Mc tiệc cưới, học làm mc đám cưới, video đám cưới hay nhất: ₪ Dân tộc Sán Dìu
Showing posts with label ₪ Dân tộc Sán Dìu. Show all posts
Showing posts with label ₪ Dân tộc Sán Dìu. Show all posts

Thursday, April 6, 2017

Ngày hội văn hóa các dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên (Hoàng Minh Thắng)

Ngay từ sáng sớm, trên những con đường dẫn về sân tổ chức sự kiện xã Nam Hòa huyện Đồng Hỷ, chúng tôi chứng kiến dòng người tấp nập cùng đông đảo các nghệ nhân dân tộc Sán Dìu từ các huyện, thành, thị trong tỉnh Thái Nguyên xúng xính với những chiếc váy đặc trưng của dân tộc mình háo hức rảo bước đến với ngày hội.

Ngày hội văn hóa các dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên lần thứ Nhất năm 2016 thu hút sự tham gia của 9 đội văn nghệ, thể thao đến từ 6 đơn vị: Thành phố Thái Nguyên, T.P Sông Công; Thị xã Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Lương, Phú Bình, cùng đông đảo người dân các dân tộc trong tỉnh. Chương trình còn có sự tham gia biểu diễn của các nghệ sĩ, diễn viên của đoàn nghệ thuật tỉnh cùng các nghệ nhân cao niên, thanh niên đại diện cho các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn. Đoàn nghệ nhân thị xã Phổ Yên gồm có 25 nghệ nhân tham gia các phần thi chính trong ngày hội gồm: Thi hát Soọng Cô, thi Văn hóa ẩm thực dân tộc Sán Dìu, thi kéo co, đi cà khoeo. . Đến với ngày hội, ban tổ chức cùng đông đảo người dân được đắm mình trong không khí rộn ràng, náo nhiệt với những hoạt động văn hóa đặc sắc, thưởng thức ẩm thực độc đáo như: cà gém, nem chua, xôi đen, bánh do, bánh lẳng, bánh nếp và rượu thuốc... hay đắm mình trong những làn điệu hát Sọng cô của dân tộc Sán Dìu.


Ngày hội văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên lần thứ nhất năm 2016 tỉnh là sân chơi bổ ích, có ý nghĩa giáo dục để tăng thêm niềm tự hào về bản sắc văn hóa, góp phần tuyên truyền, quảng bá những giá trị văn hóa phong phú, độc đáo của dân tộc Sán Dìu. Và đây cũng là cơ hội để các dân tộc Sán Dìu trên địa bàn tỉnh có cơ hội trao đổi, giao lưu văn hóa, văn nghệ, các sản phẩm ẩm thực đặc trưng của dân tộc.


Kết thúc Ngày hội, Ban Tổ chức đã trao giải Nhất toàn đoàn cho Đội xã Linh Sơn huyện Đồng Hỷ; giải Nhì toàn đoàn cho T.X Phổ Yên và xã Nam Hòa huyện Đồng Hỷ; giải Ba toàn đoàn cho xã Hóa Thượng huyện Đồng Hỷ, xã Bàn Đạt huyện Phú Bình; giải Khuyến khích toàn đoàn cho T.P Thái Nguyên, xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương, xã Tân Lợi huyện (Đồng Hỷ và đoàn T.P Sông Công.
Ngoài ra Ban Tổ chức cũng trao các giải Nhất, Nhì, Ba và khuyến khích cho các đội dự thi ở các phần thi: hát Soọng Cô, Văn hóa ẩm thực dân tộc, kéo co, cà khoe.
Hiện nay, Thái Nguyên là tỉnh có đông người Sán Dìu nhất cả nước (chiếm 29,59%), đứng thứ 4 trong các dân tộc trong tỉnh, phân bố ở các vùng bán sơn địa, tập trung đông nhất là ở các huyện: Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Lương, Phú Bình. Người Sán Dìu có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú, đa dạng, trong đó Soọng Cô là một nét văn hóa truyền thống đặc trưng của dân tộc Sán Dìu. Tại ngày hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã trao Quyết định Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia đối với loại hình hát Soọng Cô của người Sán Dìu và nghi lễ Hét Khoăn của người Nùng.

 Hoàng Minh Thắng

Monday, August 15, 2016

Hát đám cưới của dân tộc Sán Dìu (Bá Đạt)

Ông đại diện nhà gái lễ gia tiên rồi mời rượu hai họ.

Mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung thường có lễ thức hát trong đám cưới khác nhau. Những lối hát xưa nay đã mai một. Từ sau khi có nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ V (khoá 8), việc khôi phục lối hát truyền thống lại được chú trọng và phát triển hơn, hình thành nhiều câu lạc bộ hát dân ca các dân tộc, như: Sán Dìu, Sán Chí, Tày, Nùng, Cao Lan v.v trong đó hát dân ca dân tộc Sán Dìu là thể loại hát độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc, được phục hồi ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Nhân mùa cưới đang đến, xin giới thiệu lối hát đám cưới của người dân tộc Sán Dìu nơi đây tại làng Muối, xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn.

Hát trong đám cưới là nét văn hoá đặc trưng, cổ truyền của dân tộc Sán Dìu từ bao đời, được lưu truyền cho đến nay. Thể loại hát giữa hai họ từ buổi chiều trước ngày cưới chính thức, khi nhà trai mang lễ vật sang nhà gái (hai họ hát tại nhà gái). Nghi thức hát có 4 phần: hát chào đón, hát khai hoa tửu, hát cung kính cùng hát chúc và đố chuyện nghi lễ.

Đoàn nhà trai mang lễ đến nhà gái.

Hát chào đón, đó là lúc họ nhà trai mang lễ vật đến nhà gái, hai họ gặp nhau, chào đón bằng lối hát ngoài cửa của nhà gái.

Hai họ hát đối trước cửa nhà gái.
Họ nhà gái cất lên: (trích)
Pha lán tạnh chấy ít théo khổng
Khống lống bọi sọng ít sông hống
Dịu dón kim mạn sênh ca chíu
Sênh ca chíu lạy ngỏi lán hống.
Họ nhà trai đáp lời:
Hống vún lói chép cao san cạy
Hách vún lói chép ốc dém thói
Dịu don kim mạn sênh ca chíu
Leng con sút chép tam lóng thói.
Dịch nghĩa của bài hát:
Lễ nghi họ gái bày trước cửa
Thiếp hồng nghênh tiếp giưã đường môn
Hôm nay ngày đẹp thành hôn lễ
Chào đón qua viên họ trai sang.
Sao sáng đến gặp mây tương ngộ
Một lòng một dạ đến kết duyên
Hôm nay ngày đẹp thành hôn lễ
Lễ vật dẫn sang kính gia tiên.
Tiếp theo là các bài hát khai hoa tửu được thể hiện tiếp: (trích)
Láp sọng nhóng món cay báo sác
Hông sui dóng dịu dẹp sang sống
Dịu dón kim mạn sếnh cô hô chú công.
Dịch nghĩa trong bài hát:
Đã có bạn trai thương yêu mến
 ông tơ bà nguyệt se lứa đôi
 ngày lành tháng tốt dâng hôn lễ
hạnh phúc tràn đầy một niềm vui.
Phần hát khai hoa tửu, nhiều bài hát còn dài mang ý nghĩa đáp đền công lao cha mẹ nuôi dạy con thành người. Nay về làm dâu đều yêu thương thành kính cha mẹ tổ tiên hai bên như nhau…Hết phần hát khai hoa tửu lại tiếp đến phần hát cung kính cùng hát chúc: (trích)
Hoi híu leo/ Tam váng tạnh chấy lép váng thói
Na cọi mói nhín lói cón chíu
Na cọi tạm lóng ben sút lói.
Dịch nghĩa trong bài hát:
Quan viên hai họ cùng dâng lên
Dâng chén rượu đào kính gia tiên
Hai nhà thông gia thành hôn lễ
Hạnh phúc đôi trẻ mãi vững bền…
Lời hát dâng rượu kính gia tiên và chúc cho đôi trẻ thành hôn của hai họ mang ý nghĩ cung kính và sâu sắc nghĩa tình thông gia…Và còn biết bao câu hát khác mang giá trị nhân văn và nghĩa tình vợ chồng: Rể tài, dâu thảo luôn hạnh phúc/ Ra hoa kết trái truyền tương lai…Nhưng phần cuối của lối hát trong đám cưới mới hấp dẫn và được đối đáp thông minh, đó là đố chuyện lễ nghi.

