cưới truyền thống của dân tộc Mường tại xã Hòa Thắng, Buôn Ma Thuộc (Bùi Văn Sơn)

Đại diện họ nhà trai "mặc cả" để được nhà gái mở cổng tơ hồng cho vào nhà.

Việc phục dựng nhằm khôi phục, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của người Mường đang sinh sống trên địa bàn tỉnh. Lễ cưới truyền thống của người Mường có nhiều tập tục như: Lễ dạm ngõ, Lễ ăn hỏi, Lễ cưới, Lễ xin dâu, Lễ lại mặt.


...chỉ khi nạp đủ 6 quan tiền, họ nhà gái mới mở cổng tơ hồng mời họ nhà trai vào nhà

Việc dạm ngõ diễn ra vào lúc chiều tối, với mục đích hỏi nhà gái có đồng ý gả con, xin ngày hỏi, cưới và quà cưới. Lễ cưới của người Mường có nhiều tập tục, quy định khác với đám cưới truyền thống của các dân tộc khác. Độc đáo nhất là việc nhà trai “mặc cả” để được nhà gái đồng ý mở cổng tơ hồng cho vào nhà làm lễ. Cụ thể, nhà gái giăng dây tơ hồng trước cổng nhà. Khi nhà trai đến, những chàng trai, cô gái nhà gái tay cầm đãi trầu đứng hai bên cổng ở phía bên trong dây tơ hồng để chào nhà trai xin lễ (tiền) vào cổng.

Đại diện họ nhà gái nhận lễ vật của nhà trai

Việc “mặc cả” diễn ra cho đến khi nhà trai đưa đủ 6 quan tiền vào cửa, lúc ấy họ nhà gái mới mở cửa tơ hồng để đón họ nhà trai vào nhà làm lễ gia tiên.

Họ nhà tra trao tiền thách cưới cho họ nhà gái

Một điểm độc đáo nữa trong Lễ cưới truyền thống của người Mường, ngày hôm sau, nhà trai đến nhà gái xin rước dâu. 

Cô dâu, chú rể làm lễ gia tiên

Đến nhà chồng, nhà trai cử một bà mụ dâu dắt cô dâu từ ngoài đường vào nhà, đến chân cầu thang (hoặc bậc thềm), nhà trai để sẵn một lu nước và một cái gáo múc nước, bà mụ múc nước rửa chân cho cô dâu. Sau khi rửa chân xong, đội nón cho cô dâu và dắt thẳng vào bếp. Ở đó nhà trai để sẵn một mâm cỗ trên một chiếc chiếu, cô dâu ngồi xuống chiếu, đầu vẫn đội nón và lạy vua bếp (ông táo).Ý nghĩa của việc này: về làm dâu nhà chồng trông nhờ vào ông vua bếp chỉ bảo để lo cơm canh cho gia đình chồng được êm ấm, hạnh phúc. 

Bùi Văn Sơn (sưu tầm)