Một ông trong dòng họ với bà của cô dâu ngồi giữa giường đem khay nước có hoa văn đẹp trong đó đựng chai rượu được để trong rọ đan bằng tre và hai quả trứng do họ nhà trai mang sang rồi nói đố chuyện, với các câu hỏi đố (xin trích, dịch là):
Hôm nay ngày đại lễ thành hôn, xin mời các quan viên hai họ cùng ngồi gần bên chum rượu đào cho vui và xin hỏi quan viên hai họ biết chữ hay biết chuyện. Biết chữ thì đố chữ, biết chuyện thì đố chuyện? Không hiểu, không biết thì mong cùng trợ giúp? Xin hỏi quan viên họ nhà trai, trên đường dẫn lễ đi có thuận không. Có tâm đến không? Dù giải được hay không giải được cũng xin mời cùng nâng lên chúc nhau ba chén.
Trưởng đoàn họ nhà trai đáp lại rằng: Kính thưa các cụ, kính thưa hội hôn. Họ nhà trai tôi, trường học qua ít, chữ nghĩa không nhiều, chuyện không am hiểu, mong các cụ miễn thứ cho. Đúng ngày lành, tháng tốt nên họ nhà trai chúng tôi, có tâm, có dạ, đi đường đều thuận cả...
Đố chuyện lễ nghi, cứ thế chính là cớ gặp nhau giữa hai họ để câu chuyện thêm rôm rả. Cho hai họ xích lại gần nhau. Kết của hồi đố chuyện lại là chén rượu. nhưng lần này là rượu được pha hai quả trứng cho vào bát để trên ban thờ kính gia tiên từ lúc trước khi đố, bây giờ đem xuống rót mời hai họ thưởng thức, chúc cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc.
Hát trong đám cưới như vậy là một phong tục đẹp, mang bản sắc văn hoá dân tộc rất cần được phát huy, phát triển. Mong rằng, các dân tộc trên đất Việt thân yêu cùng gìn giữ, bảo tồn và phát huy hơn nữa; đồng thời, những gì ngoại lai, không phù hợp với thuần phong mỹ tục cần giảm dần và loại bỏ, kể cả việc lạm dụng phương tiện tăng âm, loa đài ầm ĩ, đinh tai nhức óc, làm náo loạn xóm phố, như tra tấn người đến dự đám cưới./.
 Bá Đạt (sưu tầm)

Độc đáo trang phục dân tộc Sán Dìu vùng Tây Bắc (Nông Gia Khảm)

Trang phục Sán Dìu của nam và nữ đều do đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Sán Dìu làm ra. Người phụ nữ Sán Dìu luôn mặc hai áo đi theo cặp, áo trong màu sáng (gọi là yếm), áo ngoài màu đen có 3 vạt, cổ áo hình chữ V, được nẹp bằng vải trắng, trên cổ áo có gắn hai chiếc cúc bằng bạc tạo âm thanh vui nhộn khi mặc bộ trang phục.

Rìa cổ áo được viền một dải nhỏ vải khác màu. Váy có hai mảnh được khâu chéo, nhiều nếp gấp, rộng, xoè ra như cánh hoa, phần cạp váy được khâu xếp lại, có hai dây để buộc cho vừa một vòng bụng. Thêm nét duyên dáng cho người phụ nữ Sán Dìu, bộ trang phục còn có chiếc dải váy được dệt bằng chỉ nhiều màu, dây xà tích, vòng cổ, vòng tay bằng bạc.
Bộ trang phục của người Sán Dìu không thể không nói tới hai chiếc khăn thắt ở eo lưng và xà cạp. Thắt lưng có 4 màu: Xanh, đỏ, tím, hồng, mỗi cái dài 1,2 m đến 1,5 m, rộng 20 cm đến 30 cm, được làm bằng vải mỏng, hai đầu làm tua rủ. Người phụ nữ Sán Dìu thường vấn tóc, quấn khăn theo hình mỏ quạ. Đặc biệt, trong trang phục người phụ nữ Sán Dìu còn có thêm chiếc túi đựng trầu khâu theo hình múi bưởi với tua dua được dệt bằng chỉ đỏ, thường buộc quanh thắt lưng để đựng các têm trầu, đi đôi với túi đựng trầu là con dao cau được chạm trổ cầu kỳ thường được chị em dùng như một thứ trang sức để trưng diện.
Trang phục của đàn ông Sán Dìu lại đơn giản, mộc mạc hơn nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp khoẻ khoắn, mạnh mẽ. Áo có màu chàm, được may theo kiểu bà ba, có hai túi rộng, quần dài, cạp chun, ống quần rất rộng để thuận lợi cho việc leo núi, đồi. Trong những ngày lễ tết, đám cưới, hát giao duyên người Sán Dìu xúng xính trong những bộ trang phục mới hơn ngày thường. Điều đáng chú ý là bộ trang phục của người Sán Dìu do chính đôi bàn tay người phụ nữ Sán Dìu nhuộm màu cho vải để có những màu sắc ưng ý.Đối với bộ trang phục phụ nữ người Sán Dìu, công đoạn nhuộm chàm mất khá nhiều thời gian, trồng cây chàm nhuộm vải cũng vất vả, cầu kỳ. Người phụ nữ Sán Dìu đến nơi ở mới không quên mang theo hạt chàm giống. Chàm được trồng vào tháng 2 và thu hoạch vào tháng 7, chàm cắt về, rửa sạch cắt thành từng khúc ngâm vào vại, qua một đêm thứ nước đó được hoà với nước tro bếp và một bát nước vôi (theo kinh nghiệm phải có tro bếp và vôi mới giữ được màu), sau đó khuấy đều, để lắng 30 phút, lấy thứ nước lắng phía bên dưới có màu vàng đem phơi khô. Đến đây, người phụ nữ Sán Dìu lại lên rừng tìm đủ 4 loại cây: Cây chỉ thiên, cây lau sau, cây dáp thanh, vỏ cây núc nác mang về ngâm cùng cốt cây chàm đã khô. Theo người Sán Dìu, cây chàm phải được ngâm cùng bốn loại cây này thì vải mới lên được màu sẫm. Sau một tuần thì bắt đầu thả vải vào ngâm. Đây là công đoạn thứ 2, vải nhuộm một lần có màu xanh lợt, dễ phai, nhuộm nhiều lần rồi mang phơi nắng, sắc xanh nhạt sẽ thẫm lại thành sắc chàm sẫm như màu của núi rừng. Vải đem nhuộm phải là vải tấm, dày, sợi chỉ bắt màu.
Đối với trang phục của nam giới người Sán Dìu thì công việc nhuộm vải không mất nhiều thời gian. Người phụ nữ Sán Dìu bung củ nâu, khi nước có màu đỏ đồng thì đưa vải vào ngâm. Vải cũng được ngâm thành nhiều lần rồi phơi nắng. Khi vải đã có màu chàm thì đem giặt sạch với nước giếng rồi phơi lại một lần nữa. Người Sán Dìu thường để mặt phải củatấm vải hướng về phía mặt trời để vải bắt màu. Như vậy là hoàn thành việc nhuộm chàm cho bộ trang phục. Đôi bàn tay người phụ nữ Sán Dìu xanh màu chàm là dấu ấn của những lần nhuộm chàm. Người phụ nữ Sán Dìu khi đã làm mẹ có nghĩa vụ dạy bảo con gái trồng chàm và nhuộm vải chàm. Người Sán Dìu đánh giá tài năng, đức hạnh của người phụ nữ thông qua khả năng nhuộm chàm. Trang phục của người Sán Dìu được hình thành theo tháng ngày nhọc nhằn của người phụ nữ. Đó là một tác phẩm nghệ thuật người Sán Dìu làm ra với sự cần cù, khéo léo góp phần tô điểm cho vườn hoa văn hoá các dân tộc./.
Nông Gia Khảm (sưu tầm)

Độc đáo di sản của người Sán Dìu (Hoàng Thị Thắng)

Làm bánh dày, bánh boong rằm tháng 7

Là một dân tộc thiểu số, chịu nhiều tác động, song không ít di sản văn hóa đặc trưng vẫn được cộng đồng người Sán Dìu gìn giữ.
Phong tục lạ

Anh Lê Duy Mạnh, thành viên Ban chủ nhiệm đề tài điều tra, nghiên cứu về phong phục tập quán của các dân tộc thiểu số ở thị xã Chí Linh (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tiết lộ: “Bắc An có đông người Sán Dìu cư trú nhất, trong đó tập trung tại Chín Thượng và Chín Hạ. Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, song lớp người cao tuổi trong cộng đồng người Sán Dìu vẫn bảo lưu nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc".

Diện mạo Bắc An đã đổi thay nhưng dấu ấn của một xã miền núi vẫn hiện rõ qua những con đường đất đỏ chạy dài hun hút. Ngôi nhà cấp 4 mà chúng tôi đến nằm trên một bạt đồi khá rộng. Chủ nhà là bà Lưu Thị Chinh, ngoài 70 tuổi, một phụ nữ Sán Dìu nắm giữ nhiều vốn di sản truyền thống của ông cha.

Câu chuyện của chúng tôi xoay quanh những phong tục độc đáo được người Sán Dìu duy trì cho đến nay. Trong việc tang, có thầy cúng làm lễ để chuộc tội cho người mất. Khi đưa ma, con cái người chết phải thực hiện nghi lễ tiễn đưa. Còn con dâu phải gánh lương thực và cầm bó đuốc cháy soi đường cho bố mẹ. Ngày trước, người Sán Dìu chỉ thực hiện lễ cúng 100 ngày và lễ sang áo. Ngày nay, tiếp thu văn hóa người Kinh, mỗi năm họ đều tổ chức lễ giỗ.

Trong việc cưới, người Sán Dìu phải có bà mối. Khi đôi trai
“Nếu không khẩn trương nghiên cứu và đề ra các biện pháp bảo tồn, phục dựng, truyền thụ thì khi lớp người cao tuổi ở Sán Dìu mất, nhiều di sản sẽ mất theo”.

gái đã ưng nhau, bà mối được nhà trai nhờ đến nhà gái hát lấy lá số mang về. Sau đó, nhà trai sắm lễ cau trầu, hoa quả để bà mối chính thức đến nhà gái đánh tiếng. Khi nhà gái ưng thì bà mối lại đến lần thứ ba để xem nhà gái thách cưới. Ngày trước, nhà gái sẽ thách cưới vài chục cân thịt, vài chục lít rượu cùng quần áo cô dâu, hoa tai vàng, vài chục triệu đồng tiền mặt. Ngày nay, thách cưới đã bớt nặng nề. Ngoài các mâm lễ hoa quả, bánh kẹo như của người Kinh, nhà gái thường thách tiền mặt, trên dưới 10 triệu đồng. Bà Lưu Thị Chinh cho biết: “Mặc dù thủ tục đã đơn giản song lễ cưới của người Sán Dìu vẫn có những đặc trưng riêng. Trong đám cưới sẽ có phần hát đối giữa nam và nữ. Đặc biệt trên mâm cỗ cưới của người Sán Dìu nhất thiết phải có món khâu nhục. Đây là món ăn làm từ thịt lợn ba chỉ để cả miếng lớn ướp gia vị, mật ong hấp cách thủy".

Một nét văn hóa khá đặc trưng nữa của người Sán Dìu là làm các loại bánh vào các dịp lễ, Tết. Đồng bào quan niệm, trong năm có 5 dịp lễ, Tết lớn là Thanh minh, ngày 5-5 âm lịch, 14-7 âm lịch, ngày đông chí và Tết Nguyên đán. Trong những dịp này, ngoài làm cỗ, người Sán Dìu còn làm các loại bánh boong, bánh nghé, bánh lá mít, bánh tét... "Mỗi loại bánh chỉ làm vào từng dịp. Chẳng hạn, bánh tét chỉ làm dịp Tết Nguyên đán. Ở đây gia đình nào cũng trồng vài khóm chít để lấy lá gói bánh dịp cuối năm", bà Chinh nói.

Bánh lá mít được làm phổ biến nhất trong các dịp lễ, Tết. Cách làm loại bánh này cũng khá đặc biệt. Gạo nếp đem giã thành bột, nhào dẻo, đỗ xanh ngâm nước, đồ chín, đánh nhuyễn rồi xào với thịt, hành, gia vị làm nhân. Khi làm bánh, nặn bột thành hình chiếc chén, bỏ nhân vào, vít kín miệng rồi đem luộc. Khi chín bánh được gắp ra chiếc lá mít, có hình giống chiếc mào gà.

Tri thức dân gian phong phú
Người Sán Dìu còn bảo lưu nhiều tri thức dân gian độc đáo, nổi bật là kiến thức y học. Những thầy lang người Sán Dìu đang lưu giữ rất nhiều sách y học, bài thuốc dân gian quý từ các loại cỏ cây chữa các bệnh hiểm nghèo như gan, xương, khớp... Những người cao tuổi ở đây đều biết sử dụng các loại dược liệu tự nhiên để chữa các bệnh đơn giản. Bà Phạm Thị Xuân, chị chồng của bà Chinh cho biết: “Tôi thường bị chứng đau nhức gối. Mỗi lần bị đau tôi lại tự đốt ngải chữa cho mình”. Cách đốt ngải chữa bệnh khá phổ biến trong cộng đồng người Sán Dìu. Người đốt ngải dùng que hương cháy châm vào lá ngải đã phơi khô rồi thổi hơi nóng hoặc đưa nhúm lá ngải lại vùng bị đau để chữa bệnh.

Người cao tuổi Sán Dìu đang lưu giữ một lượng lớn các bài hát dân ca. Rất nhiều bài hát dân ca vẫn đang được sử dụng trong cuộc sống thường nhật và các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tại địa phương. "Hát dân ca đã trở thành sinh hoạt thường nhật của chúng tôi. Mọi việc chúng tôi đều có thể vận thành các bài hát dân ca”, bà Chinh cho biết thêm.

Khi đi làm nương, đám cưới, đám ma, mừng nhà mới, hội làng, năm mới, ru con, ru cháu... người Sán Dìu đều có thể nảy các bài hát. Các bài dân ca của người Sán Dìu có vần điệu theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc lục bát. Bà Chinh và bà Xuân hát cho chúng tôi nghe một bài mừng năm mới bằng tiếng dân tộc, sau đó dịch ra tiếng Kinh. Tiếng hát nhẹ nhàng, trầm lắng, như lời tâm tình, thủ thỉ: “Hát lên bài ca mừng năm mới/Xuân về xuân tới nở như hoa/Xuân về mưa xuân thật ẩm mát/Hoa màu tươi tốt ngập đồng ta”.

Theo thống kê, người Sán Dìu có trên 20 bài về năm mới. Ngày xưa, dịp Tết trai gái tổ chức hát đối ngoài đường. Giờ đây, mọi người thường tập trung hát ở sân đình. Tuy nhiên, hát dân ca bằng tiếng dân tộc chỉ còn ở lớp người ngoài 70 tuổi. Thế hệ trẻ nghe thì vẫn hiểu nhưng người hát được rất hiếm.

Anh Lê Duy Mạnh cho biết: Nhằm nghiên cứu, đánh giá tiến tới lựa chọn những di sản văn hóa độc đáo để bảo tồn, năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai đề tài điều tra, khảo sát, kiểm kê, sưu tầm giá trị di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số trên địa bàn thị xã Chí Linh. Đề tài dự kiến kết thúc năm 2015. Qua điều tra ban đầu, phong tục tập quán của người Sán Dìu ở xã Bắc An khá phong phú. Trong đó nổi bật là tri thức y học đang được các thầy lang người Sán Dìu lưu giữ; các bài hát dân ca, hát ru và những phong tục độc đáo trong việc ma chay, cưới xin của đồng bào nơi đây...

Mặc dù người Sán Dìu có vốn di sản quý, song hầu như chỉ còn được lưu giữ trong lớp người cao tuổi. Những thế hệ sau hiểu rất ít về phong tục tập quán cha ông. Nếu không khẩn trương nghiên cứu và đề ra các biện pháp bảo tồn, phục dựng, truyền thụ thì khi lớp người cao tuổi ở Sán Dìu mất, nhiều di sản sẽ mất theo.

Hoàng Thị Thắng (sưu tầm)

Lễ cấp sắc của dân tộc Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang (Hoàng Thị Vinh)

Bắc Giang là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Sán Dìu là dân tộc có dân số khá đông trong nhóm dân tộc thiểu số (khoảng 24.000 người), thì huyện Lục Ngạn chiếm số lượng đông nhất, lên tới gần 20.000 người.

Người Sán Dìu có những quan niệm và nhận thức rất nguyên sơ về thế giới và vũ trụ, họ cho rằng con người đang sống đều phải chịu sự chi phối của các mối quan hệ trong cộng đồng và chịu sự chi phối của thế giới thần linh. Khi sống ở trần gian, những ai có được sự cấp sắc để làm thày cúng mới có thể bảo vệ được bản thân, gia đình và trị bệnh cứu người. Người được cấp sắc khi chết không sợ bị mất tên tuổi mà được thờ cúng từ đời này qua đời khác. Vì vậy, nhiều người đàn ông Sán Dìu mặc dù tốn kém cũng cố gắng học hành để được cấp sắc làm thày.


Tiến hành lễ cấp sắc, người được cấp sắc phải theo thày học chữ Hán và học cúng từ nhiều năm trước đó. Đồng thời, với việc học là việc chuẩn bị tiền bạc để có thể tổ chức lễ cấp sắc. Cấp sắc của người Sán Dìu có 3 bậc, bậc thứ 3 là cao nhất. Nếu người đã có vợ thứ hai thì không được cấp sắc bậc thứ 3. Nếu đã thành thày cấp 3 thì không được sát sinh (nếu muốn đuổi gà thì tay cầm sào xua nhưng miệng vẫn phải gọi gà). Người được cấp tới bậc này khi chết về âm phủ được xếp vào hàng tiên gia và được hưởng mọi sung sướng ở cõi âm.

Để tổ chức một lễ cấp sắc phải có 8 ông thày bảo hộ và giúp đỡ, mỗi ông thày có một nhiệm vụ riêng:
Thày 1(còn được gọi là ông thày chính): Có nhiệm vụ dạy dỗ trò suốt đời, và trò phải có nghĩa vụ cúng thày suốt đời.
Thày 2: là thày cấp phép.
Thày 3: là thày chứng nhận người được cấp sắc đã thành thày.
Thày 4: là thày bảo hành (trò có gì sai trái thì được thày bảo lãnh cho).
Thày 5: là thày dẫn đi lấy nước Hà Bá.
Thày 6: là thày truyền phép.
Thày 7 và thày 8: là thày kết quy (có nhiệm vụ định và dọn chỗ cho trò ngồi).

Ngoài ra còn có một người thứ 9, người này không phải là thày nhưng có nhiệm vụ thắp hương trong suốt quá trình làm lễ cấp sắc.
Để tỏ lòng thành kính với các thày, trò phải có nghĩa vụ cúng cả 8 thày giúp đỡ và cả vợ chồng người thắp hương suốt đời.
Thông thường một lễ cấp sắc bao gồm 10 bước chính:
Bước thứ nhất là thỉnh thánh.
Bước thứ hai là phát giấy thông hành đi mời thánh

Bước thứ ba là tế.
Bước thứ tư là khao quân.
Bước thứ năm là dâng sớ báo cáo tổ tiên.
Bước thứ sáu là trình sớ để được cấp ấn và cấp sắc.
Bước thứ bảy là cúng bát tiên.


Bước thứ tám là đi lấy nước Hà Bá về đun nước pha trà kính thánh (trước khi đi lấy nước thì anh em, con cháu mỗi người mừng 2m vải đỏ quàng vào người được cấp sắc, rồi đệ tử và sư phụ hát đối đáp với nhau, đệ tử xin sư phụ cấp cho lương thực và binh lính để bảo vệ đệ tử đi lấy nước hà bá).

Bước thứ chín là cấp phép.
Bước thứ mười là làm lễ khao quân.

Tiến trình của mỗi bước được diễn ra từ khoảng 1 đến 2 tiếng. Nội dung của các bước chủ yếu là hát, nhảy, đọc sớ...Nhạc cụ dùng để nhảy và hát là linh dao cùng tù và.

Trong tất cả các bước thì đặc sắc nhất là bước cấp phép để trở thành thày. Để cấp sắc thì thày và trò phải cầm tay nhau, thày hỏi và trò trả lời:
Thày: Hôm nay anh cầm tay tôi làm gì? học phép hay đối phép?
Trò: Con học phép.
Thày: Anh có biết trên là gì? dưới là gi?
Trò: Trên là trời, dưới là đất.
Thày: Hôm nay anh biết trên trời, dưới đất thì nhất trí truyền phép cho anh. Thế trời là gì? đất là gì?

Trò: Trời là cha, đất là mẹ.
Thày: Anh hôm nay biết trên trời, dưới đất, biết đến cha, đến mẹ thì nhất trí truyền phép cho anh.
Và thày cấp cho trò các vật dụng: Bát hương, dấu ấn, sắc lệnh cùng các vật dụng khác: tù và, linh dao, nón, lương thực...

Kể từ đây trò đã trở thành thày cúng và đã có thể bảo vệ được bản thân, gia đình và đi trị bệnh cứu người. Kể từ khi trở thành thày thì sẽ phải kiêng suốt đời các thứ: Không ăn thịt chó, thịt rắn, ba ba. Không được uống rượu ở các bàn vong.

Có thể nói lễ cấp sắc của người Sán Dìu là một loại hình sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng vừa là công việc của riêng của gia đình, vừa là sinh hoạt mang tính cộng đồng của dòng họ, xóm làng. Thông qua tục cấp sắc cũng thể hiện được tính cộng đồng sâu sắc, thể hiện tình làng, nghĩa xóm, và cái quan trọng nhất là hướng con người đến cái thiện: Kính trọng thầy giáo, biết ơn cha mẹ, tôn trọng bạn bè... Chính những điều đó đã tạo nên nét riêng biệt và đặc sắc của văn hóa truyền thống người Sán Dìu.
 Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)

Trang nhã váy áo phụ nữ Sán Dìu (Đàm Kim Phượng)

Nhìn tổng thể, bộ áo váy phụ nữ Sán Dìu được làm với gam màu chàm chủ đạo gồm khăn đội đầu, áo yếm, áo dài xẻ tà hai bên, váy dài qua đầu gối, thắt lưng và bắp chân cuốn xà cạp trắng. Đơn giản và không thêu thùa sặc sỡ nhưng trang phục của phụ nữ Sán Dìu trông khá bắt mắt.

Áo yếm của người phụ nữ Sán Dìu là một mảnh vải hình thoi, gồm có bốn cạnh, trên đầu mỗi cạnh là một dây dài dùng để buộc lên cổ khi mặc, hai dây ngang eo buộc sau lưng. Áo yếm tạo cho người mặc gọn gàng hơn. Cổ áo được trang trí bằng việc đính hai chiếc khuy áo bằng bạc, với tua rua xanh đỏ ở đuôi khuy đẹp mắt. Hai bên mép áo và ống tay được tinh tế bằng nẹp màu trắng, trông khá đơn giản nhưng trang nhã, tạo điểm nhấn ở tay áo cho người mặc bộ trang phục.

Những chiếc khăn đội đầu được người phụ nữ Sán Dìu dùng để làm đẹp nhưng cũng để mái tóc của mình gọn gàng hơn trong lúc lao động.

Vòng trang sức là đồ vật không thể thiếu trong trang phục truyền thống của phụ nữ Sán Dìu.

Người phụ nữ Sán Dìu hay mặc áo yếm bên trong và áo dài được xẻ tà hai bên ở ngoài áo yếm. Cổ áo được trang trí bằng việc đính hai chiếc khuy áo bằng bạc, với tua rua xanh đỏ ở đuôi khuy đẹp mắt.

Việc may những nẹp trắng ở ống tay áo và mép áo tạo sự nổi bật cho gam màu chàm chủ đạo trong trang phục của phụ nữ Sán Dìu.

Phụ nữ Sán Dìu dùng những dây vải màu sắc xanh, đỏ, tím để làm thắt lưng.

Người phụ nữ Sán Dìu thường cuốn xà cạp màu trắng để bảo vệ đôi chân như tránh bị gai cào vào chân hay tránh bị côn trùng đốt trong lúc lao động. 

Vào những dịp lễ hội, những cô gái dân tộc Sán Dìu vẫn thường mặc trang phục truyền thống để cùng những chàng trai thể hiện những làn điệu hát truyền thống của dân tộc mình.

Không sặc sỡ và lấy màu gam màu chàm là gam màu chủ đạo, trang phục truyền thống của phụ nữ Sán Dìu vẫn thể hiện sự độc đáo mang nét bản sắc riêng.

Đặc biệt, để làm nổi bật bộ trang phục, phụ nữ Sán Dìu dùng những dây vải màu sắc xanh, đỏ, tím để làm thắt lưng buộc ngang lưng và tạo độ xòe cho áo, váy.

Vào dịp lễ hội truyền thống của dân tộc, phụ nữ Sán Dìu vẫn thường mặc những bộ trang phục truyền thống để làm những nghi lễ về tâm linh.

Váy được người phụ nữ Sán Dìu may 2 miếng vải phía trước và phía sau lồng vào nhau ở 2 bên, rồi dùng dây vải có màu xanh đỏ có độ dài khoảng 1m để thắt ngang lưng, tạo độ xòe cho váy ở bên dưới, đồng thời cũng để người mặc cảm thấy thoải mái khi lao động hoặc đi chơi. Phụ nữ Sán Dìu thường mang thêm xà cạp màu trắng để bảo vệ đôi chân như tránh bị gai cào vào chân hay tránh bị côn trùng đốt trong lúc lao động.

Đặc biệt, khi mặc trang phục truyền thống, người phụ nữ Sán Dìu thường đeo thêm vòng cổ được làm bằng bạc được uốn cong thành hình tròn, vòng luôn có chu vi rộng hơn vòng cổ bình thường.

Có thể nói, trang phục ngày thường của người phụ nữ Sán Dìu là bộ trang phục khá đơn giản nhưng vẫn thể hiện sự độc đáo mang nét bản sắc riêng về lối sống và văn hóa của dân tộc người.

Đàm Kim Phượng (sưu tầm)

Tết Thanh Minh của đồng bào dân tộc Sán Dìu (Hải Yến)

Tháng ba, tiết trời dịu nhẹ pha cái rét hanh hao như muốn nhắc trời còn xuân. Tháng ba cũng là tháng diễn ra nhiều ngày lễ truyền thống của người Việt: Tiệc mùng Ba tháng Ba thơm mùi bánh trôi “bảy nổi, ba chìm”, rồi ngày Giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba gợi nhắc con cháu nhớ về quê cha, đất Tổ và không thể quên ngày Tết Thanh minh mà đại thi hào Nguyễn Du đã viết:

"Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"
Ngày Tết Thanh minh người Việt thường đi tạ mộ (tảo mộ) để tưởng niệm hương hồn người đã khuất và sửa sang phần mộ vốn được coi là “nhà cửa” của tổ tiên và người thân. Việc chăm sóc, cúng bái nơi phần mộ thể hiện nét văn hóa tâm linh, phong tục tập quán của từng dân tộc. Nếu người Kinh ở một số nơi thường đi tảo mộ vào dịp cuối tháng Chạp với ý nghĩa mời ông bà, tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu thì người Sán Dìu lại đi tảo mộ vào đúng dịp thanh minh ghi trong lịch âm để mong tổ tiên phù hộ cho con cháu sáng tỏ thông minh như ý nghĩa của hai từ “Thanh minh”. Tùy vào từng năm, ngày Tết Thanh minh sẽ xê dịch khác nhau, nhưng thường rơi vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch. Đồng bào Sán Dìu rất coi trọng ngày Tết Thanh minh và tổ chức khá linh đình với nghi lễ mang bản sắc rất riêng.
Chúng tôi tìm về miền Cửu Yên, xã Hợp Châu (Tam Đảo) - nơi đa số là người dân tộc Sán Dìu sinh sống để tìm hiểu bản sắc riêng ấy trong ngày Tết Thanh minh. Người Sán Dìu Hợp Châu nói riêng và huyện Tam Đảo nói chung có phong tục “nhất táng thiên thu” người chết chỉ chôn một lần, không cải táng như phong tục của người Kinh, do vậy, việc chăm sóc “nhà cửa” của tổ tiên, ông bà, cha mẹ hàng năm rất được coi trọng. Tại khu nghĩa địa của hai thôn Cửu Yên 1 và Cửu Yên 2 rất nhiều gia đình đang sắm lễ tảo mộ tại các mộ phần của tổ tiên mình với lòng thành kính. Ông Tạ Văn Liên – Thôn Cửu Yên, xã Hợp Châu cho biết: “Người Sán Dìu chúng tôi rất coi trọng tết Thanh minh. Hàng năm, sẽ có một ngày chính nó cách 106 ngày sau ngày tết Đông chí. Năm 2016 này là ngày 4/4 dương lịch, trước hoặc sau 3 ngày (lấy ngày chính hội làm mốc), người Sán Dìu sẽ tụ họp con cháu trọng họ đi tảo mộ để cầu mong tổ tiên phù hộ. Trước đây, trước ngày đi tảo mộ, người phụ nữ Sán Dìu thường đi đi kiếm lá lau xau trên rừng, chém nhỏ mang ngâm lấy nước, bỏ bã, lấy một con dao cùn nung đỏ rồi nhúng vào nước ngâm lá lau xau, vo gạo nếp, để khô rồi ngâm gạo vào nước lá lau xau đã đun sôi, sau đó lấy gạo đó mang đồ xôi, xôi sẽ có màu đen, gọi là xôi đen. Nhưng ngày nay, lá lau xau rất khó kiếm nên người Sán Dìu đã thay bằng xôi đỗ, xôi trắng để cúng tổ tiên với ngụ ý là mong muốn được con đàn cháu đống.
Đến mỗi ngôi mộ, người Sán Dìu sẽ dọn sạch cỏ dại, đắp lại đất cho gọn gàng hoặc quét lại vôi cho mới. Sau đó, treo 5 cán cờ nhỏ có dán giấy hình nhân với màu sắc rực rỡ ở 4 góc mộ và chính giữa mộ. Mộ nào có nhiều cờ hình nhân treo lên 5 cán thì chứng tỏ người đó có đông con, đông cháu. Mâm cơm cúng của người Sán Dìu ở mộ gồm có 5 nắm xôi, 5 con cá trôi trắng nướng, 5 chén rượu. Người già nhất trong gia đình sẽ đọc bài cúng thể hiện sự thành kính và cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu có cuộc sống khỏe mạnh, đủ đầy. Khi hương tàn, tất cả mọi người ngả mâm quây quần cùng ăn ngay tại mộ, chuyện trò vui vẻ như muốn tri ân cùng người quá cố.
Ông Lâm Văn Chân – Thôn Cửu Yên 1, xã Hợp Châu chia sẻ: “Sau khi cả dòng họ cùng tảo mộ của những mộ phần của ông bà tổ tiên cách đó khoảng 2 hôm thì đến ngày chính tết Thanh minh con cháu từng gia đình lại có lễ vật riêng để đi ra tảo mộ để thể hiện sự thành kính và cầu mong tổ tiên phù hộ cho gia đình nhà mình”. Ngày tảo mộ thì có thể trước, sau 3 ngày nhưng đến ngày chính thanh minh thì mỗi gia đình lại tập trung con cháu làm cơm cúng tại nhà. Mâm cơm ở nhà cũng đơn giản không cầu kỳ tùy thuộc gia cảnh của từng gia đình nhưng thường có gà, có bánh con, bánh trôi… Sau khi cúng tổ tiên xong thì con cháu anh em trong nhà cùng nhau ăn uống sum vầy, đầm ấm.
Tết Thanh minh tuy là tết nhỏ, nhưng nó mang ý nghĩa lớn là sự báo hiếu đối với những người đã khuất trong dòng họ, là dịp để các thành viên trong gia đình thể hiện lòng biết ơn và ôn lại truyền thống tốt đẹp của họ tộc, cũng là dịp để cao niên trong họ truyền lại cho con cháu đời sau ghi nhớ đến phần mộ của ông bà, tổ tiên. Đây cũng là nét đẹp mang bản sắc của người Sán Dìu cần được gìn giữ và lưu truyền cho muôn đời sau./.
                                                                                                                      Hải Yến (sưu tầm)

Tranh thờ của dân tộc Sán Dìu, Tuyên Quang (Hoàng Thoại)

Trong truyền thống văn hoá các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán mang bản sắc riêng. Tranh thờ của dân tộc Sán Dìu – một nghệ thuật dân gian độc đáo.
Dân tộc Sán Dìu trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 12.000 người, tập trung chủ yếu ở huyện Sơn Dương. Dân tộc Sán Dìu còn có nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, trong đó tranh thờ là nghệ thuật dân gian được nhân dân lưu giữ như vốn cổ quý báu của mình.

Tranh thờ của dân tộc Sán Dìu có từ rất lâu, không rõ người sáng tác. Những bức tranh thờ cổ hiện nay chỉ được một số gia đình ở xã Thiện Kế, Sơn Nam (Sơn Dương) lưu giữ. Ông Bàng Văn Lục, thôn Thiện Phong, xã Thiện Kế (Sơn Dương), người có bộ tranh thờ cổ độc đáo. Màu của tranh được làm từ các loại cây, đất có sẵn ở thiên nhiên rất bền màu. So với các bộ tranh thờ khác, bộ tranh của ông Lục lưu giữ có thời gian lâu nhất. Những thầy cúng khi đi thực hành nghi lễ thường có nhiều dụng cụ như: Tượng Thích Ca, rồng bằng đồng, cây tích trượng, lệnh bài… và bao giờ cũng có tranh thờ. Sự hiện diện của các hình tượng trong tranh thờ tượng trưng cho các nhân vật tồn tại trong trí tưởng tượng về thế giới tâm linh của con người. Việc hành lễ của các thầy cúng đồng nghĩa với sự tồn tại của tranh thờ. Dân tộc Sán Dìu còn có tranh Thánh, bộ Tam Đàn. Tranh Thánh được dùng làm ma cho thầy cúng. Sau một thời gian thầy cúng qua đời, gia đình tổ chức lễ cúng, trong buổi lễ được sử dụng tranh Thánh. Bộ Tam Đàn dùng để treo ở bàn thờ Thánh, với ý nghĩa để bảo vệ cho con cháu thầy cúng.

Ông Trần Văn Thắng, thôn Cao Đá, xã Sơn Nam (Sơn Dương) cho biết: Qua những bức tranh ấy, với những nét vẽ giản dị và gần gũi, có thể hình dung một cách cụ thể về những vị thần, vị thánh và Phật mà họ thường ngưỡng vọng. Quan niệm của dân tộc Sán Dìu, thế giới có 3 tầng: Tầng trên là thế giới của tổ tiên, các vị thần đức cao, vọng trọng; tầng giữa là nơi người trần mắt thịt tồn tại với hiện thân là con người; tầng dưới là thế giới âm phủ, địa ngục. Tranh thờ của dân tộc Sán Dìu phản ánh sinh động thế giới quan, thời gian trải rộng từ quá khứ tới hiện tại, từ ảo đến thực.

Trước kia, giấy vẽ tranh thờ là loại giấy dó thủ công khá dày, loại giấy rất dai và bền. Giấy có màu nâu, bản rộng nên dễ vẽ và thể hiện màu sắc. Hiện nay ở tỉnh ta không còn nghệ nhân sáng tác tranh thờ mà chỉ có những người chép lại tranh cổ. Các bức tranh thờ sau này đều được sao chép lại theo kiểu truyền thống. Giấy vẽ và màu sắc đến nay đã có những thay đổi. Cách đây khoảng hơn 10 năm, tranh thường được vẽ trên giấy của vỏ bao xi măng, chất liệu này thường dai, chịu đựng được thời tiết nóng ẩm của khí hậu miền Bắc và có màu gần với màu của giấy dó. Trong khoảng 1, 2 năm trở lại đây, tranh thờ bắt đầu được vẽ nhiều trên vải. Người ta sử dụng phẩm màu để vẽ, đồng thời sử dụng công nghệ in hiện đại nhằm tạo ra các bức tranh có màu sắc sặc sỡ và tươi mới. Như vậy, cách làm tranh thờ đã có một quá trình phát triển không ngừng, từ cổ xưa đến hiện tại, từ cách làm thủ công đến hiện đại. Tuy nhiên, tranh thờ của dân tộc Sán Dìu vẫn giữ được bản chất và cái “hồn” của người Sán Dìu.

Để giữ được nghệ thuật dân gian độc đáo của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh ta nói chung và ở huyện Sơn Dương nói riêng, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân gian của dân tộc mình. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa chuyên sâu về dân gian các dân tộc. Tích cực mở rộng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên địa bàn qua nhiều hình thức như tổ chức lễ hội, triển lãm, biểu diễn văn nghệ, giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng… nhằm quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đã được hình thành từ lâu. Đồng thời, loại bỏ những sản phẩm văn hóa tiêu cực hoặc có mầm mống tiêu cực làm ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, việc tổ chức các hoạt động văn hóa trong Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam sẽ góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những hoạt động trong Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam cần được lan tỏa, phổ biến rộng rãi để trở thành hoạt động văn hóa thường niên. Các cấp, các ngành và các địa phương trong tỉnh cũng cần nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam, qua đó nâng cao ý thức và trách nhiệm với việc tổ chức các hoạt động trong ngày hội này.
 Hoàng Thoại (sưu tầm)

Hát đối đáp trong đám cưới của người dân tộc Sán Dìu (Đỗ Anh Chử)

Hát đám cưới hay còn gọi là hát đối đáp, thể hiện nét văn hóa, phong tập-tập quán cổ truyền của người dân tộc Sán Dìu, nó đã trở thành một loại hình nghệ thuật độc đáo. Tuy nhiên, ngày nay nét văn hóa ấy dần bị mai một do nhiều yếu tố khác nhau. Vừa qua người ta ôn lại truyền thống bản sắc văn hóa này ở thôn Muối xã Giáp Sơn.

Hát đám cưới hay còn gọi là hát đối đáp, thể hiện nét văn hóa, phong tập-tập quán cổ truyền của người dân tộc Sán Dìu, nó đã trở thành một loại hình nghệ thuật độc đáo. Tuy nhiên, ngày nay nét văn hóa ấy dần bị mai một do nhiều yếu tố khác nhau. Vừa qua Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh Bắc Giang đã tổ chức trình diễn, ôn lại truyền thống bản sắc văn hóa này ở thôn Muối xã Giáp Sơn. 


Chọn được ngày lành tháng tốt, hai ông bà Lưu Văn Pèng và Lý Thị Nà-họ nhà trai, ông Đặng Văn Thắng và bà Nhiêu Thị Leo-họ nhà gái đã quyết định tổ chức hôn lễ cho hai con. Để chuẩn bị cho hôn lễ chính thức, buổi chiều ngày hôm trước nhà trai đã chuẩn bị một lễ ăn hỏi. Ở các dân tộc khác, lễ hỏi có thể chỉ bằng tiền mặt, nhưng lễ hỏi của người Sán Dìu phải có lợn hơi, rượu, gà, hai sợi chỉ tơ hồng luồn qua hai quả trứng và hai đồng tiền xèng, một chai rượu trắng được bọc trong đọ đan bằng tre- nút chai bằng một quả cau tươi.v.v.
Thành phần đi ăn hỏi cũng phải được lựa chọn kỹ lưỡng, trưởng đoàn vừa phải khéo ăn nói vừa phải nhanh trí trong ứng xử và hát đối đáp. Sau 1 giờ hành trình, đoàn ăn hỏi của họ nhà trai đã có mặt ở cửa họ nhà gái. Tại đây nghi thức hát đối đáp chính thức được bắt đầu. Hôm ăn hỏi, hát đối đáp của dân tộc Sán Dìu được xem là quan trọng nhất trong phần nghi lễ và chia làm 4 phần riêng biệt. Phần hát chào đón được thể hiện ngay khi hai họ gặp nhau. Sau khi lễ vật bày trước cửa, nhà gái ra vế đối (dịch tiếng phổ thông):
Lễ nghi họ gái bày trước cửa 
Thiếp hồng nghênh tiếp giữa đường môn
Hôm nay ngày đẹp thành hôn lễ 
Chào đón quan viên họ trai sang 
Họ nhà trai hát đáp lời: 
Sao sáng đến gặp mây tương ngộ 
Một lòng một dạ đến hết duyên 
Hôm nay ngày đẹp thành hôn lễ 
Lễ vật dẫn sang kính gia tiên…
Sau phần hát chào đón là phần hát "khai hoa tửu" của họ nhà gái. Phần này có thể hiểu là những lời dặn dò của cha mẹ đối với con gái trước khi làm dâu nhà người. Phần hát "cung kính và chúc phúc" của hai họ có đại ý là hát kính tổ tiên và lời chúc hai gia đình thông gia, chúc mừng cô dâu, chú rể:
Quan viên hai họ cùng dâng lên
Dâng chén rượu đào kính gia tiên
Hai nhà thông gia thành hôn lễ 
Hạnh phúc đôi trẻ mãi vững bền 
Rể tài, dâu sắc luôn hạnh phúc
Ra hoa, kết trái truyền tương lai 
Chúc hai nhà thông gia hạnh phúc 
Tận hưởng niềm vui phúc lộc đầy. 
Phần "đố chuyện nghi lễ" là phần cuối cùng trong tục hát đối đáp đám cưới của dân tộc Sán Dìu. Phần này có ý cả hai họ hỏi thăm nhau, họ nhà trai xin phép họ nhà gái được đón cô dâu vào ngày giờ hôm sau như đã định. Đố chuyện xong, ông đại diện họ nhà gái pha hai quả trứng vào bát rượu rồi rót kính gia tiên trên bàn thờ, còn lại mời quan viên cùng nâng ly chúc mừng hai họ, chúc mừng cô dâu chú rể kết tóc vợ chồng trăm năm hạnh phúc.
Bà Lưu Thị Thịnh là một thành viên trong đoàn hát đối đáp họ nhà trai trong đám cưới. Bà sống ở thôn Muối xã Giáp Sơn từ nhỏ nhưng đã lâu lắm rồi bà mới lại được sống lại cảm giác mấy chục năm về trước, đó là được đi xem người lớn hát. Trong những lần như thế bà không chỉ học được cách hát, mà sau đó bà còn dạy bảo cho con cháu thế hệ sau.
Ông Vũ Hồng Bàng- Giám đốc Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Giang cho biết: thực hiện nghị quyết Trung ương 5 (khóa 8) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh Bắc Giang đã xây dựng kế hoạch trình diễn nhằm từng bước khôi phục lại loại hình văn hóa nghệ thuật độc đáo này. Hát đám cưới hay còn gọi là hát đối đáp của dân tộc Sán Dìu nói chung là một loại hình văn hóa độc đáo thể hiện nhiều ý nghĩa sâu sắc. Sưa kia ở các đám cưới của dân tộc Sán Dìu đều có hát đối đáp, nhưng ngày nay do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nét văn hóa này dần bị mai một. Chính vì vậy việc trình diễn và dần khôi phục lại loại hình hát đám cưới (hát đối đáp) của dân tộc Sán Dìu sẽ duy trì và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa của dân tộc Sán Dìu nói riêng

Đỗ Anh Chử (sưu tầm)

Saturday, August 13, 2016

Lễ hội Đại Phan của người Sán Dìu (Hoàng Thị Khuyên)

Lễ hội Đại Phan là lễ hội tín ngưỡng dân gian độc đáo của người Sán Dìu, thường tổ chức vào dịp đầu Xuân.
Người Sán Dìu là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Các tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy xẻ.
Dân tộc này thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa. Dân tộc Sán Dìu được tạo lập từ thời nhà Minh tại Quảng Đông (Trung Quốc) sau đó dần dần di chuyển đến Việt Nam.

Mặc dù nói tiếng Quảng Đông và sử dụng chữ Hán, người Sán Dìu không được Chính phủ Việt Nam phân loại là người Hoa.
Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở miền trung du các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương (tổng cộng khoảng 97%).
Một số di cư vào Tây Nguyên lập nghiệp, thành các làng hay sống rải rác tại các tỉnh thành khác.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Sán Dìu ở Việt Nam có dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành.
Người Sán Dìu cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (44.131 người, chiếm 30,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Vĩnh Phúc (36.821 người, chiếm 25,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Bắc Giang (27.283 người), Quảng Ninh (17.946 người), Tuyên Quang (12.565 người), Hải Dương (1.872 người), Đồng Nai (850 người), Hà Nội (832 người), Lâm Đồng (662 người), Đăk Nông (617 người)…
Trang phục của người Sán Dìu đã và đang đổi thay gần giống trang phục người Kinh. Phụ nữ Sán Dìu có tập quán ăn trầu và thường mang theo mình chiếc túi vải đựng trầu hình múi bưởi có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ, và kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp.
Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, có phần nương, soi, bãi. Thêm vào đó còn có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát...
Từ lâu đời, người Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt (không cần bánh lăn) dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ.
Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng. Ngoài ra họ còn hay uống rượu trong si. Trong mỗi mộ của người Sán Dìu phải có 1 bộ cờ dây (5 cờ) được làm từ giấy với đủ loại màu khác nhau. Với những mộ của người là thầy cúng thì con hoặc cháu cắm thêm cờ tam giác.
Thơ ca dân gian của người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (Soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma.
Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc được họ ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co.
Cây nêu trong lễ hội này được gọi là cây Phan Chốc. Đại Phan là nghi lễ rửa tội không chỉ cho vong nhân mà cho cả những người đang sống.
Trong lễ hội này các thầy cúng đốt củi lấy tro than trải ra một quãng đường khoảng 6,5 m và dân làng lội qua đường than ấy để thanh sạch tâm tư, trút bỏ mọi phiền muộn. Thầy cúng còn thực hiện nghi thức leo lên hai cây dương và cây âm. Mỗi cây này có gắn 12 lưỡi dao tượng trưng cho 12 tầng trời và 12 khổ nạn mà con người phải trải qua. Các lưỡi dao đều quay lên trên và chỉ có lưỡi dao gần trên cùng của cây âm là quay xuống dưới. Vào ngày thứ ba của nghi lễ, thầy cúng leo lên và đến mức thang cao nhất vẫn không đổ máu... Thầy cúng vẩy thóc gạo ra mọi phía cho dân chúng đón lấy coi như lộc trời ban cho dân bản no ấm.
Trước nguy cơ đang bị mai một, ngành văn hóa Quảng Ninh đang cố gắng phục dựng lại lễ hội này.
Hoàng Thị Khuyên (sưu tầm)

Độc đáo Tết của người Sán Dìu ở Bắc Giang (Lương Thị Tăng)

Bà con dân tộc Sán Dìu xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn gói bánh Chưng chuẩn bị Tết Nguyên đán

Đối với mỗi người dân đất Việt, Tết cổ truyền dân tộc bao giờ cũng thiêng liêng nhất. Ở tỉnh Bắc Giang, có khá nhiều phong tục đón Tết độc đáo, giàu bản sắc dân tộc. Một trong số đó phải kể đến phong tục đón Tết của đồng bào dân tộc Sán Dìu, huyện Lục Ngạn (Bắc Giang).

Theo phong tục, những ngày giáp Tết, phần lớn mọi nhà tự chưng cất rượu để uống và mời khách trong những ngày xuân. Men rượu được làm từ các loại thảo dược bổ dưỡng như vạt hương, tai chó, cây trăm rễ... Quá trình nấu rượu cũng hết sức cầu kỳ, công phu như gạo nấu phải ngon, đun đều lửa. Rượu men lá có hương vị thơm nồng, dễ uống, say êm.
Trước Tết từ 1-2 ngày, các gia đình tổ chức gói bánh chưng. Cùng với nguyên liệu như gạo, đỗ xanh, thịt lợn có sẵn của nhà, bà con còn dùng lá ỏng, một loại cây thuốc quý trồng trên rừng để bọc bên trong chiếc bánh, bên ngoài là lá rong. Ưu điểm của loại lá ỏng là khi bóc bánh rất chóc, không bị dính. Bánh chưng được gói hình thon dài. Khi luộc chín bánh dẻo, mịn, có vị thơm bùi.

Giấy đỏ được dán lên các vị trí quan trọng trong nhà của đồng bào Sán Dìu trong ngày Têt

 Người Sán Dìu rất chú trọng trang trí nhà cửa, gần tết nhà nào cũng chuẩn bị giấy đỏ để trang trí quanh nhà. Mỗi mảnh giấy dài khoảng 15cm, rộng 6 cm và được dán lên các vị trí như bàn thờ tổ tiên, trước cửa ra vào, ngoài cổng, chuồng trâu, lợn... cây cối hoặc các vật dụng lao động sản xuất như cuốc, xẻng, lưỡi cày... Theo đồng bào dân tộc Sán Dìu, màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn, tốt đẹp.
Ngày 30 tết, các gia đình đều thịt lợn làm giò, chả, nem cùng nhiều thực phẩm mang đậm nét đặc trưng ngày Tết. Trên bàn thờ tổ tiên, ngoài bánh chưng, thịt lợn, thịt gà, rượu trắng, bánh kẹo hoa quả và đồ vàng mã, không thể thiếu 2 cây hoa cải vàng. Đây là biểu tượng của một năm mùa màng bội thu, thắng lợi; mọi người mạnh khỏe, đoàn kết. Dịp Tết, các gia đình hay mời thày cúng đến làm lễ tại nhà. Trên bàn thờ, đều dán bùa trấn trạch để trừ ma, quỷ.
Sáng mồng một tết, người Sán Dìu không ăn mặn mà ăn chay.
Đây là một tập quán khá đặc biệt. Đồ chay là cháo chè. Cháo chè được nấu từ gạo nếp cùng đỗ xanh và đường. Trên mâm cúng bao giờ cũng có 5 bát cháo. Trong lễ cúng chay, thày cúng, hoặc chủ nhà gõ chùng chọe thanh la và thổi tù và, chiêu quân âm binh về ăn Tết, phù hộ, độ trì cho gia chủ. Sau khi tục cúng chay hoàn tất, mọi người trong gia đình quây quần, cùng nhau thưởng thức đồ chay do chính tay mình làm. Hương vị thơm mát, ngọt nhẹ của món cháo chè trong ngày mồng một tết khiến ai ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Trong phong tục đón Tết của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, có một điều rất thú vị, độc đáo đó là tục gánh nước vào sáng mồng 1 tết. Sáng sớm, con cháu của gia đình ra sông, suối mang theo thùng nước cùng khoanh bánh chưng, giấy bạc, thắp hương xin phép các vị thần mua nước về nhà. Nếu gánh nước đó nặng, năm đó gia đình sẽ làm ăn phát tài, thóc lúa đầy bồ, chăn nuôi thuận lợi. Nước còn được đun sôi để pha trà, hay nấu cháo chè.
Trong 3 ngày tết, ngày mồng hai được coi là ngày Tết chính. Vào ngày này, các thành viên trong gia đình đều tụ họp đông đủ. Gia đình nào có con gái lấy chồng ở xa thì vào ngày mồng hai vẫn lặn lội về nhà đẻ để chúc Tết, mừng lì xì cho ông, bà, bố mẹ. Từng gia đình, dòng họ làm cỗ mời anh em, họ hàng, người thân. Quanh mâm cơm ngày Tết, mọi người cùng nhau hỏi thăm, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi và chúc nhau những điều tốt đẹp nhất trong năm mới.
Ngày mồng một và mồng hai, người Sán Dìu kiêng quét nhà. Tất cả rác nếu có sẽ được thu gom lại một góc trong nhà. Việc quét nhà được làm vào sáng mồng ba tết. Rác được hót vào một chiếc rá rách, trong đó có một mẩu bánh chưng và 3 nén hương, sau đó được đưa ra đổ ở gốc cây, bờ bụi nào đó ở ngoài cổng. Tục lệ này nhằm để đuổi ma đói ra khỏi nhà.
Một nét đẹp văn hóa đặc sắc của người Sán Dìu trong những ngày Tết là việc tổ chức hát Sọong cô. Theo tiếng Sán Dìu, Sọong nghĩa là hát, còn cô nghĩa là ca. Ở từng thôn, bản, từng tốp thanh niên, trung niên thậm chí cả người cao tuổi, mỗi tốp gồm khoảng 4-8 người, bên nam, bên nữ tập trung hát ở nhà văn hóa hoặc sân đình, chùa, thậm chí trong khu vườn rộng, hoặc bên bờ suối. Đặc biệt, những gia đình nào được khách đến chơi và ca hát tại nhà thì đó là một niềm vinh hạnh. Chính vì lẽ đó, gia chủ rất phấn khởi, đón tiếp khách nồng hậu, chu đáo. Lời ca và giai điệu của Sọong cô mềm dẻo, đầy sức lan tỏa, diễn đạt tâm tư tình cảm của người hát, làm mê say lòng người. Nội dung của những bài hát Sọong cô trong những ngày xuân là những lời chúc sức khỏe, cầu mong mùa màng bội thu, súc vật không bị dịch bệnh, nhà nhà no đủ.
Trong những ngày xuân, đồng bào dân tộc Sán Dìu thường tổ chức nhiều trò chơi dân gian và hoạt động thể thao như tát cầu mây, đánh xèng, đánh đáo. Đây là những trò chơi phổ biến trong những ngày Tết, lễ hội và được lưu truyền từ đời này, qua đời khác
Lương Thị Tăng (sưu tầm). 

Người dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang: Giữ báu vật Soọng cô (Hoàng Thị Vinh)

Cộng đồng người dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang có hơn 10.000 người. Tuy mới chiếm khoảng 1,4% dân số toàn tỉnh nhưng đồng bào Sán Dìu lại có những đóng góp rất lớn trong kho tàng văn hóa của tỉnh nhà. Một trong những báu vật văn hóa mà người Sán Dìu còn lưu truyền là hát Soọng cô - một Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia mới được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận.

     Người Sán Dìu ở xã Ninh Lai (Sơn Dương) rất tự hào với bà con trong vùng khi biết làn điệu Soọng cô của họ đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Bao đời nay, câu hát Soọng cô đã ăn sâu vào trong đời sống văn hóa đồng bào nơi đây. Soọng cô không chỉ được hát ở các buổi giao lưu văn nghệ, các đám cưới, các buổi lễ truyền thống của đồng bào mà Soọng cô còn được nghe thấy trên cánh đồng, trên nương hay bên cánh nôi của một nhà ấm áp. Mấy năm nay, người Sán Dìu ở Ninh Lai có thêm một nơi để những người yêu làn điệu Soọng cô của dân tộc mình được hát, được nghe, được giao lưu, học hỏi. Ấy là Câu lạc bộ Hát Soọng cô của xã. Câu lạc bộ có hơn 100 thành viên, thôn nào trong xã cũng có người tham gia. Ông Lục Văn Bảy, Chủ nhiệm Câu lạc bộ hát Soọng cô xã Ninh Lai cho biết, mới đầu các thành viên chủ yếu là những người lớn tuổi nhưng thời gian gần đây, câu lạc bộ đã kết nạp thêm nhiều thành viên là thiếu nhi. Ông Bảy hy vọng, điệu ca độc đáo của dân tộc mình sẽ được thế hệ trẻ tiếp tục gìn giữ và phát huy trong tương lai.


Hát Soọng cô trong Lễ “Chắn cửa” ở đám cưới truyền thống dân tộc Sán Dìu.

    Xã láng giềng của Ninh Lai là Sơn Nam (Sơn Dương) cũng thành lập được Câu lạc bộ hát Soọng cô mấy năm nay. So với Ninh Lai, Câu lạc bộ ở Sơn Nam ít thành viên hơn nhưng lại có thành viên trẻ ngay từ những ngày đầu thành lập. Làn điệu Soọng cô hàng tuần được các thế hệ trước truyền cho giới trẻ qua những buổi sinh hoạt. Cái độc đáo của Soọng cô là hát không nhạc đệm, lời ca, giai điệu nằm ở trong ngôn ngữ của dân tộc Sán Dìu. Có lẽ vì thế mà những người trẻ tuổi khi được học hát Soọng cô rất dễ “mê” điệu hát của dân tộc mình. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hát Soọng cô có 3 môi trường diễn xướng. Hát trong nhà, hát trong đám cưới và hát trong lao động sản xuất. Hát trong nhà chủ yếu là những khúc hát giao duyên của các chàng trai, cô gái Sán Dìu khi đến thăm nhà, thăm làng nhau. Hát trong đám cưới thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc bằng những câu nói tâm tình giàu nhạc điệu. Hát trong lao động sản xuất là những câu hát được xướng ca trong những phút ngẫu hứng khi đi làm đồng, khi lên nương. Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Soọng cô không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật dân gian mà còn là tâm thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội nhất định. Sở dĩ như vậy bởi nội dung của Soọng cô là tất cả những gì hiển hiện trong đời sống bình dị của đồng bào Sán Dìu. Họ ca ngợi tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, quê hương xứ sở; đề cao lao động, phê phán cái xấu… và cả những lời răn dạy đạo đức cho con trẻ.

    Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, bảo tồn và phát huy loại hình dân ca đặc sắc này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. Nếu như trước đây, những câu hát Soọng cô được cất lên từ những không gian gắn liền với cảnh sinh hoạt đời thường, không khí lao động vui tươi, phấn khởi của nhân dân thì ngày nay Soọng cô ít được sống ở những môi trường diễn xướng tự nhiên như vậy. Soọng cô được thể hiện nhiều trên sân khấu, trong các buổi giao lưu văn nghệ nhưng với môi trường như vậy thì chưa thể hiện được hết sự sinh động mang đậm hồn cốt của nghệ thuật Soọng cô. Thêm vào đó, số người biết hát Soọng cô ở tỉnh ta không nhiều, phần lớn lại tập trung ở những người lớn tuổi. Những câu hát Soọng cô có giá trị thường được ghi chép lại bằng chữ Hán. Những người biết hát Soọng cô hiện nay lại ít người biết dịch lời bài hát từ tiếng Hán sang tiếng Sán Dìu hoặc tiếng Việt cho lớp trẻ.

    Trong các hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đặc sắc này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao cho các phòng chuyên môn tổ chức thành lập các câu lạc bộ hát Soọng cô ở các địa phương có đồng bào Sán Dìu sinh sống. Sở hỗ trợ, tập huấn, tạo điều kiện để các thành viên câu lạc bộ được tham gia sinh hoạt đều đặn, tiếp cận với các bài Soọng cô cổ và khuyến khích sáng tác, đặt lời mới cho phù hợp với đời sống hiện tại. Bên cạnh đó, Sở còn thực hiện tổng điều tra văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số để có căn cứ khoa học nhằm đánh giá, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể, góp phần nghiên cứu bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang. Cùng với đó, thực hiện bảo tồn làng văn hóa gắn với phát triển du lịch, bằng cách: Hỗ trợ tu sửa kiến trúc nhà truyền thống, khôi phục các đồ dùng sinh hoạt và công cụ sản xuất; phục hồi và duy trì nghề thủ công truyền thống... Từ đó tạo môi trường để các làn điệu dân ca, trong đó có Soọng cô được gìn giữ và phát huy giá trị.
Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)